Xem mẫu

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM Kỷ niệm 10 NĂM NGÀY XÃ HỘI HỌC NAM BỘ (2008-2018) & 20 NĂM THÀNH LẬP KHOA XÃ HỘI HỌC TRƯỜNG ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM (1998-2018) Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 12 năm 2018
  2. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” LỜI NÓI ĐẦU “Ngày Xã hội học Nam Bộ” là sự kiện thƣờng niên của Hội Xã hội học phía Nam, đƣợc tổ chức lần đầu tại Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ vào năm 2008. Từ đó đến nay, sự kiện này đã lần lƣợt tổ chức tại: Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM (2009, 2014), Trƣờng Đại học Bình Dƣơng (2011), Trƣờng Đại học Tôn Đức Thắng (2013), Trƣờng Đại học Đà Lạt (2016) và Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ (2017). “Ngày Xã hội học Nam Bộ” đã nhận đƣợc sự tham gia đông đảo của các đơn vị nghiên cứu và đào tạo xã hội học cũng nhƣ các Chi hội Hội Xã hội học tại khu vực phía Nam. Năm 2018 là dấu mốc quan trọng tròn 20 năm thành lập Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM, và cũng là thời khắc đánh dấu 10 năm của “Ngày Xã hội học Nam Bộ”. Để kỷ niệm hai sự kiện quan trọng này, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM và Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ đồng phối hợp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Phát triển Xã hội học công ở Việt Nam”. Hội thảo nhằm tạo ra diễn đàn cho các nhà nghiên cứu, cũng nhƣ sinh viên, các nhà hoạt động thực tiễn, các tổ chức xã hội và công chúng về các lĩnh vực liên quan, chia sẻ kết quả nghiên cứu, trình bày quan điểm của mình. Hội thảo cũng nhằm thảo luận để khơi gợi các ý tƣởng nghiên cứu mới trong lĩnh vực xã hội học, tăng cƣờng hơn nữa sự hợp tác và trao đổi trong cộng đồng nghiên cứu, giảng dạy và hoạt động xã hội học. Ban Tổ chức đã nhận đƣợc 23 bài viết của các giảng viên, nhà nghiên cứu đến từ các Trƣờng Đại học, Viện nghiên cứu. Nội dung bài viết đề cập đến nhiều vấn đề trong nghiên cứu, đào tạo Xã hội học trong bối cảnh kinh tế - xã hội và hội nhập toàn cầu hiện nay. Tập kỷ yếu đƣợc chia làm hai chủ đề lớn: (1) Lý thuyết Xã hội học và các vấn đề xã hội và (2) Lao động, việc làm và di cư. Ban Biên tập đã cố gắng biên tập và sắp xếp nội dung các bài viết nhƣng không thể tránh khỏi thiếu sót. Với vai trò cầu nối và gắn kết các cá nhân, đơn vị, tổ chức và cộng đồng Xã hội học, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng: Hội thảo này là diễn đàn mở để mọi ngƣời sẻ chia và trình bày các kết quả nghiên cứu của mình. Do đó, tất cả các ý kiến và quan điểm của Quý vị đều đƣợc tôn trọng và ghi nhận. Chúng tôi rất mong nhận đƣợc sự đóng góp ý kiến của Quý vị để công tác tổ chức và biên tập nội dung hoàn thiện hơn. Thƣ từ đóng góp xin gửi về Ban Tổ chức Ngày hội Xã hội học Nam Bộ 2018 qua email: ngayxhhnb2018@hcmussh.edu.vn. BAN BIÊN TẬP 1
  3. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” MỤC LỤC PHẦN I: LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC VÀ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI 1. XÃ HỘI HỌC CÔNG CỘNG: MỘT HƢỚNG NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC HƠN LÀ MỘT PHƢƠNG PHÁP, HAY TẬP HỢP CÁC LÝ THUYẾT .............................................. 6 ThS. Tạ Xuân Hoài 2. PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC TRONG KHU VỰC NHÀ NƢỚC: PHÁC THẢO VỀ CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐẶT RA TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ .............. 15 PGS. TS. Nguyễn Đức Chiện 3. ĐẨY MẠNH ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG XÃ HỘI HỌC CHUYÊN NGÀNH GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN KHOA HỌC XÃ HỘI (TRƢỜNG HỢP VÙNG NAM BỘ - VIỆT NAM)............................................................................................................... 22 PGS. TS Huỳnh Quốc Thắng 4. XÃ HỘI HỌC Ở TRUNG QUỐC TRƢỚC 1949 ......................................................... 29 GS. TS. Bùi Thế Cƣờng 5. MƢỜI LĂM LUẬN ĐỀ VỀ NGHIÊN CỨU XUYÊN NGÀNH CỦA GERTRUDE HIRSCH HADORN VÀ CỘNG SỰ ................................................................................... 46 GS. TS. Bùi Thế Cƣờng 6. KHÁI NIỆM CỘNG ĐỒNG ĐÔ THỊ: CẤU TRÚC, MẠNG LƢỚI VÀ SỰ KIẾN TẠO BIỂU TƢỢNG.................................................................................................................... 50 ThS. Đỗ Hồng Quân 7. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ VAI TRÒ CỦA CHA MẸ TRONG VIỆC GIÁO DỤC CON TỪ 0 ĐẾN 6 TUỔI ........................................................................................... 63 TS. Phạm Thị Thúy 8. NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY ................................................................................................................................... 75 ThS. Nguyễn Quang Giải, ThS. Nguyễn Phƣơng Cƣờng 9. VAI TRÒ CỦA INTERNET ĐỐI VỚI SỰ LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI TP. HỒ CHÍ MINH VÀ THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI .................................................................................................... 84 TS. Thái Huỳnh Anh Chi, ThS. Trần Thị Thanh Lan, ThS. Đỗ Hồng Quân 10. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN SỰ HÀI LÒNG CỦA CÔNG DÂN VỀ GIẢI QUYẾT CÁC THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TẠI CƠ SỞ (NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP QUẬN ĐỐNG ĐA - HÀ NỘI) ......................................................................................... 100 ThS. Nguyễn Chu Du 11. GIÀ HÓA DÂN SỐ: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CHÍNH SÁCH HƢU TRÍ................................................................................... 111 ThS. Nguyễn Thị Hồng 2
  4. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” 12. CHĂM SÓC NGƢỜI CAO TUỔI TRONG TIẾN TRÌNH GIÀ HOÁ DÂN SỐ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.......................................................................................... 121 ThS. Lê Văn Thành 13. ĐẶC ĐIỂM LỐI SỐNG QUẦN CƢ VÀ TƢƠNG TRỢ LẪN NHAU CỦA CỘNG ĐỒNG NGƢỜI HOA Ở BÌNH DƢƠNG NHÌN TỪ GÓC ĐỘ KINH TẾ VÀ VĂN HÓA . 132 ThS. Đào Vĩnh Hợp, ThS. Võ Thị Ánh Tuyết 14. GIẢI PHÁP SINH KẾ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG TRONG CÁC TIỂU VÙNG ĐBSCL VÀ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI.......................................................... 146 TS. Trần Thị Phụng Hà PHẦN II: LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM VÀ DI CƯ 15. LAO ĐỘNG NỮ VÀ NGHÈO ĐÔ THỊ TRONG NỀN KINH TẾ PHI CHÍNH QUY 152 ThS. Dƣơng Trƣờng Phúc 16. IDENTIFYING SOME FORMS OF VIOLENCE TOWARDS FEMALE DOMESTIC WORKERS IN HO CHI MINH CITY NOWADAYS ...................................................... 164 Cao Thanh Tam, M.A. 17. ĐA DẠNG GIỚI TRONG CHUYỂN ĐỔI VIỆC LÀM CỦA THỊ TRƢỜNG LAO ĐỘNG NHẬP CƢ TẠI ĐÀ LẠT ...................................................................................... 177 TS. Vũ Thị Thùy Dung 18. HÀI LÒNG VỚI VIỆC LÀM Ở CÁC GIAI CẤP TRUNG LƢU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................................................................................................................... 187 GS. TS. Bùi Thế Cƣờng 19. HỖ TRỢ SINH KẾ ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHMER NHẬP CƢ Ở BÌNH DƢƠNG TỪ MỘT PHÂN TÍCH ĐỊNH LƢỢNG .................................................................................. 199 ThS. Lê Anh Vũ 20. TÁC ĐỘNG CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG ĐẾN CÔNG NHÂN LAO ĐỘNG TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP – CÁCH MẠNG 4.0....................................................... 212 PGS.TS Hoàng Thị Nga 21. SỰ TRỞ VỀ CỦA NHỮNG CÔ DÂU VIỆT VÀ NHỮNG NGƢỜI CON LAI ......... 218 TS. Nguyễn Nữ Nguyệt Anh, PGS. TS. Nguyễn Thị Hồng Xoan 22. LAO ĐỘNG DI CƢ TỰ DO TRONG KHU VỰC ASEAN: NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP LAO ĐỘNG VIỆT NAM TẠI THÁI LAN .............................................................. 231 ThS. Nguyễn Xuân Anh 23. FAMILY AND MIGRATION AMONG FACTORY WORKERS IN CHINA AND VIETNAM ....................................................................................................................... 243 Prof. Kaxton Siu, Prof. Jonathan Unger 3
  5. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” CHƯƠNG TRÌNH Ngày 21/12/2018  Hoạt động chính: Ngày Xã hội học Nam Bộ 2018 (Hội thảo khoa học “Phát triển Xã hội học công ở Việt Nam”)  Địa điểm: Hội trƣờng D, 10-12 Đinh Tiên Hoàng, P. Bến Nghé, Q.1, TP. HCM  Thời gian: 07:30 - 17:00 07:30 - 08:00: Đăng ký 08:00 - 09:00: Khai mạc và Phiên toàn thể 09:00 - 11:45: Phiên tiểu ban 11:45 - 12:00: Bế mạc 12:00 - 13:30: Nghỉ trƣa 13:30 - 17:00: Tọa đàm Biến đổi khí hậu Ngày 22/12/2018  Hoạt động chính: Chƣơng trình Kỷ niệm 20 năm thành lập Khoa Xã hội học  Địa điểm: Hội trƣờng D và khuôn viên sân nhà B, 10-12 Đinh Tiên Hoàng, P. Bến Nghé, Q.1, TP. HCM  Thời gian: 08:00 - 21:00 Phần Lễ: 08:00 - 11:00 (Hội trƣờng D) Phần Hội: 11:00 - 21:00 (khuôn viên sân nhà B) 4
  6. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” THÀNH PHẦN TỔ CHỨC HỘI THẢO Ban Chỉ đạo: 1. PGS. TS Ngô Thị Phƣơng Lan - Hiệu trƣởng, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM - Trƣởng ban 2. PGS. TS Lê Thanh Sang - Viện trƣởng, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ - Đồng Trƣởng ban Ban Tổ chức: 1. PGS. TS Nguyễn Thị Hồng Xoan - Trƣởng khoa, Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM - Trƣởng ban 2. GS. TS Bùi Thế Cƣờng - Uỷ viên, Hội đồng biên tập Tạp chí Khoa học Xã hội TP. HCM – Đồng Trƣởng ban 3. TS. Trần Anh Tiến - Trƣởng phòng, Phòng QLKH-DA, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM - Thành viên 4. TS. Nguyễn Nữ Nguyệt Anh - Phó Trƣởng khoa, Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM - Thành viên 5. ThS. Phạm Thị Thùy Trang - Phó Trƣởng khoa, Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM - Thành viên 6. ThS. Cao Thanh Tâm - Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM - Thành viên Ban Biên tập: 1. PGS. TS Nguyễn Thị Hồng Xoan - Trƣởng khoa, Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM - Trƣởng ban; 2. GS. TS Bùi Thế Cƣờng - Uỷ viên, Hội đồng biên tập Tạp chí Khoa học Xã hội TP. HCM - Đồng Trƣởng ban; 3. TS. Nguyễn Nữ Nguyệt Anh - Phó Trƣởng khoa, Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM - Thành viên; 4. ThS. Phạm Thị Thùy Trang - Phó Trƣởng khoa, Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM - Thành viên 5. ThS. Cao Thanh Tâm - Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM - Thành viên 6. ThS. Trịnh Thị Nhài - Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM - Thành viên 7. ThS. Ngô Trà My - Khoa Xã hội học, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM - Thành viên 5
  7. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” XÃ HỘI HỌC CÔNG CỘNG: MỘT HƢỚNG NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC HƠN LÀ MỘT PHƢƠNG PHÁP, HAY TẬP HỢP CÁC LÝ THUYẾT ThS. Tạ Xuân Hoài Khoa Khoa học xã hội và Nhân văn, Trƣờng Đại học Tôn Đức Thắng Email: taxuanhoai@tdt.edu.vn Tóm tắt: Bài viết này thảo luận về xã hội học công cộng, đây là một chương trình nghị sự đã và đang được tranh luận chưa hoàn thành. Các nhà xã hội học cho rằng, để xã hội học công cộng tồn tại như một chuyên ngành xã hội hội học, điều quan trọng cần phải làm rõ tính khoa học của nó với các hình thức phù hợp khoa học, cố gắng vượt qua những lợi ích của chính nó. Nội dung bài viết này dựa vào những công trình nghiên cứu của các nhà xã hội học Mỹ - Hiệp hội Xã hội học Hoa Kỳ có nhiều đóng góp cho cuộc tranh luận công khai thực sự về nội dung này – Những quan điểm về xã hội học công cộng của Ben Agger, Theda Skocpol và Michael Burawoy được sử dụng nhằm để phân tích phù hợp với bản chất của tên gọi “Xã hội học công cộng” - “Public Sociology”, cũng như sự cần thiết của hướng nghiên cứu xã hội học công cộng là một hướng nghiên cứu xã hội học hơn là một phương pháp, hay tập hợp các lý thuyết. Từ khóa: xã hội học chuyên biệt, xã hội học phê phán, xã hội học chính sách và xã hội học công cộng, công chúng. 1. Dẫn nhập Trong thập niên trƣớc, các cuộc tranh luận về xã hội học công cộng đã đƣa ra những câu hỏi liên quan đến việc bổ sung mục đích nghiên cứu của xã hội học. Xã hội học công cộng đặt ra câu hỏi về xã hội học là gì và mục tiêu nghiên cứu cần có của nó là gì (1). Thực ra, các cuộc tranh luận nhƣ vậy có một lịch sử lâu dài trong xã hội học Mỹ và trong khoa học xã hội Mỹ nói chung. Chẳng hạn, nhà sử học Mark C. Smith đã điều tra các cuộc tranh luận trƣớc đây về mục đích của khoa học xã hội trong cuốn sách khoa học xã hội của ông: “Social Science in the Crucible: The American Debate over Objectivity and Purpose, 1918 - 1941” (1994), trong khi Stephen P. Turner và Jonathan H. Turner tranh luận trong cuốn sách của họ: “The Impossible Science: An Institutional Analysis of American Sociology” (1990), cho rằng nghiên cứu xã hội học với mục đích thông qua sự phụ thuộc vào công chúng bên ngoài, đã dẫn đến sự hạn chế tiềm năng xã hội học(2). Những cuộc tranh luận về xã hội học công cộng đã và đang tạo ra những kết quả sâu sắc đối với nghiên cứu, giảng dạy và làm xã hội học, đã bắt đầu với một vài thay đổi định hƣớng lại chƣơng trình đào tạo để trong đó bao gồm các hƣớng nghiên cứu xã hội học công cộng, cũng nhƣ làm rõ hơn vai trò của xã hội học trong đời sống công cộng, trong việc cung cấp thông tin hữu ích, chính xác và khoa học nghiêm ngặt cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà lãnh đạo cộng đồng (Burawoy, 2005). 6
  8. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” Cho đến nay, chƣa có định nghĩa nào về xã hội học công cộng một cách thống nhất, mặc dù thuật ngữ xã hội học công cộng - “public sociology” - lần đầu tiên đƣợc Herbert Gans giới thiệu trong "Sociology in America: The Discipline and the Public” của ông tại Hiệp hội Xã hội học Mỹ (American Sociological Association – ASA) vào năm 1988. Diễn văn này là tập hợp các nghiên cứu của các nhà xã hội học công cộng, nhƣ nhà xã hội học David Riesman, Robert Bellah. Đến năm 2000, nhà xã hội học Ben Agger cho xuất bản công trình “Public Sociology: From Social Facts to Literary Acts”, đƣợc xem là công trình về xã hội học công cộng đầu tiên và Ben Agger gọi xã hội học công cộng là xã hội học giải quyết các vấn đề công cộng lớn của xã hội. Tuy nhiên, sau cuộc họp thƣờng niên của Hiệp hội Xã hội học Hoa Kỳ (ASA) vào năm 2004, tại đó Michael Burawoy đã đƣa ra quan điểm về xã hội học công cộng đƣợc giới thiệu trong bài diễn văn của ông, cung cấp một tóm tắt ngắn gọn về thuật ngữ xã hội học công cộng. "Phản ánh tâm thế của xã hội, xã hội học công cộng phải chỉ ra, thúc đẩy và thông báo tranh luận công khai về sự bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc, các chế độ giới tính mới, suy thoái môi trường, trào lưu thị trường, bạo lực của chính phủ hoặc phi chính phủ”(3). M. Burawoy tin rằng thế giới cần xã hội học công cộng. M. Burawoy và những ngƣời ủng hộ xã hội học công cộng khác khuyến khích xã hội học công cộng phấn đấu mang lại những đối thoại giữa nhà xã hội học và các (loại) công chúng ngoài các viện, trƣờng đại học nghiên cứu, một sự đối thoại mà trong đó cả hai bên có thể nâng cao sự hiểu biết của mình về những vấn đề công cộng. Chúng bao gồm những cuộc tranh luận về chính sách công, hoạt động chính trị, mục đích của phong trào xã hội và các thể chế của xã hội dân sự. Nếu xã hội học công cộng đƣợc coi là "chuyển thể" trong ngành xã hội học, thì đó chính là mục tiêu khôi phục lại nguyên tắc xã hội học bằng cách vận dụng các phƣơng pháp thực nghiệm và hiểu biết lý thuyết để tìm ra những gì xã hội có thể đƣợc. Xã hội học công cộng có lẽ đƣợc hiểu rõ nhất là một hƣớng nghiên cứu xã hội học hơn là một phƣơng pháp, hay tập hợp các lý thuyết(4). Theo M. Burawoy việc xác định và làm rõ sự khác biệt của bốn loại kiến thức xã hội học: xã hội học chuyên nghiệp, xã hội học chính sách, xã hội học phê bình và xã hội học công cộng sẽ phân biệt đƣợc xã hội học công cộng nhƣ là một hƣớng nghiên cứu của xã hội học, nó rộng lớn hơn nhấn mạnh việc mở rộng thêm ranh giới chuyên ngành xã hội học. 2. Xã hội học công cộng trong nghiên cứu xã hội học Công việc của các nhà xã hội học từ cổ điển đến đƣơng đại, thƣờng chia ra làm hai lĩnh vực nghiên cứu: xã hội học ứng dụng và xã hội học hàn lâm. Xã hội học ứng dụng hay còn đƣợc gọi là xã hội học thực hành, đã đề cập đến hoạt động lao động của các nhà xã hội học can thiệp vào đối tƣợng nghiên cứu, bằng cách sử dụng kiến thức xã hội học trong một môi trƣờng cụ thể. Các nhà xã hội học ứng dụng hoạt động trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, bao gồm các trƣờng đại học, chính phủ và các tổ chức tƣ nhân. Xã hội học ứng dụng sử dụng lý thuyết xã hội và các phƣơng pháp nghiên cứu xã 7
  9. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” hội với mục đích “tạo ra thay đổi xã hội tích cực thông qua can thiệp tích cực” (Bruhn, 1999, 1). Cụ thể hơn, xã hội học ứng dụng có thể đƣợc xem nhƣ là phần vận dụng của lý thuyết xã hội học chuyển thể thành thực tiễn cho các đối tƣợng nghiên cứu của nó. Các nhà xã hội học ứng dụng có vai trò mô tả cách thức sử dụng kiến thức xã hội học trong việc trả lời các câu hỏi nghiên cứu, hoặc các vấn đề đƣợc xác định bởi các nhóm lợi ích cụ thể, chứ không phải để trả lời các câu hỏi của các nhà nghiên cứu (Steele và Price, 2007, 4). Nghiên cứu ứng dụng đôi khi đƣợc tiến hành trong một môi trƣờng đa lĩnh vực và phối hợp với các tổ chức khác nhau, bao gồm các dịch vụ cộng đồng, các nhóm xã hội, các tổ chức xã hội và đôi khi hợp tác với các trƣờng đại học. Xã hội học ứng dụng sử dụng kết quả nghiên cứu của mình để giúp cộng đồng giải quyết các vấn đề hàng ngày. Chẳng hạn nhƣ cải thiện trật tự cộng đồng và phòng chống tội phạm, mô tả thực trạng và cải thiện tình trạng ma túy, đánh giá nhu cầu của các khu vực nông thôn – đô thị, phát triển năng lực của hệ thống giáo dục, hoặc thúc đẩy sự phát triển tình trạng nhà ở, các nguồn lực liên quan đến mƣu sinh và mô thức sống của cộng đồng. Xã hội học hàn lâm khác với xã hội học ứng dụng, vì xã hội học hàn lâm trong đó các nhà xã hội học làm việc trong môi trƣờng học tập nhƣ trƣờng đại học với giảng dạy và định hƣớng nghiên cứu thuần túy. Mặc dù có một số nguồn gốc phổ biến, thực hành xã hội học hoàn toàn khác biệt với công việc xã hội. Hiện nay, một số lƣợng ngày càng tăng của các trƣờng đại học đang cố gắng để giảng dạy chƣơng trình đào tạo xã hội học thực tế theo cách này. Các khóa học xã hội học hàn lâm cung cấp cho sinh viên những kỹ năng để có thể làm việc hiệu quả với từng đối tƣợng nghiên cứu, cung cấp kiến thức hữu ích cho nghề nghiệp nhƣ hỗ trợ nạn nhân và phục hồi ma túy và dạy học sinh cách tích hợp kiến thức xã hội với các lĩnh vực khác mà họ có thể đi vào nhƣ liệu pháp hôn nhân và gia đình và các công việc xã hội. Nguyên tắc xã hội học là năng động và luôn thay đổi và có một lịch sử lâu dài về việc kết hợp những hiểu biết về lý thuyết mới và phƣơng pháp thực nghiệm vào các phân tích các hiện tƣợng nghiên cứu của nó(5). Thật vậy, xã hội học đã phát triển từ các quá trình nghiên cứu thích ứng với vấn đề nghiên cứu về sự thống trị và phong trào lao động; các khái niệm về lý thuyết phân tầng đã chuyển từ nghiên cứu về tính di động trong một hệ thống phân tầng của uy tín nghề nghiệp, để xem xét việc thay đổi cấu trúc bất bình đẳng xã hội, chủng tộc và giới tính; xã hội học chủng tộc đã chuyển từ các lý thuyết về đồng hóa, sang nền kinh tế chính trị, để nghiên cứu về các chủng tộc; và lý thuyết xã hội đã đƣa ra những cách giải thích căn bản về các hiện tƣợng xã hội trên đƣờng dẫn đến kiến thức xã hội hoàn toàn mở hơn. Đáp ứng khoảng cách ngày càng tăng giữa các đặc điểm xã hội học và thế giới hiện nay, đó cũng chính là thách thức của xã hội học công cộng nghiên cứu làm sao thu hút nhiều công chúng bằng nhiều phƣơng cách, thƣờng với mục tiêu trao quyền cho công chúng bị thiệt thòi (Burawoy, 2005). Bằng cách này, các nhà xã hội học Mỹ những năm gần đây đã và đang làm cho xã hội học công cộng trở thành một hƣớng nghiên cứu có thể đƣợc công nhận và hợp pháp. Theo đó, họ đã chỉ ra sự phân chia lao động xã hội học, trong đó xã hội học 8
  10. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” công cộng là một phần của nghiên cứu xã hội học rộng lớn, bao gồm xã hội học chuyên biệt, xã hội học phê phán, xã hội học chính sách và xã hội học công cộng. Xã hội học chính sách Đầu tiên cần phân biệt xã hội học công cộng từ xã hội học chính sách. Xã hội học chính sách là hƣớng nghiên cứu cung cấp các giải pháp cho các vấn đề xã hội và mục tiêu thƣờng đƣợc xác định bởi một đối tƣợng nghiên cứu, có thể là chính phủ hay các tổ chức xã hội. Xã hội học chính sách cung cấp kiến thức, công cụ có thể đƣợc sử dụng để giải quyết hoặc giúp đỡ một trƣờng hợp cụ thể trong lĩnh vực nghiên cứu của xã hội. Một số đối tƣợng nghiên cứu đƣợc xác định là nhiệm vụ của các nhà xã hội học chính sách với mức độ cá nhân, tổ chức..., bên cạnh đó cũng có thể là các đối tƣợng nghiên cứu khác ở cấp độ rộng lớn hơn, nhƣ các chƣơng trình nghị sự, chính sách xã hội, tổ chức cộng đồng... Thƣờng xã hội học chính sách tập trung nghiên cứu về các dịch vụ quan trọng đối với cộng đồng, nghèo đói, phát triển cộng đồng hoặc có thể cung cấp một chƣơng trình nghiên cứu rộng hơn ở cấp độ quốc gia, quốc tế. Thông tin thu thập đƣợc từ xã hội học chính sách mở ra cho một đối tƣợng nghiên cứu khác ngoài học thuật. Nó không chỉ giới hạn trong ranh giới học thuật. Những phát hiện của nghiên cứu xã hội học chính sách có thể ảnh hƣởng đến công chúng, vì chúng có thể ảnh hƣởng đến chính sách của chính phủ, hay chính sách của một tổ chức xã hội. Trong những năm gần đây, xã hội học chính sách đƣợc xem nhƣ là một phƣơng pháp nghiên cứu phổ biến để phân tích các chính sách về giáo dục, kinh tế, chính trị… Chính công việc nghiên cứu của các nhà xã hội học chính sách nhƣ vậy, nên đôi khi nó còn đƣợc gọi là “xã hội học chính sách xã hội”. Xã hội học công cộng Ngƣợc lại, xã hội học công cộng, tham gia vào một mối quan hệ đối thoại giữa nhà xã hội học và công chúng. Trong đó chƣơng trình nghị sự của mỗi đối tƣợng nghiên cứu đƣợc đƣa vào thảo luận và bổ sung, hiệu chỉnh cho nhau. Các nghiên cứu của xã hội học công cộng, chƣơng trình nghị sự đƣợc đƣa vào nghiên cứu thƣờng liên quan đến các giá trị hoặc mục tiêu nghiên cứu đƣợc chia sẻ từ cả hai bên, để thông tin thảo luận có đi có lại. Đó là mục tiêu của xã hội học công cộng, phấn đấu mang lại những đối thoại giữa nhà xã hội học và các (loại) công chúng ngoài các viện, trƣờng đại học nghiên cứu; một đối thoại mà trong đó cả hai bên có thể nâng cao sự hiểu biết của mình về những vấn đề công cộng. Chúng bao gồm những cuộc tranh luận về chính sách công, hoạt động chính trị, mục đích của phong trào xã hội và các thể chế của xã hội dân sự. Các phƣơng pháp tiếp cận xã hội học công cộng và xã hội học chính sách không loại trừ lẫn nhau và thậm chí không đối kháng nhau, chúng thƣờng bổ sung cho nhau trong quá trình nghiên cứu. Đặc biệt là khi chính sách thất bại, xã hội học chính sách có thể trở thành xã hội học công cộng (Burawoy, 2005). Sự khác biệt giữa xã hội học công cộng và xã hội học chính sách thƣờng khó có thể phân định rạch ròi, nhƣ việc xã hội học công cộng có thể đồng thời phục vụ khách hàng và tạo ra cuộc tranh luận công khai. 9
  11. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” Xã hội học chuyên biệt Xã hội học chuyên biệt cung cấp các phƣơng pháp nghiên cứu và thử nghiệm, các chuyên ngành hẹp, bằng cách phân tích và tích lũy kiến thức, đƣa ra những câu hỏi định hƣớng cũng nhƣ khung khái niệm trong nghiên cứu các vấn đề xã hội trong từng lĩnh vực cụ thể. Xã hội học chuyên biệt quan trọng nhất là bao gồm rất nhiều chƣơng trình nghiên cứu giao thoa nhau, mỗi chƣơng trình có các giả định khác nhau. Từ việc thao tác hóa bộ khái niệm, xác định bộ câu hỏi và vận dụng lý thuyết nghiên cứu, nhƣ các lý thuyết chuyên ngành về xã hội học tổ chức, xã hội học chính trị, xã hội học văn hóa, xã hội học gia đình, xã hội học kinh tế, xã hội học đô thị… Trong các lĩnh vực nghiên cứu cụ thể này, còn có các lý thuyết chuyên sâu hơn, lý giải các sự kiện hiện tƣợng nghiên cứu của nó rõ hơn. Xã hội học chuyên biệt là một dạng xã hội học có liên quan chủ yếu với việc nghiên cứu của các nhà xã hội học hàn lâm khác. Xã hội học phê phán Xã hội học phê phán là một hƣớng nghiên cứu về xã hội học, nhằm để kiểm tra tri thức của các chƣơng trình nghiên cứu xã hội học chuyên biệt. Một vài nghiên cứu về xã hội học phê phán nhƣ: Công trình nghiên cứu xã hội học chuyên biệt của Alvin Gouldner (1970) đã sử dụng lý thuyết cấu trúc chức năng để nghiên cứu cho các giả định của ông về một xã hội đồng thuận không phù hợp với các cuộc xung đột leo thang của những năm 1960. Lý thuyết Nữ quyền đƣợc cho là lý thuyết kỳ quặc đã kéo theo các nhà xã hội học chuyên biệt xem xét nguyên nhân sâu xa và sự phổ biến của giới tính, tình dục và chủng tộc đàn áp. Trong mỗi trƣờng hợp xã hội học phê phán cố gắng để làm cho xã hội học chuyên biệt nhận thức đƣợc các thành kiến, thúc đẩy các chƣơng trình nghiên cứu mới đƣợc xây dựng trên nền tảng thay thế. Kiến thức xã hội học phê phán thẩm định lại các cơ sở giá trị của xã hội cũng nhƣ nghề nghiệp của xã hội học và xã hội học phê phán cũng chính là lƣơng tâm của các nhà xã hội học chuyên biệt (Burawoy, 2005). Các nhà xã hội học thế giới nói chung và các nhà xã hội học Mỹ nói riêng vẫn tiếp tục tạo sự tranh luận trong việc phân loại nghiên cứu xã hội học trên thế giới hiện nay, thay vì tiếp tục dành cho các cuộc tranh luận về kỹ thuật nghiên cứu định lƣợng và kỹ thuật nghiên cứu định tính, phƣơng pháp luận quy nạp và phƣơng pháp luận diễn giải, xã hội học vĩ mô và xã hội học vi mô bằng cách tập trung hai câu hỏi: Vì sao chúng ta theo đuổi xã hội học? Các luận điểm còn lại cố gắng biện minh và mở rộng hệ thống phân loại xã hội học này thế nào?(6) 3. Xã hội học công hay Xã hội học công cộng? Để hiểu rõ khái niệm “public” trong khái niệm “public sociology”, chúng ta cần phải tìm hiểu rõ mục tiêu của xã hội học công cộng khi các nhà xã hội học tuyên bố về nó. Theo M. Burawoy, “những lý do cho sự hấp dẫn của xã hội học ngày nay, là tính đa dạng và mối quan hệ của xã hội học trong nguyên tắc chung, nhƣng có sự chuyển thể trong phân công lao động xã hội học”. Việc xem xét mối quan hệ hỗ tƣơng của việc phân chia các hƣớng nghiên cứu xã hội học – chuyên biệt, phê phán, chính sách, công cộng, cũng nhƣ so sánh xã hội học với 10
  12. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” các ngành khoa học xã hội khác, sẽ làm xã hội học trở nên đặc biệt, không chỉ là khoa học mà còn là một lực lƣợng đạo đức và công cộng. Đây là lời hứa và thách thức của xã hội học công cộng, cũng chính là sự bổ sung nguyên tắc xã hội học, chứ không phải là sự phủ nhận vai trò của xã hội học chuyên biệt. M. Burawoy cho rằng, nhiệm vụ của các nhà xã hội học bấy lâu nay đã trở nên nhạy cảm hơn, tập trung hơn vào tiêu cực, nhƣng bằng chứng mà các nhà xã hội học đã tìm ra đƣợc không gợi ý hồi quy trong rất nhiều môi trƣờng xã hội khác nhau – khu vực, quốc gia, thế giới. Và tất nhiên, các nhà xã hội học bị chi phối rất nhiều trong đặc tính của nó bởi một thể chế xã hội cụ thể thù địch với chính ý tƣởng của “xã hội”. Do vậy, xã hội học công cộng có nhiệm vụ "phản ánh tâm thế của xã hội” nhƣ là một phần của đời sống xã hội học của chúng ta. Xã hội học công cộng phấn đấu mang lại những đối thoại giữa nhà xã hội học và các (loại) công chúng ngoài các viện, trƣờng đại học nghiên cứu, một sự đối thoại mà trong đó cả hai bên có thể nâng cao sự hiểu biết của mình về những vấn đề công cộng. Chúng bao gồm những cuộc tranh luận về chính sách công, hoạt động chính trị, mục đích của phong trào xã hội và các thể chế của xã hội dân sự (Burawoy, 2005). Xã hội dân sự đƣợc hiểu nhƣ là các hiệp hội, phong trào và công chúng ở bên ngoài nhà nƣớc và nền kinh tế, nhƣ: các đảng phái chính trị, công đoàn, trƣờng học, cộng đồng đức tin, phƣơng tiện truyền thông in ấn, tổ chức tự nguyện và tổ chức nhân quyền(7). Xã hội học liên kết với xã hội dân sự, đó là nhiệm vụ xã hội học công cộng, nó đại diện cho lợi ích của nhân loại, loại trừ hoặc giảm thiểu lợi ích của chủ nghĩa độc tài nhà nƣớc và thị trƣờng. Điều này đã thể hiện đầy đủ nghĩa “công cộng” của khái niệm “public” trong khái niệm “public sociology” – Xã hội học công cộng. Nghĩa thứ hai của khái niệm “public” trong khái niệm “public sociology” là nghĩa “công chúng”. Xã hội học công cộng đƣa xã hội học vào một cuộc trò chuyện với công chúng, đƣợc hiểu là những ngƣời tự tham gia vào cuộc trò chuyện trong quá trình nghiên cứu của các nhà xã hội học (Burawoy, 2005). Chúng ta không nên nghĩ về công chúng nhƣ cố định, nhƣng trong quá trình nghiên cứu các nhà xã hội học có thể tham gia vào sáng tạo của công chúng, cũng nhƣ nắm bắt diễn tiến của công chúng. Thật vậy, một phần nghiên cứu của các nhà xã hội học cụ thể là định nghĩa các dạng (loại) ngƣời - những ngƣời bị AIDS, phụ nữ, phụ nữ bị ung thƣ, ngƣời đồng tính, tội phạm thanh thiếu niên… - và nếu các nhà xã hội học làm đƣợc nhƣ vậy với sự cộng tác của công chúng, là đồng nghĩa với việc xã hội học sẽ tạo ra công chúng, mặc dù họ có thể không thực sự tham gia vào. Ví nhƣ, ngƣời phụ nữ đã trở thành cơ sở của công chúng, nghĩa là những phụ nữ đƣợc định nghĩa sẽ không bị gạt ra ngoài và không bị im lặng. Với sự trợ giúp của xã hội học chuyên biệt, các nhà xã hội học công cộng sẽ nhìn nhận các vấn đề riêng tƣ của công chúng thành các vấn đề công cộng, bằng cách các nhà xã hội học công cộng tham gia vào cuộc sống của công chúng. Từ quan điểm này đã cho thấy, sự đa dạng của công chúng, rõ ràng rằng xã hội học công cộng cần phát triển một “xã hội học của công chúng”. 11
  13. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” Trƣớc đó, Theda Skocpol (2003) đã khuyến cáo rằng, công chúng đang biến mất - bị phá hủy bởi thị trƣờng, bị xâm chiếm bởi các phƣơng tiện truyền thông hoặc bị cản trở bởi bộ máy quan liêu của nhà nƣớc. Tuy nhiên, chính sự tồn tại của một xã hội học công cộng rộng lớn, cho thấy không có sự thiếu hụt công chúng nếu chúng ta quan tâm đến việc tìm kiếm công chúng. Và các nhà xã hội học công cộng phải sử dụng rất nhiều phƣơng pháp để tìm hiểu về việc thu hút công chúng tham gia vào nghiên cứu của họ. Xã hội học ngoài việc tạo ra các công chúng khác nhau cho nghiên cứu của chính mình, các nhà xã hội học còn có thể cấu thành chính mình nhƣ một công chúng hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu. M. Burawoy chứng minh rằng, “có một công chúng sẽ không biến mất trƣớc khi chúng ta làm xã hội học công cộng, đó là sinh viên của chúng ta. Mỗi năm chúng tôi tạo ra khoảng 25.000 BA mới, những ngƣời có chuyên ngành xã hội học. Có ý nghĩa gì khi nghĩ họ là một công chúng tiềm năng? Sinh viên sẽ trở thành đại sứ xã hội học cho thế giới bên ngoài rộng lớn hơn khi họ trở lại lớp học, với sự tham gia của họ với vai trò nhiều (loại) công chúng khác nhau. Chúng tôi là tất cả các nhà xã hội học công cộng tiềm năng.” (Burawoy, 2005). Tuy nhiên, các nhà xã hội học công cộng cần phân biệt giữa các (loại) công chúng khác nhau, nhƣ việc làm nhƣ thế nào để hai bên công chúng học thuật và công chúng ngoài học thuật đƣợc đƣa vào đối thoại? Đó là một câu hỏi mở và rất khó cho các nhà xã hội học công cộng trả lời. Do vậy, các nhà xã hội học công cộng cần thông qua đối thoại mở, thông qua sự tham gia tự do và bình đẳng cho công chúng, thông qua tính dân chủ nội tại của mỗi tổ chức, xã hội cụ thể. Sự đa dạng của xã hội học công cộng phản ánh không chỉ các công chúng khác nhau mà là các cam kết giá trị khác nhau về một phần của nguyên tắc xã hội học. Xã hội học công cộng không có giá trị quy tắc nội tại, ngoài cam kết đối thoại công chúng về các vấn đề công cộng đƣợc nêu lên bởi xã hội học. Nhƣ vậy cho thấy, khái niệm “public sociology” không thể đƣợc hiểu và dùng với nghĩa “xã hội học công” hoặc “xã hội học công chúng”. Vì nhƣ thế rất dễ ngộ nhận xã hội học nghiên cứu về các chính sách công, về chính sách nhà nƣớc, các vấn đề mang tầm chiến lƣợc của chính sách xã hội, hoặc nghiên cứu về công chúng. Do vậy, để hiểu rõ hơn vai trò, nhiệm vụ và hƣớng nghiên cứu của chuyên ngành xã hội học mới này đúng bản chất với “cái tên” của nó đã đƣợc phân tích ở trên, cần phải đƣợc gọi tên thể hiện đầy đủ bản chất của nó là Xã hội học cộng cộng. 4. Thay lời kết Khoa học xã hội không phải là một lĩnh vực nghiên cứu chung của các ngành, mặc dù xu hƣớng nghiên cứu liên ngành ngày càng có giá trị và mở rộng. Bởi vì mỗi ngành có nhiệm vụ và vai trò nghiên cứu đặc thù khác nhau và cả lợi ích cũng khác nhau. Nếu nhƣ quan điểm của khoa học kinh tế là thị trƣờng và sự mở rộng của nó, quan điểm của khoa học chính trị là trạng thái và sự bảo đảm ổn định chính trị, thì quan điểm xã hội học là xã hội dân sự và bảo vệ xã hội. Trong giới thiệu về xã hội học công cộng của Michael Burawoy, “nhiệm vụ xã hội học công cộng là tăng cƣờng các thể chế xã hội dân sự chống lại sự lấn 12
  14. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” chiếm của nhà nƣớc và thị trƣờng”, đã giúp xã hội học có thể đƣợc kết nối với xã hội bằng cách nghiên cứu xã hội dân sự. Trong đó, xã hội học công cộng đang có xu hƣớng làm thay đổi đối với cái nhìn và nhiệm vụ của xã hội học, từ đó chính các nhà xã hội học đã điều chỉnh những thay đổi cho phù hợp với việc dạy học và làm xã hội học trong bối cảnh xã hội hiện nay. Từ những phân tích trên cho thấy, chúng ta cần hiểu và gọi đúng tên Xã hội học công cộng, sẽ giúp cho chúng ta định hƣớng lại chƣơng trình đào tạo phù hợp, triển khai các công trình nghiên cứu khả thi với đối tƣợng nghiên cứu của xã hội học, bao gồm cả các kiến thức xã hội học (xã hội học chuyên biệt, xã hội học phê phán, xã hội học chính sách hay xã hội học công cộng). Thật vậy, với rất nhiều chƣơng trình kết hợp lý tƣởng của xã hội học công cộng vào chƣơng trình giảng dạy cho sinh viên, điều này sẽ giúp khả năng đào tạo hiệu quả đáng kể cho cách các nhà xã hội học tƣơng lai đƣợc đào tạo để làm xã hội học. Chú thích (1) Nguyên văn Tiếng Anh: “Debates over public sociology have rekindled questions concerning the extra-academic purpose of sociology. Public sociology raises questions about what sociology is and what its goals ought to (or even could) be”. (https://en.wikipedia.org/wiki/Public_sociology 2018) (2) Nguyên văn Tiếng Anh: “Historian Mark C. Smith, for instance, has investigated earlier debates over the purpose of social science in his book Social Science in the Crucible: The American Debate over Objectivity and Purpose,1918-1941 (1994), while Stephen P. Turner and Jonathan H. Turner argue in their book, The Impossible Science: An Institutional Analysis of American Sociology (1990), that sociology's search for purpose, through dependence on external publics, has limited the discipline's potential”. (https://en.wikipedia.org/wiki/Public_sociology 2018). (3) Nguyên văn Tiếng Anh: “As mirror and conscience of society, sociology must define, promote and inform public debate about deepening class and racial inequalities, new gender regimes, environmental degradation, market fundamentalism, state and nonstate violence”, (Michael Burawoy. 2005). (4) Nguyên văn Tiếng Anh: “Public sociology is a subfield of the wider sociological discipline that emphasizes expanding the disciplinary boundaries of sociology in order to engage with non-academic audiences. It is perhaps best understood as a style of sociology rather than a particular method, theory”. (Michael Burawoy. 2005). (5) Nguyên văn Tiếng Anh: “The sociological discipline is dynamic and ever changing, and has a long history of incorporating new theoretical and empirical insights into its analyses, often with the goal of empowering marginalized publics”. (https://en.wikipedia.org/wiki/Public_sociology 2018). (6) Nguyên văn Tiếng Anh: “displacing debates about quantitative and qualitative techniques, positivist and interpretive methodologies, micro and macro sociology by 13
  15. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” centering two questions: for whom and for what do we pursue sociology? The remaining theses attempt to justify and expand this classification system”. (Michael Burawoy. 2005). (7) Nguyên văn Tiếng Anh: “… movements and publics that were outside both state and economy, political parties, trade unions, schooling, communities of faith, print media and a variety of voluntary organizations”. (Michael Burawoy. 2005). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. J. G. Bruhn. (1999). “Introductory Statement: Philosophy and Future Direction”. Sociological Practice, Số 1(1): từ 1 - 2. 2. M. Burawoy. (2005). “2004 ASA Presidential Address For Public Sociology”. American Sociological Review, Số 70, từ 4 - 28/02. 3. M. Burawoy, W. Gamson, C. Ryan, S. Pfohl, D. Vaughan, C. Derber, J. Schor. “Public Sociologies: A Symposium from Boston College”. Social Problems, Số 51 (1), trang 103– 130. ISSN: 0037-7791. 4. J. Gans. (1989). "Sociology in America: The Discipline and the Public American Sociological Association, 1988 Presidential Address". American Sociological Review, Số 54, từ 1 – 16. 5. S. F. Steele and J. Price. (2007). “Applied Sociology: Terms, Topics, Tools And Tasks, 2nd ed”. Belmont: Thomson Wadsworth Publishing. 6. Straus, Roger A, Jammie, Straus, Roger và Breese, Jeffrey. (2009). “In Doing Sociology. Case Studies in Sociological Practice”. Rowman & Littlefield, ISBN 978-0- 7391-3395-8. 7. University of California. (2016). “Public Sociology”. University of California Press, 2016-04-15 14
  16. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC TRONG KHU VỰC NHÀ NƢỚC: PHÁC THẢO VỀ CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐẶT RA TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ PGS. TS Nguyễn Đức Chiện Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam Email: xhhchien@yahoo.com Tóm tắt: Dựa vào nguồn tài liệu thứ cấp và quan sát thu thập được, bài viết tổng quan sơ lược chặng đường phát triển của nền xã hội học trong khu vực nhà nước ở Việt Nam suốt hơn bốn thập kỷ qua; phân tích chỉ ra một số thành công, cơ hội và thách thức đặt ra trong hoạt động nghiên cứu và đào tạo lĩnh vực xã hội học ở Việt Nam hiện nay. Dựa vào bằng chứng thu thập được và kết quả phân tích, bài viết đưa ra một số bàn luận và khuyến nghị nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, góp phần vào phát triển bền vững và thịnh vượng của nền xã hội học Việt Nam trong bối cảnh xã hội chuyển đổi và hội nhập quốc tế. Từ khóa: phát triển xã hội học, khu vực Nhà nước, cơ hội, thách thức 1. Đặt vấn đề Xã hội học là một chuyên ngành khoa học xã hội đƣợc hình thành từ những biến đổi sâu sắc về chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học ở các nƣớc Tây Âu vào nửa sau thế kỷ XIX (Tony Bilton và các tác giả khác, 1993:19). Ngay từ ban đầu, các nhà xã hội học tiền bối đã nỗ lực vận dụng những thành tựu phƣơng pháp nghiên cứu trong khoa học tự nhiên để nghiên cứu các vấn đề xã hội mới nảy sinh, đƣa ra cách lý giải thuyết phục về các hiện tƣợng, sự kiện xã hội, tính quy luật và mối quan hệ nhân quả của nó trong đời sống xã hội ở các quốc gia phƣơng Tây. Với góc nhìn khoa học mới giúp xã hội học giải thích thấu đáo các vấn đề xã hội nảy sinh trong đời sống xã hội. Mặc dù là chuyên ngành ra đời muộn nhƣng với tính sát thực và hiệu quả, xã hội học nhanh chóng trƣởng thành cuốn hút quan tâm của toàn xã hội. Nhƣ lời Peter Berger - một học giả có uy tín trong giới xã hội học quốc tế đã nhận xét về tính ƣu trội của ngành khoa học này “Sức quyền rũ của xã hội học là ở chỗ cách nhìn (giải thích vấn đề) của nó giúp ta phát hiện ra dƣới ánh sáng mới chính thế giới mà chúng ta sống suốt đời (...) sự thông thái của xã hội học chính là ở chỗ các sự vật không đúng nhƣ vẻ ngoài của chúng” (Tony Bilton và các tác giả khác, 1993:21). Ở Việt Nam, chính thức xã hội học du nhập muộn hơn so với các ngành khoa học xã hội khác. Ngƣợc dòng thời gian, qua các tƣ liệu cho thấy từ thập niên đầu đến thập niên 60 của thế kỷ XX Xã hội học thế giới đã phát triển mạnh mẽ ở một số quốc gia châu Âu, Châu Mỹ, nhƣng Xã hội học Việt Nam vẫn chƣa đƣợc xác lập một cách chính thức. Phải đến những năm cuối của thập niên 70 (thế kỷ XX) trƣớc yêu cầu cấp bách của xã hội và những nỗ lực chung của xã hội, đặc biệt là các nhà khoa học xã hội, Xã hội học Việt Nam chính thức định hình với tính chất là một tổ chức nghiên cứu. Năm 1977, Ban Xã hội học đƣợc thành lập 15
  17. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” thuộc Viện Khoa học xã hội (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) với lực lƣợng nghiên cứu rất mỏng (10 cán bộ), chủ yếu từ các chuyên ngành khoa học khác chuyển sang, nhƣ Triết học, Toán, Văn học, Sử học, Kinh tế chính trị. Sự ra đời Ban Xã hội học đánh dấu một mốc quan trọng trong việc định hình và phát triển của bộ môn khoa học này. Cuối năm 1983, Hội đồng Bộ trƣởng (nay là Chính phủ) đã ký Quyết định thành lập Viện Xã hội học trên cơ sở Ban Xã hội học. Quyết định này có ý nghĩa quan trọng đối với những ngƣời làm nghiên cứu Xã hội học. Bộ máy lãnh đạo, cơ cấu phòng và lực lƣợng nghiên cứu đƣợc bổ sung sau khi thành lập viện. Do ở Việt Nam lúc đó chƣa có cơ sở đào tạo xã hội học nên Viện Xã hội học tuyển chọn các sinh viên tốt nghiệp đại học, nhà nghiên cứu từ các ngành khoa học tự nhiên và nhân văn vào làm công tác nghiên cứu. Đây cũng là một khó khăn đặt lên vai lãnh đạo và các cán bộ nghiên cứu khi phải bắt đầu làm quen với ngành khoa học mới mẻ này. Đầu thập niên 90 (thế kỷ XX), trƣớc nhu cầu cấp bách của xã hội trong thời kỳ Đổi mới, Chính phủ đã quyết định thành lập nhiều cơ sở đào tạo chuyên ngành xã hội học bậc đại học và sau đại học ở viện và trƣờng đại học khu vực nhà nƣớc1 (Cơ sở đào tạo Sau đại học thuộc Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Khoa Tâm lý học - Xã hội học ở Đại học Tổng hợp Hà Nội, Khoa Xã hội học ở Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Cơ sở đào tạo Sau đại học thuộc Viện Xã hội học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Khoa Xã hội học ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền; Khoa Xã hội học ở Đại học Công đoàn, v.v…). Có thể nói, giai đoạn này đánh dấu sự mở rộng và lớn mạnh của nền xã hội học Việt Nam với sự ra đời hàng loạt cơ sở nghiên cứu và đào tạo xã hội học chuyên nghiệp, chủ yếu là trong các trƣờng đại học và các viện nghiên cứu ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, việc ra đời các cơ sở này đã đóng góp thiết thực vào công tác đào tạo các thế hệ sinh viên, học viên có kiến thức chuyên môn sâu về chuyên ngành xã hội học ở Việt Nam2. Trải qua hơn 40 năm xây dựng và phát triển, từng bƣớc khắc phục khó khăn, vừa làm vừa học, các thế hệ tiền bối “thế hệ vàng3” đã không ngừng phấn đấu cho sự lớn mạnh của nền xã hội học Việt Nam. Kết quả, xã hội học ở Việt Nam đã có nhiều nhà khoa học đầu ngành về lĩnh vực lý thuyết xã hội học và chuyên ngành, nhƣ: Xã hội học An sinh xã hội, Xã hội học Đô thị, Xã hội học Nông thôn, Xã hội học Gia đình, Xã hội học Dân số, Xã hội học Văn hóa, Xã hội học Dƣ luận xã hội và Truyền thông đại chúng, Xã hội học Quản lý, Xã hội học Tôn giáo, Xã hội học Giới, v.v… Các nhà khoa học đầu đàn của xã hội học đã và đang có đóng góp quan trọng vào công tác giảng dạy và nghiên cứu đề tài/ dự án trong nƣớc và quốc tế. Thực tế hoạt động nghiên cứu xã hội học trong thời gian qua đƣợc phát triển không 1 Xã hội học khu vực nhà nƣớc đƣợc hiểu là các cơ sở nghiên cứu và đào tạo xã hội học thuộc nhà nƣớc, do (chính phủ hoặc địa phƣơng) đầu tƣ về kinh phí và cơ sở vật chất (đất đai, nhà cửa) và hoạt động chủ yếu bằng kinh phí từ các nguồn tài chính công. 2 Giới hạn xã hội học khu vực nhà nƣớc trong bài viết này quan tâm đến công tác đào tạo và nghiên cứu xã hội học ở các trƣờng đại học và viện nghiên cứu của nhà nƣớc. Bài viết không bàn về “Xã hội học công” hay “Xã hội học công cộng”. 3 GS. TS Bùi Thế Cƣờng, Nguyên Viện trƣởng Viện KHXH vùng Nam Bộ đề cập cụm từ này trong bài viết “Có hay không một thế hệ vàng của Viện Xã hội”, đƣợc in trong Kỷ yếu Viện Xã hội học 40 năm phát triển và hội nhập (1977- 2017). Nxb KHXH 2017. 16
  18. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” ngừng với số lƣợng đề tài, dự án ở các cấp độ trong nƣớc và quốc tế gia tăng. Công tác đào tạo cũng có sự phát triển nở rộ theo chiều rộng. Mỗi năm, các cơ sở đào tạo xã hội học đã cung cấp một lực lƣợng nhân lực hùng hậu với hàng nghìn sinh viên, hàng trăm học viên cao học và nghiên cứu sinh ngành xã hội học. Thông qua các dự án nghiên cứu và chƣơng trình giảng dạy, các cán bộ đã xuất bản hàng trăm đầu sách và hàng nghìn bài báo, công trình nghiên cứu khoa học; đề tài cấp Nhà nƣớc, cấp Bộ, dự án quốc tế đạt kết quả nhất định, đƣợc ứng dụng vào công tác giảng dạy và hoạch định chính sách phát triển ở nƣớc ta. Có thể nói, cở sở xã hội học khu vực nhà nƣớc đã và đang có đóng góp quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân lực cho công cuộc đổi mới, phát triển đất nƣớc. Tuy nhiên, nhìn lại chặng đƣờng phát triển của nền xã hội học ở Việt Nam, các cơ sở đào tạo và nghiên cứu thuộc khu vực nhà nƣớc trong thời gian qua cũng không tránh khỏi hạn chế; cơ hội và thách thức mới4 vẫn đang tiếp diễn đối với quá trình phát triển nền xã hội học nƣớc ta, đặt ra nhiều câu hỏi cần nghiên cứu trả lời, nhƣ: trong hơn 40 năm qua các cơ sở xã hội học khu vực nhà nƣớc đã đạt đƣợc những thành tựu gì trong bức tranh phát triển xã hội học khu vực và thế giới? Cơ hội, bất cập và thách thức nào đang tiếp tục đặt ra đối với sự phát triển nền xã hội học Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế? Dựa vào nguồn tài liệu thứ cấp và quan sát của tác giả thu thập đƣợc, bài viết tổng quan phác thảo sơ lƣợc chặng đƣờng phát triển của nền xã hội học ở Việt Nam trong suốt hơn bốn thập kỷ qua; phân tích chỉ ra một số thành công, cơ hội và thách thức trong hoạt động nghiên cứu và đào tạo lĩnh vực xã hội học ở Việt Nam thời gian qua; bài viết cũng đƣa ra một số bàn luận và khuyến nghị giải pháp nhằm cải thiện nâng cao chất lƣợng đào tạo và nghiên cứu khoa học, góp phần vào quá trình phát triển và sự thịnh vƣợng của nền xã hội học ở nƣớc ta trong bối cảnh xã hội Việt Nam chuyển đổi và hội nhập quốc tế5. 2. Cơ hội, thách thức trong đào tạo và nghiên cứu khoa học ở các cơ sở xã hội học khu vực nhà nƣớc Cơ hội và thách thức trong hoạt động đào tạo xã hội học Trong những năm qua, Đảng và Nhà nƣớc ta rất chú trọng đến công tác đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng giảng dạy, nghiên cứu cho cán bộ ở các viện nghiên cứu chuyên ngành và các cơ sở đào tạo. Đào tạo nƣớc ngoài với các đề án nhƣ: Đề án 322, Đề án 911, Đề án 165, và các đề án khác đƣợc ra đời nhằm tạo cơ hội cho các cán bộ giảng dạy và nghiên cứu trẻ tham gia học tập nâng cao trình độ chuyên môn. Bên cạnh đó, bằng các mối quan hệ độc lập, các viện và trƣờng cũng có nhiều chƣơng trình hợp tác song 4 Phát triển xã hội học trong khu vực nhà nƣớc ở bài viết này muốn nói đến sự đời và phát triển các cơ sở nghiên cứu và giảng dạy xã hội học ở Việt Nam; số lƣợng các đề tài/ dự án nghiên cứu; số lƣợng ngƣời tốt nghiệp các bậc cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành xã hội học. Còn thuật ngữ cơ hội trong phát triển xã hội học khu vực nhà nƣớc ở Việt Nam đƣợc bài này đề cập đến những cơ hội tham gia đào tạo, tham gia các đề tài nghiên cứu; thách thức là những khó khăn trong công tác đào tạo và nghiên cứu mà các cơ sở này đang phải đối diện, thách thức này có thề cản trở tiến trình phát triển và hội nhập xã hội học Việt Nam. 5 Hạn chế nguồn dữ liệu bài viết quan tâm phân tích mang tính định tính về cơ hội và thách thức trong phát triển xã hội học khu vực nhà nƣớc ở các viện nghiên cứu và trƣờng đào tạo chuyên ngành xã hội học. 17
  19. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” phƣơng với các viện, trƣờng đại học nƣớc ngoài, trong đó có các học bổng ngắn và dài hạn cho cán bộ trẻ tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn, thạc sĩ, tiến sĩ, sau tiến sĩ. Công tác đào tạo chuyên ngành xã hội học ở trong nƣớc cũng đƣợc phát triển nở rộ với việc Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo ký quyết định thành lập nhiều cơ sở đào tạo xã hội học, có chức năng giảng dạy và cấp bằng cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ xã hội học. Có thể nói, cơ chế và môi trƣờng đào tạo đang tạo nhiều cơ hội tốt cho cán bộ, ngƣời học nâng cao trình độ kiến thức và hiểu biết về tri thức xã hội học, nhằm nhanh chóng phát triển ngành xã hội học và đóng góp thiết thực vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Tuy nhiên, những bất cập và thách thức trong hoạt động đào tạo ở các viện nghiên cứu và các trƣờng đại học ở nƣớc ta vẫn đang tiếp tục đặt ra đối với ngành xã hội học; chẳng hạn nhƣ tình trạng cán bộ không nỗ lực quyết tâm tham gia khai thác các cơ hội đào tạo trong và ngoài nƣớc để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiên cứu, kỹ năng tin học, ngoại ngữ và điều này có thể dẫn đến nguy cơ tụt hậu về chuyên môn xã hội học của thế hệ trẻ so với thế hệ trƣớc; tình trạng cán bộ đƣợc cử đi đào tạo trong và ngoài nƣớc nhƣng khi hoàn thành khóa học không về nƣớc hoặc trở về thì xin chuyển ra bên ngoài làm việc cho các tổ chức NGO, tổ chức quốc tế. Đây cũng đƣợc xem là vấn đề chảy máu chất xám diễn ra ở các cơ sở nghiên cứu và đào tạo xã hội học khu vực nhà nƣớc. Liên quan đến tình hình đào tạo ở các cơ sở xã hội học khu vực nhà nƣớc, một số bất cập và thách thức đang đặt ra hiện nay là chất lƣợng đào tạo không đƣợc nhƣ mong muốn. Tình trạng sinh viên, học viên sau đại học ít hứng thú với bài giảng, thiếu tích cực trong việc tra cứu đọc các tài liệu trong và ngoài nƣớc có liên quan đến môn học, số môn học và chƣơng trình đạo tạo môn học chƣa hợp lý, v.v... Thực tế này phần nào ảnh hƣởng đến kiến thức chuyên ngành của ngƣời học bị thiếu hút nghiêm trọng. Hệ quả này tất yếu dẫn đến sinh viên, học viên sau đại học lúng túng, gặp khó khăn trong thiết kế đề cƣơng nghiên cứu, triển khai điền dã thu thập thông tin, xử lý số liệu và viết khóa luận, luận văn, luận án tốt nghiệp. Cũng liên quan đến bất cập về chất lƣợng đào tạo hiện nay là ngƣời học tốt nghiệp về công tác tại viện, trƣờng hay cơ quan bên ngoài gặp nhiều khó khăn với công việc đƣợc giao. Thực tế nhiều sinh viên khi tốt nghiệp đại học ra trƣờng về một đơn vị công tác đều cho biết những điều họ học trong trƣờng khác nhiều với thực tế, nhất là đối với cơ quan nghiên cứu. Khi mới vào nghề, hầu hết họ đều thiếu hiểu biết về quy trình nghiên cứu và kỹ năng cần thiết để triển khai một nghiên cứu. Bên cạnh đó, vẫn còn hạn chế về trình độ công nghệ thông tin, khả năng ngoại ngữ, kỹ năng mềm, v.v.. phần nào dẫn khó khăn khi tham gia hoạt động nghiên cứu. Một bất cập nữa là tình trạng ngƣời học xã hội học khi ra trƣờng khó xin việc, hiện tƣợng không ít trƣờng hợp sinh viên phải “treo bằng xã hội học”, làm trái ngành nghề đào tạo, thậm chí làm công nhân lao động hoặc đi xuất khẩu lao động. Có thể khẳng định hoạt động xã hội học trong khu vực nhà nƣớc đã cung cấp lƣợng nhân lực khoa học hùng hậu cho ngành xã hội học, khoa học xã hội và cho các lĩnh vực phát triển của đất nƣớc. Hiện nay, nếu thống kê cơ cấu tuổi của nhân lực đƣợc đào tạo xã hội học ở các cơ sở đào tạo thì có thể sẽ cho thấy bức tranh đậm nét về nhân lực trẻ, trình độ chuyên môn, 18
  20. HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM” bằng cấp cao gia tăng. Tuy nhiên, vấn đề gây quan ngại nhất là chất lƣợng đào tạo ở nhiều cơ sở đào tạo thời gian vừa qua là chƣa đƣợc nhƣ mong đợi của xã hội, hiện tƣợng đào tạo chạy theo số lƣợng hơn là chất lƣợng. Thực tế có thể làm suy giảm niềm tin xã hội và uy tín của ngành xã hội học Việt Nam, và hơn thế nữa ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh trong đào tạo xã hội học ở khu vực nhà nƣớc so với cơ sở đào tạo xã hội học khu vực tƣ, năng lực cạnh tranh trong đào tạo với các trƣờng đào tạo xã hội học trong khu vực và thế giới. Cơ hội và thách thức trong hoạt động nghiên cứu xã hội học Đƣợc sự quan tâm của Chính phủ, các bộ ngành và nhu cầu của các địa phƣơng, các tổ chức phi chính phủ và tổ chức quốc tế, hoạt động nghiên cứu và tƣ vấn xã hội học cũng có sự phát triển nở rộ trong thời gian qua. Cho đến nay ngành xã hội học đã có nhiều đề tài cấp nhà nƣớc, đề tài cấp bộ, cấp địa phƣơng, cấp cơ sở đã đƣợc các thế hệ cán bộ nghiên cứu và giảng dạy thực hiện bằng nguồn ngân sách của Chính phủ, địa phƣơng. Kết quả các đề tài nghiên cứu này đã có đóng góp khoa học trong việc phát hiện và lý giải thấu đáo quy luật mối quan hệ xã hội nảy sinh trong đời sống xã hội, là cơ sở cho việc hoạch định đƣờng lối của Đảng, xây dựng chính sách phát triển của Nhà nƣớc và các địa phƣơng. Kết quả quá trình thực hiện một chuỗi các đề tài cũng đóng góp quan trọng vào công tác đào tạo cán bộ, nhất là cán bộ trẻ ở các cơ sở nghiên cứu và giảng dạy xã hội học. Sản phẩm của các đề tài cũng đƣợc xuất bản, bao gồm sách chuyên khảo, bài báo công trình khoa học, là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho sinh viên, học viên sau đại học, giới nghiên cứu và quản lý xã hội. Các đề tài/ dự án nghiên cứu, tƣ vấn hợp tác với các viện, trƣờng, tổ chức quốc tế cũng phát triển mạnh, đa dạng về cấp độ và quy mô hợp tác nghiên cứu trong những thập niên vừa qua. Có thể thấy trong những thập niên vừa qua các cơ sở nghiên cứu và đào tạo xã hội khu vực nhà nƣớc ở Việt Nam đã thực hiện nhiều đề tài/ dự án nghiên cứu hợp tác với các viện nghiên cứu, trƣờng đại học có uy tín trên thế giới, hợp tác với các tổ chức quốc tế có quy mô hoạt động toàn cầu nhƣ: UNDP, WB, UNFPA, JICA, ADB, HAI, và nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ (NGO), v.v… Các mối quan hệ hợp tác nghiên cứu này không chỉ có ý nghĩa trong việc mở rộng đề tài nghiên cứu, tƣ vấn phát triển xã hội, đóng góp khuyến nghị khoa học có giá trị đối với chính sách hỗ trợ phát triển của các tổ chức quốc tế cho Việt Nam; bổ sung nguồn dữ liệu tham khảo hữu ích cho Chính phủ, bộ ngành và các địa phƣơng trong quá trình phát triển; nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng tƣ vấn về phát triển xã hội, phát triển cộng đồng cho cán bộ; nâng cao vị thế của các cơ sở xã hội học ở Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế phát triển xã hội học trong khu vực nhà nƣớc thời gian qua còn tồn tại nhiều bất cập và thách thức, kể cả thách thức vừa mới nảy sinh gần đây. Tình trạng một số đề tài kết quả nghiên cứu tốt, có phát hiện khoa học và hàm ý chính sách nhƣng chƣa đƣợc xã hội đón nhận sử dụng vào thực tiễn đời sống xã hội, v.v… Ở phần trên vừa cho thấy các cơ sở đào tạo và nghiên cứu xã hội học công thời gian qua đã thực hiện nhiều hệ đề tài trong và ngoài nƣớc, nhƣng theo đánh giá của một số chuyên gia thì phần lớn đề tài đạt chất lƣợng chuyên môn chƣa đƣợc nhƣ kỳ vọng, cho dù đề tài/ dự án đã nỗ lực công bố sản phẩm sách và bài tạp chí đƣợc xuất bản ở trong nƣớc. Điểm hạn chế nổi bật là kết quả đề tài thiếu đóng 19
nguon tai.lieu . vn