Xem mẫu

  1. 26 Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại CHƯƠNG III HOẠT ĐỘNG CỦA QUỐC TẾ I, II VÀ PHONG TRÀO CÔNG NHÂN THẾ GIỚI CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX 1. PHONG TRÀO CÔNG NHÂN THẾ GIỚI SAU CÔNG XÃ PARI 1.1 SỰ TAN RÃ CỦA QUỐC TẾ I Sau khi Công xã Pari thất bại, Mác đã ra lời kêu gọi giai cấp công nhân thế giới trong đó phân tích hoạt động và ý nghĩa lịch sử của Công xã. Giai cấp tư sản các nước thấy rõ sự nguy hiểm của Quốc tế I và những hoạt động của Mác nên đã tăng cường khủng bố các phân bộ của Quốc tế và đàn áp các cuộc đấu tranh của công nhân. Trước tình hình ấy, Quốc tế I đã tiến hành Hội nghị ở Luân Đôn (từ 17 đến 23- 9-1871) thông qua nghị quyết quan trọng về việc thành lập những chính đảng độc lập của giai cấp vô sản ở tất cả các nước. Đại hội La Hay (ngày 2-9-1872) đã thông qua nghị quyết dời trụ sở Tổng hội sang Mỹ, khai trừ những kẻ phản bội ra khỏi Quốc tế và nhấn mạnh nhiệm vụ thành lập những chính đảng của giai cấp vô sản các nước. Hội nghị cuối cùng của Quốc tế họp tại Philadelphia (ngày 15-7-1786) chính thức tuyên bố giải t1an Quốc tế I. Quốc tế I là một tổ chức quốc tế đầu tiên của giai cấp vô sản toàn thế giới. Hoạt động của Quốc tế dưới sự lãnh đạo của Mác – Ăngghen đã đấu tranh không khoan nhượng với các trào lưu tư tưởng phi Mác xít, chuẩn bị về lý luận cho việc tổ chức đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới. 1.2. PHONG TRÀO CÔNG NHÂN THẾ GIỚI VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA QUỐC TẾ II Sau khi Quốc tế I giải tán, Mác và Ăngghen vẫn tiếp tục nỗ lực lãnh đạo phong trào công nhân thế giới. Điểm nóng của phong trào công nhân thế giới chuyển về Đức. Giai cấp công nhân Đức đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng Xã hội Dân chủ Đức trở thành ngọn cờ đầu trong phong trào công nhân quốc tế. Mác và Ăngghen đã có những đóng góp to lớn trong chỉ đạo cả về thực tiễn lẫn lý luận trong phong trào công nhân quốc tế. Dưới sự dẫn dắt của hai ông, Đảng Công nhân Pháp được thành lập (1879); các nhóm xã hội của công nhân Anh, Mỹ, Nga... đã ra đời. Tác phẩm Tư bản tập I và nhiều tác phẩm, thư từ, bài báo của hai ông đã có tác dụng lớn lao trong việc đánh bại học thuyết tiểu tư sản của Proudhon, Latsan, Bacunin để hướng cuộc đấu tranh của công nhân vì lợi ích giai cấp mình và lãnh đạo nhân dân đấu tranh. Điều đó đã dẫn tới kết quả là sự ra đời của các đảng công nhân các nước Âu, Mỹ chứng tỏ sự lớn mạnh của phong trào công nhân các nước. Thực tiễn đó đòi hỏi phải có một tổ chức quốc tế mới để lãnh đạo công nhân các nước đấu tranh. Sau khi Mác mất (14-3-1883), Ăngghen và những người cộng sản trong các đảng công nhân các nước tiếp tục lãnh đạo phong trào công nhân quốc tế. Ngày 14-7- 1889, hai đại hội quốc tế của giai cấp công nhân đồng thời diễn ra tại Pari. Quốc tế II được thành lập tại đại hội do Ăngghen và những người Mácxít triệu tập gồm 395 đại biểu của công nhân hầu hết các nước Âu, Mỹ. Đại hội nêu lên 4 vấn đề cơ bản: 1. Vấn đề hoạt động hợp pháp của giai cấp công nhân; 2. Vấn đề thủ tiêu quân đội thường trực; 3. lấy ngày 1-5 làm ngày kỷ niệm hàng năm quốc tế lao động; 4. Vấn đề đấu tranh kinh tế và chính trị của giai cấp công nhân. Ngay trong đại hội lần này, cuộc đấu tranh chống phái vô chính phủ đã diễn ra gay gắt. Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  2. 27 Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 2. HOẠT ĐỘNG CỦA QUỐC TẾ II Sự thành lập Quốc tế II có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với phong trào công nhân quốc tế. Giai cấp công nhân thế giới lại có một tổ chức lãnh đạo trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Dưới sự lãnh đạo của Ăngghen, Quốc tế II đã tiến hành 3 đại hội : lần 2 ở Brúcxen (Bỉ), lần 3 ở Xuyrích (Thuỵ sĩ). Nội dung của các cuộc họp này là chống lại quan điểm của chủ nghĩa vô chính phủ và nêu lên sự cần thiết của việc thành lập chính đảng của giai cấp công nhân. Trong đại hội lần 4 họp ở Luân Đôn (1896), những phần tử vô chính phủ bị đuổi khỏi Quốc tế II, đại hội đã nêu lên rõ mục tiêu đấu tranh chính trị là giành chính quyền về tay giai cấp công nhân. Từ đại hội lần thứ 5 trở đi, vai trò của V.I.Lênin ngày càng rõ rệt trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại. V.I.Lênin đã phân tích cơ sở ra đời của chủ nghĩa cơ hội, xét lại một cách khoa học. Người cho rằng khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã mua chuộc một bộ phận trong tầng lớp công nhân lớp trên – đây chính là cơ sở xã hội của nó; tầng lớp tiểu tư sản, trí thức có địa vị lãnh đạo mang ảo tưởng cải tạo xã hội bằng con đường hoà bình; một số đảng công nhân giành được thắng lợi trong các cuộc bầu cử vào nghị viện dẫn đến nhận thức mơ hồ về nền tự do tư sản mà quên mất bản chất của đấu tranh giai cấp. Chủ nghĩa cơ hội, xét lại đứng đầu là Berstainer lên tiếng đòi sửa đổi chủ nghĩa Mác, chống lại cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản, chứng minh sự hoà hoãn có thể được giữa tư sản và vô sản, phủ nhận quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp và sự hình thành các tổ chức lũng đoạn sẽ tránh được khủng hoảng... âm mưu biến chủ nghĩa Mác thành một trào lưu tư tưởng cải lương tầm thường. V.I.Lênin một mặt nêu cao ngọn cờ đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, mặt khác Người nêu lên sự cần thiết phải xây dựng một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Thực tế lịch sử đã chứng minh tính chất phi nghĩa của chiến tranh đế quốc và chiến tranh xâm lược thuộc địa đồng thời chứng minh sự đúng đắn trong lập trường của Lênin. Tại đại hội Stutga (1907), Lênin được bầu vào chủ tịch đoàn. Do sự đấu tranh kiên quyết của Lênin và những người Mácxít, nghị quyết chống chiến tranh xâm lược thuộc địa đã được thông qua với đa số phiếu. Do ảnh hưởng của cuộc cách mạng Nga 1905-1907, những vấn đề nổi bật như : quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản, liên minh công nông, cách mạng không ngừng, ... được thảo luận sôi nổi. Nội bộ Quốc tế II chia làm 3 phái : Phái cơ hội, xét lại đứng đầu là Bestainer, Walkoln công khai phản đối quyền lãng đạo của đảng vô sản trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản và bác bỏ tư tưởng của Lênin về cách mạng không ngừng. Phái trung gian (phái giữa) đứng đầu là Cauxky cho rằng, giai cấp vô sản chỉ có thể giành được thắng lợi tạm thời vì giai cấp vô sản chưa phải là lực lượng chiếm đa số trong dân cư , chống lại bãi công chính trị. Phái Mácxít đứng đầu là Lênin, lãnh tụ của cách mạng Nga, có lý luận sắc bén, thực tế đấu tranh phong phú đã sáng tạo nguyên tắc Mácxít phản ánh trong việc lãnh đạo cách mạng Nga. Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  3. 28 Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại Đại hội bất thường của Quốc tế II diễn ra ở Copenhagen (1912) thông qua bản tuyên ngôn kêu gọi công nhân quốc tế đoàn kết chống chiến tranh đế quốc đang đến gần. Tuy nhiên, các phần tử cơ hội, xét lại trong Quốc tế II đã không thực hiện lời tuyên ngôn đó, chiến tranh thế giới nổ ra và trên thực tế Quốc tế II đã bị phá sản. Lênin và những người cộng sản Nga đã thực hiện sáng tạo đường lối cách mạng theo nguyên lý chủ nghĩa Mác lãnh đạo cách mạng tháng 10 Nga thành công. Tóm lại: Quốc tế II thành lập và hoạt động trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, giai cấp vô sản lớn mạnh chưa từng thấy. Học thuyết Mác giành được thắng lợi lớn trong phong trào công nhân và hạn chế tác hại của chủ nghĩa cơ hội, xét lại. Trong cuộc đấu tranh đó nổi bật lên vai trò to lớn của Ăngghen và Lênin. Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  4. 29 Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại CHƯƠNG IV CUỘC CÁCH MẠNG DÂN CHỦ TƯ SẢN NGA 1905 - 1907 1. TÌNH HÌNH NƯỚC NGA TRƯỚC CÁCH MẠNG 1.2. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI - Sau cải cách nông nô 1861, nước Nga còn tồn tại hầu như nguyên vẹn bộ máy cai trị của chính quyền phong kiến cũ. Nga hoàng và giai cấp quý tộc phong kiến khống chế hầu như toàn bộ nền chính trị nước Nga. Do lệ thuộc quá nhiều vào tư bản nước ngoài, nước Nga là thành viên không bình đẳng của chủ nghĩa đế quốc. Giai cấp tư sản Nga chưa là một lực lượng chính trị mạnh và không hề có quyền lợi chính trị. - Mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa với những tàn dư của chế độ nông nô lạc hậu ngày càng trầm trọng. Giai cấp địa chủ phong kiến bị mất ¼ ruộng đất trong cải cách ruộng đất tỏ ra bất mãn và quay lại chống chính phủ Nga hoàng. Một bộ phận tư sản hoá thành lập Đảng “Xã hội Cách mạng” đề ra cương lĩnh không tưởng, phản động “ chủ nghĩa Dân tuý” chủ trương phát triển tư bản chủ nghĩa theo con đường tiểu nông, thoả hiệp cải lương, khủng bố cá nhân. Giai cấp nông dân được giải phóng khỏi thân phận nông nô nhưng hầu hết không có tiền chuộc để nhận khẩu phần ruộng đất ít ỏi được chia vẫn phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ với những điều kiện cay nghiệt. Họ bị bần cùng hoá, bị phá sản và một bộ phận phải bán sức lao động để trở thành công nhân công, nông nghiệp. Giai cấp nông dân đòi hỏi cao về ruộng đất đã tích cực tham gia đấu tranh cách mạng để tiêu diệt quyền sở hữu ruộng đất của địa chủ. Giai cấp tư sản và trí thức không có quyền lợi về chính trị, yếu về kinh tế bị tư sản mại bản và quý tộc tư sản tài chính chèn ép nên mâu thuẫn gay gắt với chính quyền phong kiến đòi đẩy mạnh hơn nữa cải cách xã hội. Một bộ phận thành lập Đảng “Dân chủ Lập hiến” chủ trương đấu tranh cải lương đòi tự trị địa phương, tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc, phá hoại sự đoàn kết trong phong trào công nhân và các dân tộc vùng biên cương và lợi dụng phong trào quần chúng để đạt mục đích chính trị. Giai cấp công nhân Nga không ngừng lớn mạnh về số lượng (riêng công nhân cơ khí có 1,5 triệu người), sống khá tập trung và có tinh thần đấu tranh cách mạng rất cao. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, phong trào công nhân Nga phát triển mạnh mẽ dưới tác động của nhiều trào lưu tư tưởng. Chủ nghĩa cơ hội, xét lại tràn vào Nga với chủ nghĩa “kinh tế” thông qua các tờ báo, văn kiện để làm chệch hướng đấu tranh của công nhân. Trong giai đoạn này, chủ nghĩa Mác ảnh hưởng vào Nga và nhanh chóng giành được ưu thế. Năm 1883, nhóm Mácxít đầu tiên ra đời “Giải phóng lao động” do Plekhanov lãnh đạo. Trong khi truyền bá chủ nghĩa Mác và chống lại tư tưởng của phái Dân tuý, ông lại sai lầm nghiêm trọng khi không đánh giá đúng mức vai trò của nông dân trong cách mạng vô sản. Sai lầm này làm xuất hiện quan điểm Mensevich trong Đảng Xã hội Dân chủ Nga sau này. Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  5. 30 Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại V.I.Lênin (1870 –1924) cũng tham gia tuyên truyền chủ nghĩa Mác từ sớm. Năm 1895, ông hợp nhất các tổ chức Mácxít của công nhân ở Peterburg thành “Hội những người đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân”, tiền thân của chính đảng vô sản Nga. Tháng 3-1898, tại Minxcơ, Đảng Công nhân Xã hội dân chủ Nga tuyên bố thành lập. Tuy nhiên, đây không được coi là đại hội thành lập Đảng vì ngay sau đó, toàn bộ Ban chấp hành trung ương đều bị bắt, Lênin lại đang bị đày ở Xibêri. Năm 1900, báo “Tia Lửa” của Lênin được xuất bản làm vũ khí tuyên truyền sắc bén. Tháng 7-1903, đại hội II của Đảng Công nhân Xã hội dân chủ Nga được triệu tập tại Luân Đôn. Đây được coi là đại hội thành lập Đảng. Đại hội đã thông qua cương lĩnh của Đảng và khẳng định nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là làm cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thành lập chuyên chính vô sản. Nhiệm vụ trước mắt là đánh đổ chính phủ Nga hoàng thành lập nước cộng hoà, thi hành cải cách dân chủ, giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân. Đại hội đã thông qua điều lệ Đảng. Khi bầu cử Ban chấp hành trung ương, đã phân ra làm 2 phái : Đa số (Bônsêvích) theo Lênin và Thiểu số (Mensêvích) theo Máctốp. Sự thành lập Đảng Công nhân Xã hội dân chủ Nga có một ý nghĩa to lớn làm cơ sở cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân thực hiện những nhiệm vụ của cuộc cách mạng vô sản. Đồng thời, nêu lên một mẫu mực cơ bản về cương lĩnh cách mạng và tổ chức đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. - Mâu thuẫn giữa các dân tộc bị chính phủ Nga hoàng áp bức với chính phủ Nga hoàng cũng ngày càng sâu sắc. Họ không ngừng nổi dậy đấu tranh đòi quyền tự trị. 1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ Kinh tế công, nông, thương nghiệp Nga phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Mặc dù còn nhiều tàn dư của quan hệ nông nô, nhưng với sự giải phóng sức lao động, nền kinh tế Nga vẫn có những bước tăng trưởng như những nước khác ở châu Âu. Quá trình tích luỹ tư bản và tập trung sản xuất đã hình thành nhiều công ty độc quyền, lũng đoạn các ngành kinh tế. Tuy là một nước lạc hậu về kinh tế và bị lệ thuộc vào tư bản nước ngoài (năm 1900, tư bản nước ngoài chiếm 48,9% cổ phần trong ngành chế biến kim khí và chế tạo máy, 87,7% công nghiệp khai thác mỏ, con nợ của tư bản Pháp...) nhưng tư bản Nga vẫn chú ý xuất khẩu tư bản sang các nước ở viễn Đông, Ban căng… để thu lại lợi nhuận từ sự nô dịch và thống trị các dân tộc khác. Tóm lại: Nước Nga cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là nơi tập trung những mâu thuẫn gay gắt nhất của chủ nghĩa đế quốc. Nó chính là sự kết hợp đủ mọi hình thức tàn khốc nhất của chủ nghĩa tư bản với chế độ phong kiến nông nô man rợ. V.I.Lênin đã gọi Nga là “đế quốc phong kiến quân sự”. Phong trào đấu tranh cuả nhân dân Nga đang sôi sục, Nước Nga đang đứng trước một cơn bão táp cách mạng. 2. QUÁ TRÌNH CỦA CUỘC CÁCH MẠNG 2.1. CUỘC CÁCH MẠNG BÙNG NỔ Đầu thế kỷ XX, những mâu thuẫn trong xã hội Nga phát triển đến đỉnh điểm. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1900-1903 tác động vào nước Nga càng làm cho đời sống của các tầng lớp nhân dân lâm vào cảnh cùng cực. Cuộc chiến tranh Nga-Nhật (1904- 1905) đã đẩy nước Nga vào một cuộc khủng hoảng toàn diện. Để có được khoản chiến phí, chính phủ Nga hoàng đã tăng cường bóp nặn nhân dân bằng cách tăng thuế và vay Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  6. 31 Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại nợ nước ngoài. Để tăng cường lực lượng quân đội, Nga hoàng đã ra lệnh tổng động viên, rút phần lớn công nhân ra khỏi nhà máy, xí nghiệp làm dấy lên cao trào phản chiến ở khắp mọi nơi. Từ cuối năm 1904, phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân đã diễn ra khắp toàn quốc mà đi đầu là giai cấp công nhân. Tiêu biểu cho các phong trào này là cuộc bãi công chính trị của công nhân dầu mỏ Bacu dưới sự lãnh đạo của Ủy ban Bônsêvích, cuộc tổng đình công của 15 vạn công nhân Peterburg. Trước tình hình đó, Sở mật thám Peterburg đã ra lệnh cho linh mục Gapon đứng ra thành lập “Tổng hội thợ thuyền các nhà máy Nga” âm mưu đẩy công nhân vào một cuộc đấu tranh mang tính chất manh động và dìm cuộc khởi nghĩa trong biển máu. Gapôn đưa ra một đề nghị khiêu khích là vào ngày chủ nhật (9-1-1905), toàn thể công nhân Peterburg sẽ tập trung kéo đến cung điện Mùa Đông dâng lên Nga hoàng lá đơn thỉnh nguyện. Uỷ ban Bônsêvích đã vạch trần âm mưu ấy và kêu gọi công nhân Nga hãy cảnh giác vũ trang lật đỗ chính phủ Nga hoàng. Uỷ ban yêu cầu bổ sung kiến nghị đòi tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, triệu tập hội nghị lập hiến, bình đẳng trước pháp luật, ngày làm 8 giờ, giao ruộng đất cho nông dân... Trong khi đó, phái Mensêvích lại gieo rắc trong công nhân lòng tin vào chính phủ Nga hoàng. Ngày chủ nhật (9-1-1905), hơn 14 vạn công nhân tay không vũ khí mang tượng thánh, chân dung Nga hoàng, đơn thỉnh nguyện, cờ và biểu ngữ tiến đến cung điện Mùa Đông. Nga hoàng đã ra lệnh cho quân đội và cảnh sát bắn vào đoàn biểu tình làm hơm 1000 người chết, 9000 người bị thương. Ngày 1 - 5 - 1905 được lịch sử nước Nga gọi là “ngày chủ nhật đẫm máu”. Hành động tàn ác, dã man của chính phủ Nga hoàng đã gây nên một làn sóng đấu tranh sôi nổi khắp thủ đô. Dưới sự lãnh đạo của những người Bônsêvích, chỉ trong tháng 1-1905 đã có hơn 44 vạn công nhân tham gia đấu tranh hơn cả 10 năm trước cộng lại. 2.2. CUỘC CÁCH MẠNG TRONG GIAI ĐOẠN CAO TRÀO Sự kiện ngày chủ nhật đẫm máu đã vạch trần bộ mặt của chính phủ Nga hoàng và dạy cho giai cấp công nhân Nga về tính chiến đấu của mình. Đại hội lần thứ III của Đảng Công nhân Xã hội dân chủ Nga diễn ra từ ngày 12/4 đến ngày 27/4/1905 tại Luân Đôn chỉ có những người Bônsêvích tham dự. Đại hội đã đề ra khẩu hiệu của cuộc cách mạng là lật đổ chính phủ Nga hoàng thành lập nước cộng hoà dân chủ, tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày, thực hiện ngày làm việc 8 giờ. Đại hội cũng đề ra nhiệm vụ trước mắt là lãnh đạo công nhân tiến hành khởi nghĩa vũ trang và tham gia chính phủ để thực hiện triệt để những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân chủ tư sản... Ngày 1/5/1905, hơn 20 vạn công nhân luyện kim ở Bacu đã biểu tình và xung đột vũ trang với quân đội và cảnh sát. trong khi đó, công nhân và nông dân khắp nước Nga liên tục nổi dậy đấu tranh vũ trang chống chính phủ Nga hoàng. Nông dân nổi dậy ở 87 quận, giết địa chủ, đốt các văn tự, khế ước phong kiến.Đáng chú ý là phong trào đấu tranh vũ trang ở các tỉnh như Pêtécbua, Matxcơva, Vácxava, Riga, Bacu. Ngày 4/6/1905, binh lính trên chiến hạm Pôtemkin ở hải cảng Ôđétxa đã làm cuộc binh biến. Điều này chứng tỏ công cụ của chính phủ Nga hoàng đã bị lung lay và khả năng binh vận đã xuất hiện. Từ ngày 22 đến ngày 24/6/1905, 70 ngàn công nhân ở Lốt, Vôdơnétrenxcơ đã khởi nghĩa vũ trang và lập ra Xô viết đầu tiên ở Nga. Tháng Muời năm 1905 nổ ra một cuộc tổng bãi công chính trị của công nhân toàn Nga mà quyết liệt nhất là cuộc bãi công của hơn 1 triệu công nhân bưu điện , điện lực và đường sắt. Toàn bộ nước Nga bị tê liệt, Nga hoàng run sợ vội vàng cử Vitơ làm Thủ Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  7. 32 Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại tướng chính phủ và triệu tập “Hội nghị Đuma Nhà nước có quyền lập pháp không tư vấn”. Chính phủ Vitơ ra tuyên ngôn 17/10, hứa hẹn ban bố một số quyền tự do dân chủ. Giai cấp tư sản, Đảng Xã hội cách mạng, phái Mensêvích vội vàng tuyên bố Nga hoàng đã đầu hàng nhân dân và kêu gọi ngừng đấu tranh ủng hộ Chính phủ lập hiến. Trên thực tế, chính phủ Nga hoàng chỉ ân xá bọn tội phạm hình sự để chúng lập ra tổ chức “Trăm Đen” làm công cụ để khủng bố các chiến sĩ cách mạng. Ngày 13/11/1905, Lênin về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng. Người đặc biệt nhấn mạnh là cần phải giành quyền lãnh đạo các Xô viết về tay Đảng Bônsêvích để hợp nhất cơ quan lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang với chính quyền cách mạng thành cơ quan dân chủ chuyên chính của giai cấp vô sản và nhân dân. Người lập kế hoạch khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền vào tháng Chạp năm 1905 ở Pêtécbua và Mátxcơva. Theo đúng kế hoạch, ngày 7 tháng Chạp năm 1905, cuộc khởi nghĩa vũ trang đã diễn ra ở Mátxcơva dưới sự lãnh đạo của Ủy ban Bônsêvích. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt trong 9 ngày và bị dìm trong biển máu. Nguyên nhân thất bại là do thiếu kinh nghiệm đấu tranh vũ trang, thiếu vũ khí, thiếu sự phối hợp thống nhất trong toàn quốc, thiếu sự phối hợp với binh lính và nông dân. Ở Pêtécbua, phái Mensêvích khống chế quyền lãnh đạo các Xô viết nên cố tình phá hoại công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Cuộc khởi nghĩa vũ trang ở đây đã không diễn ra như kế hoạch. Tuy nhiên, phong trào vẫn diễn ra ở nhiều nơi khác như Nam Cápcadơ do Xtalin lãnh đạo, ở Xêvaxtôphôn, Crônxtát, Ucraina, Léttôni, Gioócgi, Phần Lan, Balan, Xibêri... 2.3. CUỘC CÁCH MẠNG TRONG GIAI ĐOẠN THOÁI TRÀO Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa tháng Chạp, phong trào khởi nghĩa vũ trang bước vào giai đoạn thoái trào. Năm 1906 chỉ còn hơn 1 triệu người tham gia đấu tranh. Ngày 27/6/1906, Nga hoàng triệu tập kỳ họp thứ nhất của Đuma Nhà nước (ĐuMa I) để khởi thảo Hiến pháp. Đảng Dân chủ lập hiến đề nghị cải cách chính trị nhằm bóp chết cách mạng. Đại biểu nông dân chiếm 25% đề nghị dự thảo pháp luật ruộng đất nhằm tiêu diệt quyền sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ bằng cách quốc hữu hoá ruộng đất. Đề nghị của nông dân đưa ra trong khi 50% số huyện của nước Nga đang diễn ra đấu tranh làm cho Nga hoàng hoảng sợ tuyên bố giải tán Đuma I vào ngày 8/6/1906 và cử Stôcưphen Bộ trưởng Bộ nội vụ lên làm Thủ tướng để thi hành chính sách tàn bạo của chế độ độc tài quân sự. Năm 1907 còn hơn 74 vạn người tham gia đấu tranh. Ngày 20/2/1907, Nga hoàng triệu tập cuộc họp Đuma lần thứ hai, đại biểu nông dân và công nhân đòi bãi bỏ xác lệnh 9/11/1916. Tức là không phải nộp tiền chuộc khi được chia ruộng đất. Ngày 3/6/1907, Nga Hoàng ra lệnh giải tán Đuma II và bắt 65 đại biểu Đảng công nhân Xã hội Dân chủ đầy đi Xibêri. Việc giải tán Đuma II đánh dấu sự thất bại của cuộc cách mạng Dân chủ tư sản Nga 1905 – 1907. 3. NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI, Ý NGHĨA LỊCH SỬ 3.1. NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI Về chủ quan: Giai cấp công nhân Nga chưa đủ mạnh, Đảng công nhân Xã hội dân chủ Nga thiếu sự đoàn kết thống nhất. Những tư tưởng của Lênin và những người Bônsêvích bị bọn Mensêvích phá hoại nghiêm trọng làm cho giai cấp công nhân không phát huy hết vai trò lãnh đạo lôi kéo các tầng lớp nhân dân lao động tham gia. Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  8. 33 Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại Các cuộc nổi dậy của quần chúng nhân dân diễn ra không đồng đều về thời gian và không gian. Quyền lãnh đạo cách mạng ở một số nơi còn rơi và tay Mensêvích nên cuộc đấu tranh bị cô lập. Các cuộc đấu tranh của nông dân còn mang tính tự phát nên họ chưa ý thức được về vai trò đấu tranh chính trị của giai cấp vô sản. Phong trào chưa lôi kéo được một bộ phận binh lính trong quân đội Nga hoàng. Về khách quan: Cuộc cách mạng diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa đế quốc đang phát triển nên các nước đế quốc hoảng sợ và rảnh tay can thiệp dập tắt phong trào. 3.2. Ý NGHĨA LỊCH SỬ Đối với nước Nga, đây là cuộc cách mạng dân chủ nhân dân đầu tiên đã làm cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga giác ngộ cao hơn rất nhiều về chính trị thấy rõ bộ mặt của Nga hoàng và thái độ của giai cấp tư sản cũng như vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản, chứng tỏ nông dân lao động là lực lượng cách mạng to lớn, uy tín của Lênin và Đảng Bônsêvích ngày càng lớn. Giáng một đòn nặng nề vào nền thống trị của địa chủ tư sản làm suy yếu chế độ Nga hoàng và báo trước một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ nổ ra. Là cuộc tổng diễn tập đầu tiên cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười. Đối với thế giới, mở đầu cho một giai đoạn bão táp cách mạng mới, ảnh hưởng sâu rộng đến phong trào công nhân các nước tư bản chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc thế giới. Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  9. 34 Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại CHƯƠNG V CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT 1. NGUYÊN NHÂN VÀ TÍNH CHẤT 1.1. NGUYÊN NHÂN Nguyên nhân sâu xa: chủ nghĩa tư bản đã phát triển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa làm cho mâu thuẫn của nó ngày càng phát triển gay gắt: mâu thuẫn giữa đế quốc với đế quốc, giữa giai cấp vô sản với tư sản, giữa đế quốc với thuộc địa. Nguyên nhân trực tiếp: ngày 28/6/1914, một sinh viên Xecbi là Prinxip, đảng viên một tổ chức sinh viên ái quốc đã ám sát hai vợ chông viên đại công kế vị Áo – Hung. Lợi dụng việc đó, Đức, Áo – Hung liền tiến hành cuộc chiến tranh với Xecbi mở đầu cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. 1.2. TÍNH CHẤT. Đây là cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa mang tính chất phi nghĩa phản động, kế tục chính sách cướp bóc nô dịch nhân dân thuộc địa phản ánh cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản 2. QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN 2.1. GIAI ĐOẠN I Cuộc chiến tranh bùng nổ từ ngày 28/7/1914, chiến sự diễn ra ở hai mặt trận: phía Tây và phía Đông. Ở mặt trận phía Tây, quân Đức tập chung 70 sư đoàn tấn công nước Pháp qua Bỉ. Trái với dự đoán của Pháp, quân Bỉ đã kìm chân Đức làm cho quân Đức chỉ chiếm được Bỉ và 10 quận Đông – Bắc nước Pháp. Ở mặt trận này, hai bên Pháp - Đức ở vào thế giằng co dọc chiến tuyến dài tới 800 km. Ở mặt trận phía Đông, gồm có 25 sư đoàn quân Đức và quân Áo - Hung. Quân Nga dành được ưu thế và chiếm được một phần Đông Phổ. Đến cuối năm 1914, kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Đức bị phá sản 2.2. GIAI ĐOẠN II Năm 1915, chiến sự diễn ra ác liệt ở mặt trận Nga, liên quân Đức - Áo - Hung đẩy quân Nga ra khỏi Đông Phổ. Cuối năm 1915, Ý tham gia phe hiệp ước. Quân liên minh đánh bại Xécbi và lập một trục tuyến từ Đức đến Thổ Nhĩ Kỳ. So sánh lực lượng hai bên ngang bằng. Năm 1916, quân Đức chuyển mặt trận sang phía Tây. Phe Hiệp ước mở ba cuộc tấn công lớn đẩy quân Đức vào thế phòng ngự bị động. 2.3. GIAI ĐOẠN CUỐI Đầu năm 1917, Đức tiến hành cuộc chiến tranh bằng tàu ngầm để phong toả hải quân Anh. Tháng 4/1917, Mỹ tuyên chiến với Đức. Thế trận nghiêng về phe hiệp ước. Cách mạng tháng Mười Nga thành công, nước Nga tuyên bố rút khỏi cuộc chiến. Năm Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  10. 35 Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 1918, Cách mạng Đức bùng nổ. Ngày 29/9/1918, Bungari tuyên bố đầu hàng; ngày 30/10/1918, Thổ Nhĩ Kỳ đầu hàng. Ngày 1/11/1918, Đức ký hiệp ước đình chiến. Ngày 2/11/1918, Áo - Hung tuyên bố đầu hàng; ngày 9/11/1918, nền cộng hoà Đức tuyên bố thành lập. Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. PHẦN II LỊCH SỬ CẬN ĐẠI PHƯƠNG ĐÔNG CHƯƠNG I NHẬT BẢN 1. TIỀN ĐỀ CỦA CUỘC MINH TRỊ DUY TÂN 1.1. KINH TẾ Về nông nghiệp: Quan hệ ruộng đất phong kiến vẫn tồn tại đậm nét. Đất đai nằm trong tay các Đaimiô. Nông dân lĩnh canh ruộng đất và nộp tô cho Đaimiô. Quan hệ này tương đối giống quan hệ ruộng đất ở Tây Âu trung cổ. Sự phát triển của kinh tế hàng hoá đã tác động phá vỡ tính chất tự nhiên của nền kinh tế nông nghiệp. Nhiều vùng chuyên canh hàng nông phẩm: dâu, bông, chè, gạo… xuất hiện đẩy nhanh sự giao lưu hàng hoá. Trong nông nghiệp xuất hiện chế độ làm thuê và sự phá sản của nông dân góp phần bổ sung lực lượng lao động ở thành thị. Tô tiền là Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
nguon tai.lieu . vn