Xem mẫu
- Kinh doanh đa cấp
Kinh doanh đa cấp (Tiếng Anh: Multi-level Marketing)
hoặc Kinh doanh theo mạng (Network Marketing)
(KDTM) hay Bán hàng đa cấp (tên gọi thông dụng tại Việt
Nam) là thuật ngữ chung dùng để chỉ một phương thức tiếp
thị sản phẩm. Đây là hoạt động kinh doanh bán hàng trực
tiếp đến tay người tiêu dùng, người tiêu dùng có thể trực
- tiếp đến mua hàng tại công ty mà không phải qua các đại lý
hay cửa hàng bán lẻ. Nhờ vậy, hình thức này còn tiết kiệm
rất nhiều chi phí từ việc quảng cáo, khuyến mại, tiền sân
bãi, kho chứa, vận chuyển hàng hóa. Số tiền này được dùng
để trả thưởng cho nhà phân phối và nâng cấp, cải tiến sản
phẩm tiếp tục phục vụ người tiêu dùng. Đây là phương thức
kinh doanh tận dụng chính thói quen của người tiêu dùng:
khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ tốt thường đem chia sẻ cho
người thân, bạn bè và những người xung quanh. Kinh
doanh đa cấp gây ra nhiều tranh cãi trong xã hội, và thường
được quy kết với hình tháp ảo.
Nhà phân phối có vai trò như những đại lý. Họ dùng những
kết quả sử dụng của bản thân và những người quen biết để
thu hút khách hàng. Qua việc làm đó họ đem về lượng
khách hàng cho công ty và bản thân họ. Ngoài ra họ còn có
thể tìm kiếm những đối tác khác để có thể trở thành nhà
phân phối cùng làm việc với mình, việc này được quản lý
bằng mã số. Khi đó, mã số của một nhà phân phối mới
được kết nối với mã số của Người bảo trợ (Sponsor - Sps)
của anh ta.
- Trong "Nghị định về quản lí hoạt động bán hàng đa cấp" do
Chính phủ Việt nam ban hành, tại Điều 2 đã định nghĩa:
"Bán hàng đa cấp là một phương thức tổ chức kinh doanh
của doanh nghiệp thông qua nhiều cấp khác nhau, trong đó
người tham gia sẽ được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng
và/hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả bán hàng hóa của
mình và của người khác trong mạng lưới do người đó tổ
chức ra và được doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp
thuận".
Nhà phân phối
Nhà phân phối (NPP) là người tham gia vào mạng lưới
KDĐC. Họ là người trực tiếp sử dụng hàng, chia sẻ thông
tin về sản phẩm và giới thiệu cho những người khác tham
gia vào công việc. Trong KDTM chân chính, NPP được trả
hoa hồng từ việc bán sản phẩm của họ và/hoặc trong toàn
hệ thống (khác với hình tháp ảo, hoa hồng được trả khi có
người tham gia vào mạng lưới) [sửa] Hình thành
Kinh doanh theo mạng gắn liền với tên tuổi của nhà hóa
học người Mỹ Karl Renborg (1887-1973). Ông là người
đầu tiên đã ứng dụng ý tưởng tiếp thị mạng lưới vào trong
- cuộc sống, tạo ra một hệ thống kinh tế, một ngành kinh
doanh được coi là có triển vọng nhất trong thế kỷ 21[1].
Karl Renborg có 20 năm sống tại Trung Quốc và làm việc
tại nhiều công ty khác nhau. Giữa những năm 1920-1930,
chính quyền rơi vào tay Tưởng Giới Thạch, Karl bị chính
quyền Tưởng bắt giam cùng với những người nước ngoài
khác. Trong điều kiện sống rất thiếu thốn của nhà tù, ông
đã nhận thấy vai trò của dinh dưỡng đối với sức khỏe con
người. Để khắc phục điều kiện sống thiếu dinh dưỡng,
Renborg đã tìm ra phương pháp cạo sắt từ những chiếc
đinh gỉ trộn thêm vào khẩu phần ăn và thỏa thuận với cai tù
để xin các loại rau cỏ khác nhau. Ông và một số ít bạn tù
làm theo phương pháp này nên có sức đề kháng tốt hơn và
sống sót được đến ngày trở về quê hương.
Năm 1927, Karl về Mỹ và bắt đầu chế biến các chất bổ
sung dinh dưỡng khác nhau dựa trên cỏ linh lăng là một
loại cỏ có chứa rất nhiều vitamin, khoáng chất, đạm và
nhiều vi chất có ích khác. Ông đề nghị những người quen
của ông thử nghiệm miễn phí sản phẩm nhưng không ai
dám dùng thử vì họ không muốn mình làm vật thí nghiệm.
- Sau nhiều cố gắng mà không đem lại được kết quả, ông
hiểu ra rằng chẳng ai chịu đánh giá tốt những thứ cho
không, vì vậy ông đã đưa ra một ý tưởng, mà sau này đã
phát triển thành một ngành kinh doanh tiên tiến.
Ông Renborg đề nghị các bạn của ông giới thiệu chất bổ
sung dinh dưỡng này cho người quen của họ, nếu người
quen của họ mua sản phẩm thì ông hứa sẽ trả hoa hồng.
Ông cũng quyết định trả hoa hồng cho các người quen của
bạn mình nếu giới thiệu sản phẩm tiếp theo quan hệ của họ.
Kết quả thật bất ngờ: thông tin về các chất bổ sung dinh
dưỡng có lợi bắt đầu được truyền bá rộng rãi (vì mỗi người
bạn của ông lại có nhiều người bạn khác và bạn của bạn
của bạn là vô hạn). Doanh thu bán hàng của công ty tăng
vượt quá sức tưởng tượng, mọi người đề nghị gặp ông để
tham khảo về thông tin sản phẩm mới này.
Năm 1934, ông sáng lập ra công ty Vitamins California[1]
và nhờ phương pháp phân phối mới này, khi người tiêu
dùng cũng trở thành người phân phối sản phẩm, công ty
của ông đã nhanh chóng đạt doanh số 7 triệu USD mà
không hề mất một đồng quảng cáo nào. Sự độc đáo ở chỗ
- nhờ tiết kiệm được chi phí quảng cáo và các khâu trung
gian (đại lý, bán lẻ, kho bãi…) nên những người tham gia
vào hệ thống của ông có thể nhận được thù lao cao hơn.
Phát triển
Cuối năm 1939 đầu 1940 ông Renborg đổi tên công ty
thành Nutrilite Products[1] theo tên sản phẩm và vẫn giữ
nguyên phương pháp tiêu thụ. Những cộng tác viên của ông
tự tìm người mới, chỉ cho người mới đầy đủ thông tin về
sản phẩm và dạy cho người mới phương pháp xây dựng
mạng lưới bắt đầu từ những người quen của mình. Công ty
đảm bảo cho tất cả nhà phân phối độc lập có đủ sản phẩm
và nhận hoa hồng không chỉ lượng sản phẩm họ bán ra mà
còn trả hoa hồng cho lượng sản phẩm được bán ra bởi
những người do họ trực tiếp tìm ra. Những người tham gia
mạng lưới của công ty nhận được sự giúp đỡ hướng dẫn tận
tình của người bảo trợ. Phương pháp phân phối hàng của
ông Renborg chính là khởi điểm của ngành Kinh doanh
theo mạng, ở đây ông chỉ mới áp dụng một tầng, và trong
nhiều tài liệu thì năm 1940 là năm khởi đầu của kinh doanh
- đa cấp và Renborg được coi là ông tổ của ngành kinh
doanh này.
Sau một thời gian làm việc có hiệu quả với công ty
Nutrilite Products, Rich De Vos và Jay Van Andel (2 cộng
tác viên của công ty) nhận thấy sức mạnh to lớn của
KDTM và đã sáng lập ra công ty riêng của mình mang tên
American Way Corporation, viết tắt là AMWAY và hiện
nay Amway đã trở thành một trong những công ty hàng đầu
thế giới trong ngành kinh doanh đa cấp với chi nhánh trên
80 quốc gia[1].
Ổn định và bùng nổ
Tuy nhiên vào đầu thập niên 1970, việc bán hàng đa cấp lại
chịu sức ép từ nhiều phía khác nhau. Năm 1975, trong hội
đồng liên bang Hoa Kỳ có những người phản đối kinh
doanh đa cấp và quy kết nó với cái gọi là "hình tháp ảo" -
một hình thức kinh doanh bất hợp pháp. Đây là đòn đánh
đầu tiên của chính phủ vào kinh doanh đa cấp, bắt đầu cuộc
đấu tranh của các công ty bán hàng đa cấp để khẳng định
chân lý, tính đúng đắn của mình. Công ty Amway trong
- bốn năm liền phải theo hầu tòa (từ năm 1975-1979). Sau
cùng, cuối năm 1979 toà án thương mại Liên Bang Hoa Kỳ
công nhận phương pháp kinh doanh của Amway không
phải là "hình tháp ảo" và được chấp nhận về mặt luật pháp.
Từ đó Bộ luật đầu tiên về kinh doanh đa cấp đã ra đời tại
Mỹ. Từ năm 1940 đến 1979 chỉ có khoảng 30 công ty
KDTM ra đời tại Mỹ, đây là giai đoạn được gọi tên là làn
sóng thứ nhất[1].
Từ 1979-1990 (làn sóng thứ hai) là thời kì bùng nổ của
KDTM. Mỗi đêm ngủ dậy chúng ta có thể thấy hàng trăm
công ty KDTM tuyên bố thành lập với đủ loại sản phẩm và
mô hình kinh doanh.
Từ năm 1990, nhờ sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ và
truyền thông, KDTM mang màu sắc mới, Các NPP có thể
đơn giản hoá công việc của mình nhờ vào điện thoại,
internet... Ở giai đoạn này - mà theo các chuyên gia gọi là
làn sóng thứ ba - NPP giỏi không cần phải là một nhà
hùng biện và đi lại như con thoi giữa các mạng lưới. Bất kỳ
ai cũng có thể sử dụng thời gian nhàn rỗi của mình để tham
gia công việc và làm việc ở bất cứ đâu. Các công ty bán
- hàng truyền thống như Ford, Colgate, Coca-cola và nhiều
công ty nổi tiếng khác đã bắt đầu áp dụng phương pháp
KDTM để phân phối sản phẩm độc đáo của mình[1].
Tại Việt Nam
Đầu thế kỉ 21, kinh doanh đa cấp bắt đầu bước chân vào thị
trường Việt Nam và đạt tổng doanh thu không ngờ trong
hai, ba năm đầu. Kinh doanh đa cấp phát triển quá mạnh
mẽ khiến cho lợi nhuận từ việc quảng cáo của các báo đài,
truyền hình có thể bị ảnh hưởng, cộng thêm nhiều công ty
lừa đảo núp bóng kinh doanh đa cấp và một bộ phận không
nhỏ nhà phân phối sai trái đã làm cho dư luận bắt đầu lên
tiếng phản đối kinh doanh đa cấp.
Đến thời điểm cuối năm 2004, tại Việt Nam đã có khoảng
20 Công ty bán hàng đa cấp phân phối sản phẩm chủ yếu
về ngành chăm sóc sức khoẻ và sắc đẹp. Để hoà nhập với
xu hướng chung của thế giới cũng như đáp ứng tình hình
thực tế tại Việt Nam hành lang pháp lý về kinh doanh theo
mạng đã dần hình thành:
Ngày 01-07-2005, luật Cạnh tranh có hiệu lực thi hành
trong đó có những điều khoản quy định về bán hàng đa cấp
- Ngày 24-08-2005, Nghị định 110/2005/NĐ-CP của chính
phủ về Quản lý hoạt động bán hàng đa cấp được ban hành
phần nào đã tạo ra một hành lang pháp lý để bảo vệ các
công ty và nhà phân phối chân chính[2]. Tuy nhiên, nghị
định vẫn còn nhiều kẽ hở khiến cho một số công ty lợi
dụng.
Ngày 08-11-2005, Bộ thương mại ban hành thông tư hướng
dẫn một số nội dung tại Nghị định 110/2005/NĐ-CP về
quản lý bán hàng đa cấp.
Năm 2009, Hiệp hội bán hàng đa cấp Việt Nam được thành
lập. Hiệp hội được thành lập và bổ nhiệm bà Trương Thị
Nhi (giám đốc công ty TNHH TM Lô Hội, nhà đại diện tại
Việt Nam của tập đoàn Forever Living Products Hoa Kỳ) là
chủ tịch nhiệm kỳ 2009-2014.
Ngày 31 tháng 03 năm 2010, Hiệp hội bán hàng đa cấp
Việt Nam, MLMA chính thức ra mắt tại Hà Nội. Đến dự có
nhiều cơ quan, ban ngành, đoàn thể và các phương tiện
truyền thông đại chúng.[3]
Các mô hình trả thưởng
- Trong quá trình hình thành và phát triển, với hàng chục
ngàn công ty KDTM thì có rất nhiều cơ cấu trả thường
khác nhau hoặc có nhiều tên gọi khác nhau nhưng quy cùng
thì có 3 mô hình chủ yếu.
Mô hình Nhị phân - Mô hình Ma Trận
Mô hình nhị phân là một dạng của mô hình ma trận và là
mô hình ma trận dạng đơn giản nhất. Mô hình Nhị phân
cho phép mỗi nhà phân phối được và chỉ được tuyển mộ
thêm 2 (hai) nhà phân phối thuộc tầng 1 và bắt buộc hai
nhánh của mình phải luôn phát triển đồng đều (nếu không
thực hiện được điều này thì sẽ nhà phân phối sẽ không
được chi trả hoa hồng hoặc chỉ hưởng ở nhánh yếu hơn).
Mô hình Ma trận được nâng cấp từ mô hình nhị phân, nhà
phân phối sẽ được tuyển nhiều hơn con số 2 người. Tùy
theo chính sách quy định, sơ đồ hạn chế độ lớn và số người
trong mức một của bạn. Ví dụ, sơ đồ 3x6 cho phép bạn
tuyển vào 3 người ở mức một và giới hạn mức 6 là mức chi
trả hoa hồng cuối cùng.
Mô hình sẽ không bền vững vì nhiều lý do: Nếu giả sử bạn
tham gia vào vào 2 dạng mô hình này, và bạn đã bảo trợ đủ
- số người tối đa vào thế hệ thứ nhất của mình. Nếu bây giờ
có một người bạn thân của bạn cũng muốn tham gia vào
doanh nghiệp thì bạn sẽ phải làm sao? Nếu vẫn muốn cho
bạn mình tham gia, bạn phải đặt người đó vào những vị trí
thấp hơn ở những thế hệ dưới. Hơn nữa, tốc độ phát triển
đội nhóm của người tầng dưới sẽ luôn chậm hơn những
người tuyến trên.
Chính vì những lý do trên mà mô hình ma trận (và nhị
phân) bị quy kết vào "hình tháp ảo" và bị cấm (hoặc kiểm
tra hoạt động rất gắt gao) tại các nước trên thế giới[4].
Tính đơn giản
Mô hình ma trận cho phép tạo ra tính đơn giản trong công
việc. Trong sơ đồ ma trận, bạn chỉ phải chăm lo, chịu hoàn
toàn trách nhiệm đào tạo cho những người ở mức một của
bạn. Bạn cũng có thể ngồi ở nhà để người đỡ đầu tuyển
người cho mạng lưới của bạn. Sơ đồ ma trận rất đơn giản
để giải thích cho những người mới của bạn.
Hiệu ứng con đỉa
Mô hình ma trận thu hút những người không muốn làm
việc nhiều và/hoặc thiếu kiến thức trong lĩnh vực kinh
- doanh theo mạng. Các kế hoạch ma trận theo kiểu phân
chia các khoản hoa hồng có khuynh hướng khá "xã hội".
Ban thưởng cho những nhà phân phối tích cực ít hơn các
nhà phân phối lười biếng. Các nhà phân phối xuất sắc nhận
được sự đền đáp ít hơn so với thời gian và sức lực mà mình
bỏ ra, bởi vì phần lớn các khoản hoa hồng bị người ta hút
mất như những con đỉa, mạng lưới của họ đầy rẫy những kẻ
ranh mãnh và lười biếng.
Sự giới hạn
Mô hình ma trận hạn chế quy mô tổ chức của bạn. Chẳng
hạn, trong ma trận 3x4, bạn không bao giờ có thể có quá
120 người trong mạng lưới tầng dưới.
Mô hình Đều tầng (Sơ đồ một cấp)
Mô hình Đều tầng cho phép nhà phân phối tuyển không
giới hạn nhà phân phối tuyến dưới, tức là không phải tuyển
với số lượng tuyến dưới bắt buộc, có thể là một người, hai
người, ba người hay bao nhiêu người tùy thích. Nhà phân
phối được hưởng hoa hồng hay phần trăm hoa hồng từ đội
nhóm của mình là như nhau đối với cùng một thế hệ, các
thế hệ có thể có mức phần trăm giống hoặc khác nhau. Để
- bảo đảm tính công bằng giữa người vào trước và vào sau
nên mô hình đều tầng chỉ cho phép hưởng tối đa ba thế hệ,
bốn thế hệ hay năm thế hệ (tùy theo chính sách của mỗi
công ty). Thêm một điều nữa là nếu cho hưởng tối đa các
thế hệ thì xảy ra tình trạng: tiền dùng để chi trả hoa hồng
cho nhà phân phối sẽ lớn hơn giá trị sản phẩm (Giả sử cứ ở
mỗi thế hệ công ty sẽ chi trả cho nhà phân phối 5% thì tới
thế hệ thứ 10 đã có 50% dùng để chi trả hoa hồng, và để
đến thế hệ 20 con số đã lên tới 100% !?) vì thế người tham
gia chỉ được hưởng đến một mức nhất định nào đó.
Vì mô hình này không có sự thoát ly cho nên kế hoạch một
cấp chi trả cho bạn một số ít mức. Về mặt lý thuyết, bạn có
thể bổ sung sự thiếu sót này bằng cách tuyển mộ một số
lượng lớn người vào mức một của bạn. Nhưng, mặc dù các
Sơ đồ một cấp không giới hạn số lượng người được bạn đỡ
đầu, thì vẫn có sự hạn chế cơ học về tính hiệu quả của việc
đỡ đầu. Do sự hạn chế mức chi trả nên có thể những người
ở mức trên sẽ không cần chăm sóc, giúp đỡ những tầng
mình không được hưởng hoa hồng (nếu chính sách quy
định chỉ cho hưởng đến tầng 5 thì tôi chăm sóc tầng 6, tầng
- 7 của tôi làm gì) và như thế không mang tính nhân bản và
bền vững.
Mô hình bậc thang li khai
Bậc thang li khai là mô hình tiên tiến nhất hiện nay. Nó
cho phép mỗi nhà phân phối được tuyển tuyến dưới với số
lượng tùy thích (cũng giống như mô hình đều tầng). Ngoài
hệ thống thế hệ, bậc thang li khai còn tạo ra một hệ thống
cấp bậc. Ở mỗi cấp bậc, nhà phân phối được hưởng hoa
hồng cá nhân khác nhau, là hoa hồng đội nhóm cũng khác
nhau tùy vào cấp bậc của nhà phân phối tuyến dưới. Vì thế,
mô hình cho phép nhà phân phối hưởng không giới hạn thế
hệ mà vẫn bảo đảm được tính công bằng.
Đặc trưng của Bậc thang li khai là hệ thống được quản lí
theo hệ thống cấp bậc, tức là phần trăm (%) hoa hồng sẽ
được phân chia theo hệ thống cấp bậc. Mỗi cấp bậc sẽ có
mức hoa hồng riêng và hoa hồng khối lượng (giá trị thặng
dư) sẽ được tính dựa trên số dư từ % hoa hồng cao trừ đi %
hoa hồng thấp hơn. Ví dụ, Tom tham gia vào mạng lưới và
hiện giờ anh đang ở cấp bậc, mà tại đó anh nhận được 12%,
và trong đội nhóm của anh có Richard hiện đang hưởng
- mức 5%, như vậy, Tom sẽ nhận được 7% giá trị hàng hóa
do Richard tiêu thụ được, và cho dù Richard ở bất cứ tầng
nào trong hệ thống Tom vẫn nhận được giá trị 7% (miễn là
giữa hai người không có người có cấp bậc cao hơn
Richard). Như vậy, hệ thống sẽ luôn bảo đảm rằng nó tồn
tại và công bằng.
Khi các nhà phân phối trong mạng lưới tầng dưới của bạn
đạt đến trạng thái vượt cấp nhất định thì họ sẽ "bứt ra" khỏi
nhóm của bạn. Bạn sẽ không còn nhận được các khoản hoa
hồng trực tiếp từ các sản phẩm của họ hay là mạng lưới của
họ bán nữa. Tuy nhiên bạn vẫn sẽ tiếp tục nhận được một
khoản lợi tức hoa hồng nhỏ từ khối lượng của nhóm các
nhà phân phối đã tách ra và từ mạng lưới của họ.
Ưu điểm
Trong số các sơ đồ kinh doanh thì sơ đồ bậc thang bảo đảm
khả năng đạt được phúc lợi lớn nhất. Vấn đề ở chỗ là các
đặc trưng thoát ly cho phép bạn xây dựng tổ chức lớn hơn
và lấy ra được các khoản hoa hồng từ nhiều cấp hơn các sơ
đồ kiểu khác.
- Mô hình này cho phép bạn nhận được các khoản hoa hồng
ở nhiều mức hơn bất kì sơ đồ nào khác. Nếu như nhà phân
phối có một tổ chức 6 mức của mình thì điều đó có nghĩa là
bạn sẽ nhận được các khoản hoa hồng từ số hàng hóa bán
được ở mức thứ 12 của bạn! mô hình này cho phép thu về
các khoản thu nhập từ mức thứ 20, độ sâu này trong các
Mô hình khác không thể đạt tới.
Bậc thang li khai đem đến một độ rộng không hạn chế. Bạn
có thể bảo trợ vào tầng 1 của mình bao nhiêu người tùy khả
năng của bạn. Họ, đến lượt mình cũng có thể bảo trợ như
thế. Bạn có thể mở rộng mãi mãi khi xây dựng mạng lưới
tầng dưới rộng lớn của mình, có khi lên tới hàng chục
nghìn nhà phân phối.
Sản phẩm
Sản phẩm đánh giá sự tồn tại lâu dài của một công ty
KDTM vì vậy sản phẩm trong kinh doanh đa cấp phải có
chất lượng tốt (do sản phẩm được lan truyền từ người này
đến người khác, nên nếu chất lượng không tốt thì sẽ không
có sức lan truyền), cần thiết cho hầu hết người tiêu dùng
và được sử dụng thường xuyên. Các sản phẩm mang đáp
- ứng nhu cầu hầu hết của người tiêu dùng và sẽ được sử
dụng liên tục sau đó:
Hàng tiêu dùng
Mỹ phẩm
Thực phẩm ăn uống và Thực phẩm dinh dưỡng chức
năng
Ngoài ra, sản phẩm phải đảm bảo tính độc quyền: nghĩa là
chỉ bán thông qua các NPP của công ty, không bán rộng rãi
trên thị trường; độc đáo: tức là trên thị trường không có sản
phẩm tương tự.
Theo Điều 5, Nghị định 110/2005/NĐ-CP quy định về hàng
hóa được kinh doanh theo phương thức bán hàng đa cấp
như sau:
Tất cả hàng hóa đều được kinh doanh theo phương
1.
thức này, trừ những trường hợp sau:
Hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm lưu
o
thông, Danh mục hàng hóa hạn chế kinh doanh, hàng giả,
hàng nhập lậu
- Thuốc (thuốc phòng chữa bệnh cho người, thuốc
o
thú y và thú y thủy sản, vắc xin, sinh phẩm; trang thiết bị y
tế và dụng cụ y tế; nguyên liệu làm thuốc chữa bệnh
Thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất diệt côn trùng,
o
diệt khuẩn; các loại chất độc hại và sản phẩm có hóa chất
độc hại.
Hàng hóa phải đáp ứng các điều kiện sau:
2.
Đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, an toàn, vệ sinh
o
thực phẩm.
Đảm bảo rõ ràng, hợp pháp về nguồn gốc, xuất
o
xứ tính năng, công dụng của hàng hóa;
Có nhãn hàng hóa theo đúng quy định pháp luật.
o
[sửa] Luật pháp
Kinh doanh đa cấp được luật pháp nhiều nước công nhận
và đã ban hành luật để quản lý hoạt động này. Ở Việt Nam
luật về bán hàng đa cấp được ban hành vào ngày 24 tháng 8
năm 2005.
Tại Việt Nam, Nhà nước và Luật Pháp cho phép về bán
hàng đa cấp, nhưng cấm bán hàng đa cấp bất chính. Theo
- điều 48 Luật Cạnh tranh, bán hàng đa cấp bất chính được
quy định như sau: Cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi
sau đây nhằm thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng người
tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp:
Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua
một số lượng hàng hoá ban đầu hoặc phải trả một khoản
tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá
hàng hóa đã bán cho người tham gia để bán lại;
Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng,
lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham
gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham
gia mạng lưới bán hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính
chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham
gia.
[sửa] Nhìn nhận tại Việt Nam
Kinh doanh đa cấp bắt đầu vào Việt Nam chỉ khoảng mười
năm nên vẫn còn là đề tài với nhiều ý kiến trái chiều. Sau
nguon tai.lieu . vn