Xem mẫu

  1. Việt Nam là một quốc gia trải qua hàng ngàn năm xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Qua lịch sử của một dân tộc giàu truyền thống như vậy thì đi cùng với đó là một nền văn hoá đặc sắc và đậm đà bản sắc của dân tộc. (đưa video clip vào) Dân Tộc Việt Nam – ngôi nhà chung của nhiều dân tộc. Các dân tộc cùng với bề dày văn hóa truyền thống của mình đã tạo nên 1 dân tộc VN phong phú, đa dạng và có bề dày văn hóa. Mỗi dân tộc đều là anh em, cùng mở mang gây dựng non sông "Tam sơn, tứ hải, nhất phần điền", với rừng núi trùng điệp, đồng bằng sải cánh cò bay và biển Đông bốn mùa sóng vỗ; bờ cõi liền một dãi từ chỏm Lũng Cú (Bắc) đến xóm Rạch Tàu (Nam), từ đỉnh Trường Sơn (Tây) đến quần đảo Trường Sa (Đông). Cả nước hiện có 54 dân tộc anh em. Trong số 54 dân tộc, có những dân t ộc v ốn sinh ra và phát triển trên mảnh đất Việt Nam ngay từ thửa ban đầu, có những dân t ộc t ừ n ơi khác l ần lượt di cư đến nước ta Chèn Clip Ngôn ngữ Một trang Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum tức Từ điển Việt-Bồ-La in năm 1651 Về mặt ngôn ngữ, các nhà dân tộc học đã chia các dân tộc ở Việt Nam thành 8 nhóm ngôn ngữ của họ: Nhóm Việt-Mường: gồm người Việt, người Mường, • người Chứt, người Thổ Nhóm Tày-Thái: gồm người Tày, Thái, Nùng, Bố Y, Sán • Chay, Lào,... Nhóm Dao-Hmông: gồm người Hmông, Dao, Pà Thẻn,... •
  2. Nhóm Tạng-Miến: gồm người Hà Nhì, Lô Lô, Si La, La Hủ,... • Nhóm Hán: gồm người Hoa, Sán Dìu, Ngái,... • Nhóm Môn-Khmer: gồm người Khmer, Kháng, Hrê, Xơ Đăng, Ba Na, Khơ Mú, Cơ Ho, Mạ, • Xinh Mun,... Nhóm Mã Lai-Đa đảo: gồm người Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Ra Glai, Chu Ru,... • Nhóm hỗn hợp Nam Á: gồm la Chí, La Ha, Pu Chéo, Cơ Lao,... • Mặc dù tiếng nói của các dân tộc thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau, song do các dân tộc sống rất xen kẽ với nhau nên một dân tộc thường biết tiếng các dân tộc có quan hệ hàng ngày, và dù sống xen kẽ với nhau, giao lưu văn hóa với nhau, nhưng các dân tộc vẫn lưu giữ được bản sắc văn hóa riêng của dân tộc mình. ở đây cái đa dạng của văn hóa các dân tộc được thống nhất trong qui luật chung - qui luật phát triển đi lên của đất nước, như cái riêng thống nhất trong cái chung của cặp phạm trù triết học Tiếng Việt thuộc về ngôn ngữ Việt-Mường, hiện nay là ngôn ngữ chính thức của nước Việt Nam, là tiếng mẹ đẻ của người Việt và đồng thời là ngôn ngữ hành chính chung của 54 dân tộc sống trên đất nước Việt Nam, tiếng Việt được 86% người dân sử dụng. Mặc dù là ngôn ngữ chung của người Việt nhưng nó có sự khác biệt về mặt ngữ âm và từ vựng ở các vùng miền dẫn tới phương ngữ tiếng Việt được phân chia làm nhiều vùng phương ngữ khác nhau từ miền Bắc, miền Trung và miền Nam Phong tục tập quán Theo nghĩa Hán-Việt, Phong là nền nếp đã lan truyền rộng rãi và Tục là thói quen lâu đầu. Phong tục ở Việt Nam có truyền thống lâu đời hàng ngàn năm nay, nó đã trở thành luật tục, sâu đậm và gắn chặt trong người dân có sức mạnh hơn cả những đạo luật. Theo sự thăng trầm của lịch sử của dân tộc, phong tục của người Việt Nam cũng không ngừng biến đổi theo trào lưu biến đổi văn hoá xã hội. Tuy nhiên có những phong tục mất đi những cũng có nhưng phong tục khẳng định được tính đúng đắn, cái hay, cái đẹp của nó qua việc những phong tục đó còn hiện hữu trong cuộc sống ngày nay của người Việt Nam Giao Thiệp Theo phong tục Việt Nam, "miếng trầu là đầu câu chuyện", miếng trầu tuy rẻ tiền nhưng chứa đựng nhiều tình cảm ý nghĩa, giầu nghèo ai cũng có thể có, vùng nào cũng có Tục ăn   trầu
  3. Tương truyền có từ thời Hùng Vương và gắn liền với một chuyện cổ tích nổi tiếng "chuyện trầu cau". Món trầu thể hiện nếp sinh hoạt mang đậm tính dân tộc độc đáo của Việt Nam.
  4. Hút thuốc lào Sẽ là thiếu nếu nhắc đến trầu mà không nhắc đến thuốc lào. Ða số giới nữ ăn trầu và miếng trầu là đầu câu chuyện còn đàn ông, thuốc lào gắn bó với họ lúc vui, buồn thậm trí suốt cả cuộc đời. Đám cưới Mỗi dân tộc có một nét văn hóa riêng, một phong tục cưới hỏi đặc trưng, đó là một nét đặc sắc, một tục lệ đã được truyền lại từ bao thế hệ.
  5. Tục cướp vợ của người H’mông Tục bắt chông của người Tây Nguyên
  6. Tục cưới 2 lần của dân tộc Dao Cưới vợ sau 3 năm ở rể của dân tộc Thái
  7. Kết hôn theo ông mai bà mối của người Chăm Đây là đám cưới của người Kinh Tết Nguyên Đán Cùng ra đời từ xa xưa với tục ăn trầu là phong tục đón năm mới hay còn gọi là Tết, Tết vừa là một phong tục đồng thời cũng là một tín ngưỡng và cũng là một lễ hội của người Việt cùng một số dân tộc khác
  8. Cúng tất niên Giao thừa và lễ trừ tịch   Chợ tết Nguyên Đán
  9. Tết Nguyên Đán Một số dân tộc khác đón năm mới trong thời gian khác và tên gọi đặc trưng của mình như Chol Chnam Thmay (khoảng tháng 4) của người Khmer, Katê (khoảng tháng 10) của người Chăm Bàlamôm,...Từ Tết Nguyên Đán đón năm mới, theo thời gian với những ảnh hưởng từ Trung Quốc, người Việt Nam bổ sung thêm vào những phong tục Tết khác như Tết Nguyên tiêu, Tết Đoan ngọ, Tết Trung thu, Tết Thanh minh[4] Tết Chol ChNam Thmay của ngườii Khơme
  10. Lễ tết cổ truyền người Chăm Múa xòe trong ngày tết của người Thái Tết người H’mông
  11. Tết của người Dao  Lễ hội Việt Nam Lễ hội ở Viet Nam đa dạng và phong phú. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, Việt Nam có gần 500 lễ hội cổ truyền lớn, nhỏ trải rộng khắp đất nước trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mỗi lễ hội mang một nét tiêu biểu và giá trị riêng, nhưng bao giờ cũng hướng tới một một đối tượng linh thiêng cần được suy tôn như những vị anh hùng chống ngoại xâm, những người có công dạy dỗ truyền nghề, chống thiên tai, diệt trừ ác thú, giàu lòng cứu nhân độ thế... Lễ hội Cổ Loa và các trò chơi dân gian
  12. Hội hoa Vị Khê (Làng Vị Khê, Nam Định) Bên cạnh các lễ hội lớn của người Việt, các dân tộc khác cũng có những lễ hội lớn như lễ hội Katê của người Chăm, lễ cúng Trăng của người Khmer, lễ hội xuống Đồng của người Tày, người Nùng, Lễ hội hoa ban của người Thái, Hội đua voi của người Mnông,..[6] Lễ hội Gióng
  13. Lễ hội đâm trâu của người Tây Nguyên Ở các lễ hội của bà con dân tộc Tây Nguyên, lễ hội đâm trâu được coi như tiêu biểu nhất. Trong lễ hội này, ngoài nghi lễ đâm trâu hiến tế hấp dẫn, ly kỳ còn có trò múa khiên, ném lao, đấu gậy. Lễ hội Đua voi của dân tộc M’nông Các trò vui chơi giải trí ở lễ hội còn bao gồm những hoạt động văn hoá, xã hội khác như thi hát Quan họ, thi thổi cơm, chọi gà, dệt vải, đấu vật, đánh đu
  14. Hát quan họ Chọi gà, thổi cơm ... Đặc biệt nhất là thi đánh đu, không chỉ xuất hiện trong dịp lễ hội lớn mà còn là một trò vui chơi dân dã trong những ngày Tết ở khắp các làng xã. Đánh đu  Tôn giáo, tín ngưỡng:
  15. Tín ngưỡng thờ bà Ponagar/Thiên Y A Na được cả người Chăm và người Việt thờ tại Nha Trang Như mọi nơi trên thế giới, các dân tộc ta cũng tôn thờ rất nhiều thần linh. Người xưa cho rằng bất cứ vật gì cũng có linh hồn, nên người ta thờ rất nhiều thần, nguyên thủy h ọ th ờ thần M ặt Tr ời, th ần M ặt Trăng, thần Đất, thần Sông, thần Biển, thần Sấm, thần Mưa,...những vị thần gắn với những ước mơ thiết thực của cuộc sống người dân nông nghi ệp. Bên c ạnh vi ệc th ờ cúng các th ần linh, với truyền thống uống nước nhớ nguồn từ thời xa xưa người dân Vi ệt Nam coi vi ệc thờ cúng tổ tiên và cúng giỗ người đã mất là một tục lệ lâu đời của người Việt và một số dân tộc khác (họ tin rằng linh hồn của tổ tiên cũng ở bên cạnh con cháu và phù hộ cho h ọ. Chính vì như vậy nên gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên và bàn thờ được đặt nơi trang tr ọng nhất trong nhà. Ngoài các ngày giỗ, tết thì các ngày mùng một, ngày rằm họ thắp hương như m ột như một hình thức thông báo với tổ tiên ông bà. Nói đến tục thờ cúng tổ tiên, người ta đ ều biết tới một ngày giỗ tổ chung cho cho người Việt đó là ngày giỗ tổ Hùng Vương vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch)) Mở rộng: (có thể nói thêm) Ví dụ như ở nhiều vùng quê thờ thần Nông là thần trông coi việc đồng áng, thần Lúa, thần Ngô với hy vọng lúc nào ngô lúa cũng đầy đủ. Không chỉ các vị thần gắn với đời sống vật chất, các dân tộc còn thờ các vị thần gắn với đời sống tinh thần như: người Kinh thờ Thành Hoàng, các vị anh hùng dân tộc, các vị thần trong đạo mẫu. Họ là các vị thần có công lớn với đất nước, với làng xã, dân chúng thờ phụng các vị thần này để tỏ lòng biết ơn và cầu mong các vị phù hộ họ. Cũng như người Việt, người Hoa thờ các vị thần Quan Công, Thần Tài. Người Chăm thờ các vị thần như Po Nagar, Po Rome,... Chùa Watsamrongek, một ngôi chùa Phật giáo Tiểu thừa của người Khmer ở Trà Vinh Theo lịch sử trải qua hơn 1000 Bắc thuộc, đời sống tinh thần nói chung của nước ta bị ảnh hưởng rất nhiều của văn hoá Trung Hoa. Với ba hệ tư tưởng Tam giáo đã thâm nhập vào đời sống tinh thần cũng như vào tôn giáo của người Việt Nam là Đạo giáo, Nho giáo và Phật giáo. Nói thêm: Đạo giáo và Nho giáo có nguồn gốc từ Trung Quốc và thâm nhập vào Vi ệt Nam t ừ những thế kỷ đầu công nguyên qua tầng lớp thống trị người Trung Hoa
  16. Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ và có hai phái đã du nhập vào Vi ệt Nam b ằng hai ng ả khác nhau: phái Đại thừa vào Việt Nam qua Trung Quốc cùng với Đạo giáo và Nho giáo. Còn phái Tiểu thừa qua các nước Đông Nam Á láng giềng vào Việt Nam thịnh hành ở cộng đồng người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long Tam giáo có những thời kỳ phát triển rất mạnh và cũng có lúc m ờ nhạt tại Vi ệt Nam, nh ưng nhìn chung ảnh hưởng của Tam giáo rất sâu rộng trong các tầng l ớp dân chúng, nh ất là Phật giáo. Và đến lượt mình, các tầng lớp dân chúng tại Việt Nam đã tiếp thu các tôn giáo mới một cách có chọn lọc và sáng tạo, hay nói cách khác các tôn giáo mới du nhập đã đ ược b ản đ ịa hoá để phù hợp với phong tục tập quán và tín ngưỡng của người dân địa phương Tiếp đến là Công giáo được du nhập vào Việt Nam từ thế kỉ XVI và phát tri ển m ạnh vào cuối thế kỉ XIX khi thực dân Pháp đã xâm lược hoàn toàn Việt Nam. (Hiện nay Việt Nam có khoảng 8% dân số là tín đồ Công giáo, đứng hàng thứ 2 ở Đông Nam Á sau Philippines) Ngoài ra nước ta cũng còn rất nhiều tôn giáo khác như Tin lành, đạo Hồi, Cao đài, Hoà Hảo (Cùng với Công giáo, một hệ phái khác của đạo Cơ đốc là Tin Lành cũng xâm nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỷ 20, đạo Tin Lành được phổ biến tới các dân tộc thiểu s ố vùng Tây B ắc, Tây Nguyên,...ước tính hiện nay có khoảng hơn 1 triệu người theo đạo Đạo Hồi là tôn giáo của một bộ phận người Chăm ở Việt Nam, được du nhập vào từ thế kỷ 15 tại vương quốc Chăm Pa ở miền Trung Việt Nam, sau đó theo chân một bộ phận người Chăm di cư tới vùng An Giang, Tây Ninh vào thế kỷ 19 Ngoài các tôn giáo du nhập từ bên ngoài trên, tại miền Nam Việt Nam có các tôn giáo Hoà Hảo và Cao Đài. Đây là hai tôn giáo bản địa Việt Nam, đạo Hoà Hảo được sáng lập từ năm 1939 và đạo Cao Đài được sáng lập từ năm 1926. Hiện nay hai tôn giáo b ản đ ịa này phát triển mạnh khắp Nam Bộ và ra cả một số tỉnh ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên)  Văn học nghệ thuật: Trang bìa minh hoạ sử thi Đẻ đất đẻ nước của người Mường Cũng như nền văn học của các nước khác trên thế giới, văn học Việt Nam bao gồm hai bộ phận đó là văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian là văn học truyền miệng của người dân và văn học viết gồm có văn học chữ Hán, văn học chữ Nôm và văn học chữ Quốc ngữ. Do đại đa số người dân trong thời phong kiến không có điều kiện biết chữ Hán, một hình thức văn học dân gian truyền miệng đã ra đời và được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác tại Việt Nam. Đó là những câu chuyện thần thoại như Thần Trụ Trời của người Việt,
  17. Đi san mặt Đất của người Lô Lô,...những sử thi như Đam San của người E Đê, Đẻ đất đẻ nước của người Mường,...những truyền thuyết như Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Thánh Gióng của người Việt, những cổ tích như Thạch Sanh của người Khmer....và các truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, ca dao,.... Văn học dân gian thường ca ngợi tài năng và lòng dũng cảm của con người trước thiên nhiên khắc nghiệt, trước kẻ thù độc ác, ca ngợi lòng nhân hậu, độ lượng giúp đỡ nhau, ca ngợi tình yêu trai gái, tình chung thuỷ vợ chồng, yêu con người, yêu thiên nhiên, yêu làng xóm, quê hương. Không những thế văn học dân gian Việt Nam còn là vũ khí đấu tranh chống lại những thói hư tật xấu của con người, chống lại những bất công thối nát trong xã hội. Bằng ngôn ngữ dân gian giàu hình ảnh, bằng nghệ thuật nhạc điệu sinh động, văn học dân gian Việt Nam đã thấm sâu vào lòng người một cách tự nhiên và rất dễ dàng truyền lại cho đời sau Trong văn học viết, với chữ Hán và chữ Nôm được sử dụng trong một thời gian dài. Các tác phẩm văn học cổ nhất còn lưu lại được sáng tác vào thế kỷ 11 và chủ yếu liên quan đến đạo Phật khi đó đang thịnh hành tại Việt Nam. Đó là những bài thơ của các vị sư giải thích về cơ sở căn bản của đạo Phật cũng như bình luận về các biến cố lịch sử hay các đề tài về ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, từ thế kỷ 13 nhiều công trình về lịch sử, địa lý và địa chí bằng chữ Hán đã xuất hiện. Khi hệ thống chữ Nôm được hoàn chỉnh vào thế kỷ 13, nhiều tác phẩm văn học viết bằng chữ Nôm lần lượt xuất hiện, một trong những tác phẩm sớm nhất bằng chữ Nôm còn để lại đến hôm nay là các bài thơ của Nguyễn Trãi, các tác phẩm đồ sộ của ông bao gồm một tuyển tập hàng trăm bài thơ Nôm có tên Quốc âm thi tập ở thế kỷ 15, và kế tiếp là Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, các bài thơ của Hồ Xuân Hương và đặc biệt là tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Từ đầu thế kỷ 20, chữ quốc ngữ được phổ biến rộng rãi, với sự phát triển của công nghệ in ấn cùng với những tiếp xúc với văn học phương Tây, văn học Việt Nam xuất hiện các thể loại văn học mới, văn xuôi chiếm vị trí quan trọng trên văn đàn cùng với thơ ngự trị trước đó. Các thay đổi trong đời sống văn học đã xuất hiện với sự ra đời của phong trào Thơ Mới vào những năm 1930, đây là một phong trào hiện đại nhằm giải phóng thơ Việt Nam ra khỏi những luật lệ gò bó của thơ Trung Quốc cổ. Trong lĩnh vực văn xuôi, các hoạt động của nhóm Tự Lực Văn Đoàn chịu ảnh hưởng từ phương Tây đã tạo ra thể loại tiểu thuyết Việt Nam hiện đại Nền văn học Việt Nam từ thời kỳ này xuất hiện nhiều trào lưu, có những tác phẩm chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn, có những tác phẩm theo chủ nghĩa hiện thực và cũng có những tác phẩm gắn liền với chính trị đó là dòng tác phẩm cách mạng Nghệ thuật Đám cưới Chuột thuộc dòng tranh dân gian Đông Hồ của người Việt
  18. Nền nghệ thuật Việt Nam có từ hàng nghìn năm nay, bắt đầu từ nghệ thuật truyền thống hay còn gọi là nghệ thuật dân gian Việt Nam. + kiến trúc dân gian trải qua thời bắc thuộc nên kiến trúc Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của nền kiến trúc Trung Quốc và cuối thế kỉ XIX thì chịu nhiều ảnh hưởng của kiến trúc Pháp, xây dựng theo kiểu kiến trúc phương Tây, trong đó đặc biệt là phố cổ ở Hà Nội với nét đặc trưng của kiến trúc phương Tây để lại một sắc thái đẹp và đặc sắc. Các công trình của Việt Nam quy mô thường không lớn, nhưng thường là sự kết hợp hài hoà giữa công trình chính và cảnh quan xung quanh, đặc biệt là sử dụng hồ, ao, sông ngòi để điều tiết khí hậu và tạo cảnh quan. + Mỹ thuật Việt Nam phát triển rực rỡ vào các thời Lý, Trần, Lê qua các công trình tôn giáo và cung điện các vương triều. Bên cạnh đó thì nền điêu khắc kiến trúc Việt Nam được bổ sung các kỹ thuật tinh xảo trong các công trình tôn giáo tín ngưỡng của người Chăm và người Khmer Nam Bộ. +Hội họa xuất hiện muộn hơn với dòng tranh dân gian Việt Nam, gồm tranh lụa, tranh tết, tranh Đông Hồ. Đề tài tranh dân gian thường giản dị và gần gũi với đời sống dân dã, mỗi bức tranh đều có ý nghĩa tượng trưng và đều được cách điệu hoá. Cùng với các môn nghệ thuật hiện đại khác, mỹ thuật hiện đại Việt Nam cũng có những bước tiến dài từ đầu thế kỷ 20 với ảnh hưởng của nghệ thuật phương Tây thời Pháp thuộc, với các trường phái lãng mạn, hiện thực, ấn tượng, trừu tượng, siêu thực,...mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của phương Tây nhưng khuynh hướng mỹ thuật hiện đại của Việt Nam vẫn gắn liền với lịch sử đất nước. + Sân khấu dân gian Việt Nam gắn liền với đời sống nông nghiệp, múa rối nước là nghệ thuật dân gian của của người nông dân làm ruộng nước ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, thường được biểu diễn trong dịp hội hè, những lúc nông nhàn, múa rối nước là một nghệ thuật tổng hoà giữa các nghệ thuật điêu khắc, sơn mài, âm nhạc, hội hoạ và văn học. Cùng với múa rối nước là các môn nghệ thuật chèo, tuồng, cải lương góp phần làm phong phú nền sân khấu cổ truyền Việt Nam. Từ đầu thế kỷ 20, cùng với những ảnh hưởng của sân khấu phương Tây, nghệ thuật sân khấu hiện đại Việt Nam được bổ sung thêm các môn nghệ thuật kịch, hài kịch, xiếc, ảo thuật, múa, ballet, opera,... +Âm nhạc dân gian Việt Nam cũng có truyền thống lâu đời, bắt đầu với chầu văn, quan họ, ca trù, hát ví, dân ca, vọng cổ, nhạc cung đình, hát lượn, hát Sli, hát Khan,… đặc biệt là Vào tháng 9 năm 2009, ba trong số hình thức âm nhạc dân gian Việt Nam là quan họ, ca trù, nhã nhạc cung đình Huế và Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên (bao gồm cả âm nhạc Cồng Chiêng) được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. +Điện ảnh là môn nghệ thuật xuất hiện muộn nhất tại Việt Nam, trải qua nhiều giai đoạn. Ban đầu là những thể loại phim do người Pháp thực hiện từ những năm 1920. Tới thập niên 1930, cùng với sự ra đời của các môn âm nhạc, mỹ thuật hiện đại, điện ảnh cũng bắt đầu được người Việt Nam thực hiện. Tiếp đó sau sự chia cắt đất nước, điện ảnh Việt Nam tại hai miền đều có những hướng phát triển riêng cùng với những ảnh hưởng từ bên ngoài là hai
  19. nền điện ảnh miền Bắc và điện ảnh miền Nam. Sau những năm 1975 nền điện ảnh Việt Nam do nhà nước thực hiện. Tới giai đoạn Đổi Mới, từ những năm 1986 sự tham gia của tư nhân vào lĩnh vực điện ảnh đã tạo ra dòng phim mỳ ăn liền, dòng phim này thịnh hành trong những năm đầu của thập niêm 1990 và tự kết thúc vai trò của mình từ những năm 1995 nhường chỗ cho dòng phim đương đại Việt Nam Hoặc có thể viết gọn lại là văn học nghệ thuật của Việt Nam là sự ảnh hưởng và kết hợp với nền văn học nghệ thuật truyền thống với nền văn học nghệ thuật Trung Hoa và của nền văn học nghệ thuật Pháp với sự phát triển và sáng tạo trên bàn tay và sự sáng tạo của con người Việt Nam. Trong đó bao gồm nền văn học, sân khấu, điện ảnh, kiến trúc, hội hoạ, âm nhạc. Nền văn học nghệ thuật Việt Nam cũng đạt được rất nhiều thành tựu to lớn như được UNESCO công nhận quan họ, ca trù, nhã nhạc cung đình Huế, và không gian văn hoá Cồng chiêng Tây Nguyên. Nước ta cũng vinh dự Nguyễn Du và Hồ Chí Minh được công nhận là danh nhân văn hoá thế giới. Nền văn học nghệ thuật trong thời kì đổi mới và hiện nay đang đứng trước một thời kì chuyển mình mạnh mẽ để đáp ứng được nhu cầu của thời đại nên phát triển lên một cách nhanh chóng nhưng vẫn cố gắng giữ gìn những giá trị văn hoá truyền thống không bị phai nhoà bởi sự phát triển của xã hội để đáp ứng được đòi hỏi sự phát triển bền vững.  Ẩm thực: Nền ẩm thực Việt Nam rất đa dạng và phong phú bao gồm nền ẩm thực của các dân tộc, các vùng miền kết hợp với nền ẩm thực du nhập từ các nước bạn bè. Các tỉnh thành cũng có những món ăn được coi là đặc sản của vùng như Phở Hà Nội, Chả cá Lã Vọng, Bánh gai Ninh Giang, Phở chua xứ Lạng, Bánh Cáy Thái Bình,vải thiều Thanh Hà, sắn dây Kinh Môn, cá kho cổ truyền làng Vũ Đại Hà Nam, thịt trâu gác bếp Điện Biên, Tương bần Hưng Yên… ở phía Bắc; nem chua Thanh Hoá, kẹo cu-đơ ở Hà Tĩnh, Cháo Lươn xứ Nghệ, Tôm chua Huế, Tré Quy Nhơn, Xí mà Hội An, Bánh Ít Lá Gai.mè xửng, tôm chua ở Huế,…ở Miền Trung; sầu riêng, măng cụt, Bánh tét, Bánh tráng Mỹ Lồng, Bánh xèo Nam Bộ, Cốm dẹp của người Khmer, Lẩu mắm Nam Bộ… ở Miền Nam ­ Nhóm Việt ­ Mường có 4 dân tộc là: Việt (Kinh), Chức, Mường, Thổ. ­ Nhóm Tày ­ Thái có 8 dân tộc là: Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày, Thái. ­ Nhóm Môn ­ Khmer, có 21 dân tộc là: Ba Na, Brâu, Bru ­ Vân Kiều, Chơ­ro, Co, Cơ­ho, Cờ­tu, Giẻ­triêng, Hrê, Kháng, Khmer,  Khơ­mú, Mạ, Mảng,  M'Nông, ơ­du, Rơ­măm, Tà­Ôi, Xinh­mun, Xơ­đăng, Xtiêng. ­ Nhóm Mông ­ Dao có 3 dân tộc là: Dao, Mông, Pà Thẻn. ­ Nhóm Kadai có 4 dân tộc là:  Cờ lao, La­chí, La ha, Pu péo. ­ Nhóm Nam đảo có 5 dân tộc là: Chăm, Chu­ru, Ê­đê, Gia­rai, Ra­giai. ­ Nhóm Hán có 3 dân tộc là: Hoa, Ngái, Sán dìu. ­ Nhóm Tạng có 6 dân tộc: Cống, Hà Nhì, La Hủ, Lô Lô, Phù Lá, Si La.
  20. 1.Trước kỳ đổi mới: a. Quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng nền văn hóa mới: *Trong những năm 1943- 1954: -Đầu năm 1943 Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La (Hà Nội) đã thông qua bản Đề cương văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh dự thảo đề ra 3 nguyên tắc: dân tộc hóa, đại chúng hóa, và khoa học hóa. => Nền văn hóa có tính dân tộc về hình thức và dân chủ về nội dung. => Có thể coi đề cương văn hóa Việt Nam là bản tuyên ngôn, cương lĩnh của Đảng về văn hóa trước cách mạng tháng 8 - 3/9/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó có 2 nhiệm vụ về văn hóa: “chống nạn mù chữ và giáo dục lại tinh thần nhân dân.” -Đầu năm 1946 ban Trung Ương vận động Đời sống mới được thành lập. -3/1947 Hồ Chí Minh viết tài liệu Đời sống mới giải thích những vấn đề thiết thực trong chủ trương văn hóa. Đường lối văn hóa kháng chiến dần được hình thành trong các chỉ thị của BCH TW Đảng - Đường lối kháng chiến của Đảng có nội dung:
nguon tai.lieu . vn