Xem mẫu

  1. TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 11 (36) - Thaùng 1/2016 Khuynh hướng huyền thoại hóa trong tác phẩm Tên tôi là Đỏ của Orhan Pamuk Trends mythologized in My name is Red of Orhan Pamuk ThS. Trần Thị Diệu Hiền Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP.HCM M.A. Tran Thi Dieu Hien University of Social Sciences and Humanities – National University Ho Chi Minh City Tóm tắt Các lý thuyết và trường phái nghiên cứu huyền thoại đã phát triển mạnh vào thế kỷ XX và trở thành một phương thức quan trọng của văn học hiện đại trong việc giải mã hệ thống biểu tượng được cô nén trong tác phẩm văn học. Vì vậy, nghiên cứu huyền thoại đối với tác phẩm văn học chính là một công cụ hiệu quả để gợi mở lại những giá trị tôn giáo, triết học, khoa học nghệ thuật trong lịch sử văn hóa. Tên tôi là Đỏ là một tác phẩm ẩn chứa nhiều biểu tượng huyền thoại về nghệ thuật hội họa qua cách nhìn tôn giáo trong bối cảnh của sự va chạm giữa các nền văn minh Đông Tây. Người viết trên phương pháp huyền thoại tìm về giá trị của những biểu tượng cổ xưa của tác phẩm cũng chính là chạm đến những vấn đề sống mà nhà văn Nobel - Ohan Pamuk gửi gắm trong tác phẩm. Từ khóa: Ohan Pamuk, huyền thoại, tranh tiểu họa, Tên tôi là Đỏ, biểu tượng… Abstract The theory and research schools myth has grown into the twentieth century and became an important method of modern literature in the decoded symbol system that is compressed in literary works. So, study the myth of literary works is an effective tool to suggest the values of religion, philosophy, science and art in cultural history. My Name is Red is a work inherently legendary symbol of the art of painting through the view of religion in the context of the clash of civilizations between East and West. Written on methods legendary look of the value of the ancient symbol of the works was also mentioned the problems that writer living Nobel - Ohan Pamuk sending in the works. Keywords: Ohan Pamuk, myth, painting and miniatures, My Name is Red, emblem… I. Giới thuyết về tác phẩm Tên tôi là viết của ông thường được nhắc đến đó là Đỏ và Huyền thoại học nghệ thuật không trung tâm, nhà văn đứng 1. Tác phẩm Tên tôi là Đỏ ở vùng biên, người đứng giữa Đông và Tây. Orhan Pamuk (1952) là nhà văn Thổ Các tiểu thuyết nổi tiếng như: Cevdet Bey Nhĩ Kỳ, sinh tại Istanbul. Ông được đánh và các con trai (1982), Sách đen (1990), giá là một nhà văn mới mẻ và độc đáo nhất Tên tôi là Đỏ (2000), Tuyết (2002)... Năm trong văn chương đương đại. Phong cách 2006 ông đạt giải Nobel văn học. 87
  2. Tiểu thuyết Tên tôi là Đỏ có dung biểu hiện của sáng tác văn học, phương lượng gần 600 trang, bao gồm 59 chương, thức huyền thoại hóa trong sáng tác văn kể từ 12 điểm nhìn. Tiểu thuyết mở đầu là học dùng để chỉ việc chuyển đổi các truyền vụ án giết người mà tử thi là một nhà tiểu thống huyền thoại khiến cho tác phẩm có họa. Mà nguyên nhân là một câu chuyện được cái nhìn có tính chất huyền thoại về vào cuối thế kỷ 16 nền tiểu họa Hồi giáo hiện thực. Và việc giải mã các huyền thoại (nghệ thuật vẽ tranh cực nhỏ để minh họa mà tác giả sử dụng trong tác phẩm là công cho văn bản - đó là cách vẽ theo cách nhìn việc khám phá các tầng ý nghĩa và sự cô của thượng đế) suy tàn, nền hội họa nén của các biểu tượng. Biểu tượng luôn phương Tây (phong cách tả thực và luật mang trong mình bản chất sống động, biến phối cảnh) bắt đầu xâm nhập vào thế giới hóa khôn lường bởi tính gợi nghĩa bất tận Hồi giáo. Năm 1591 Hoàng đế ra lệnh cho của nó, luôn ứ tràn ra khỏi những dạng Enishte thực hiện một cuốn sách ca ngợi thức, những cơ chế, những khái niệm, quốc gia mình, chứng minh sức mạnh, giàu những biểu hiện làm cột chống cho nó. có của đức vua và phải được minh họa theo Trong tác phẩm Tên tôi là Đỏ phương phong cách Venice - lối vẽ theo luật phối thức huyền thoại hóa thể hiện về mặt nghệ cảnh của phương Tây. Trong bối cảnh văn thuật hội họa qua cách nhìn tôn giáo. Mục hóa, quy định của Thổ Nhĩ Kì khi đó đây là đích của huyền thoại hóa trong tác phẩm lối vẽ bị cấm vì báng bổ thánh Ahlla. của Orhan Pamuk là xây dựng biểu trưng Enishte bí mật thực hiện cuốn sách bằng tính phi lý: sự ngưng trệ của xã hội và ý cách giao cho các nhà tiểu họa mỗi người thức của con người, phản ánh tình trạng một phần việc mà không ai được thấy tác con người đang đứng trước ngưỡng va phẩm hoàn chỉnh. Chính vì muốn thấy chạm của các nền văn minh (phương Đông được tác phẩm hoàn thành mà kẻ sát nhân - phương Tây), sự bó hẹp, kìm hãm sự phát đã giết một trong các nhà tiểu họa và giết triển văn hóa trong thời đại mới - thời đại cả Enishte. Toàn bộ tác phẩm là cuộc truy giao lưu, tiếp thu bản sắc văn hóa xuyên tìm thủ phạm giết người đồng thời là cuộc quốc gia, thời đại con người tìm cái tôi của truy vấn lớn đối với nền nghệ thuật của các chính mình đi vào nội dung, tranh luận hội nhà tiểu họa tìm về ý nghĩa thiêng liêng họa truyền thống (tiểu họa) hay hiện đại (tả của nền tiểu họa. chân). Mà ở đây, người viết chủ yếu đi vào 2. Văn học Huyền thoại phân tích chính là biểu tượng bức tranh Khuynh hướng “huyền thoại hóa” – tiểu họa - biểu tượng văn hóa truyền thống một hiện tượng văn học xuất hiện vào cuối Hồi giáo. thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX. Thuật ngữ II. Hệ thống biểu tượng trong tác phẩm “huyền thoại” (tương đương với “myth” 1. Nghệ thuật hội họa trong kinh Koran trong tiếng Anh, “mythe” trong tiếng Pháp, Phong cách hội họa theo điểm nhìn “mif” trong tiếng Nga…) vốn bắt nguồn từ của thánh Ahlla. Trong mười điều răn của tiếng Hi lạp là “muthos”. Muthos được hiểu đạo Do Thái cũng như Islam sau này (từ là “lời, lời nói, câu chuyện, là truyền thuyết, năm 622 bắt đầu kỷ nguyên Hồi lịch tức truyền thoại”[12,tr.3] Văn học huyền thoại Hegiva) thì điều răn tức giới cấm đầu tiên hóa là đặc trưng của văn học hiện đại. và quan trọng nhất là không được thờ ngẫu Huyền thoại hóa với tính cách là một tượng - từ đó có sự cấm kị thể hiện chân 88
  3. dung con người dù qua điêu khắc hay hội phương pháp mà họ đã xây dựng qua việc hoạ. Quan điểm Hồi giáo kinh điển cho hy sinh bản thân mình cho nghệ thuật chỉ rằng hội họa phải minh họa những câu vì quyền lực của một ông vua mới, thị hiếu chuyện quen thuộc. Chỉ khắc họa những gì mới của một thời đại mới, nên họ dũng con mắt nhìn thấy trong thiên nhiên là một cảm tự làm mù mình. hành vi báng bổ. Tranh tiểu họa vốn lan tới Bức tranh tiểu họa không chỉ nghiêm Tây Á theo sự bành trướng của đế quốc khắc trong cách vẽ (của các nhà tiểu họa) Mông Cổ vào thế kỷ 12-13, chịu ảnh mà còn trong cách người ta nhìn về nó nhất hưởng của hội họa Trung Hoa, nó không là cách nhìn của chính những nhà tiểu họa. theo luật phối cảnh vì được biện minh nếu Một bức tranh tiểu họa cao quý như chính theo luật phối cảnh thì một thánh đường tài năng đã đạt đến sự vĩ đại và tâm hồn đã Hồi giáo, hay nhà vua, hay thượng đế, khi đạt đến một niềm tin nghệ thuật tuyệt đối. ở xa, sẽ nhỏ hơn một con chó, hay thậm 2. Những mảnh ghép huyền thoại chí, nhỏ hơn một sợi lông chó. Và như thế Bức tranh không phải là một chủ thể sẽ là phạm thượng hay báng bổ. hoàn chỉnh, đơn nhất mà bức tranh là một Tranh tiểu họa vẽ những yếu tính của không gian để những hình ảnh, những đối tượng. Tranh tiểu họa không chấp nhận mảng màu, những sự vật lên tiếng nói. Đây chữ ký, phong cách và mù là đỉnh cao của là một cách xây dựng nghệ thuật không có tiểu họa. Khi một bậc thầy tiểu họa bị mù trung tâm của tác giả. Mỗi đối tượng đều lúc xế bóng người ta không chỉ xem đó là có tiếng nói, có vị trí độc lập. Đó là những dấu hiệu cho lòng quyết tâm của vị bậc cải tiến về mặt hình thức, còn về bản chất thầy vĩ đại đó mà còn ca ngợi nó như sự mỗi nhân vật, mỗi điểm nhìn đều được trần thừa nhận của thượng đế đối với họ. Nếu thuật gắn liền với tính hện thực: tạo nên độ không mù thì họ sẽ tự làm mình mù, tập sâu, đặt mình vào từng vị trí khác nhau để tục kính trọng việc bắt chước mù hơn là có cái nhìn toàn vẹn. kiếp mù. Họa sĩ mù có thể tái hiện lại đúng Trong các bức tranh tiểu họa, mỗi như bức bức họa thời còn sáng mắt nhưng hình tượng đều có tiếng nói của một nhân bức họa đó sẽ nhìn đơn giản hơn và thuần vật, có số phận, tính cách đầy đủ và ý thức khiết hơn trong khi bức họa thứ nhất sống một cách nhất quán, chắc chắn về mình và động và mạnh mẽ hơn. Vì trong ký ức của những nhân vật khác. Chúng đều có những người mù, cuộc sống được phơi bày sự đơn câu chuyện, cách nhìn riêng của mình. Và giản hơn nhưng cũng làm giảm bớt sức hơn hết là nghệ thuật tiểu họa tuân theo sống của nó hơn vì nó phục vụ cho trách quan điểm cách nhìn thế giới của thánh nhiệm duy nhất của việc vẽ tranh là hành Ahlla. Nghệ thuật tiểu họa không có tính tả động tìm lại những ký ức của Allah và nhìn chân mà chỉ có tính ước lệ, không có cụ thể thế giới như Người nhìn thế giới. mà chỉ có trừu tượng vì thế giới chỉ được Vì vậy, vị thầy vĩ đại Bihzad trong tác nhìn một lần qua cách nhìn của Đấng tối phẩm đã tự đâm mù mắt để tránh làm ô uế cao. Hội họa không có quyền sáng tạo vì hội họa của mình vì ham muốn của xưởng sáng tạo là độc quyền của thượng đế. Mỗi vẽ hay bất kỳ vị vua nào khác. Và vị thầy tác phẩm hội họa của đời sau là sự mô Osman cũng đã tự đâm mù mắt mình để phỏng lại đúng bức tranh của các bậc thầy. không bao giờ từ bỏ những phong cách và Họ say sưa họa lại bức tranh những con 89
  4. ngựa của Bihzad, những họa tiết trang trí tranh vẽ để nhận định về chính mình. Khi chưa bao giờ được đổi mới. nói đến một con ngựa đẹp, nó không có Trong đó có cái cây, con ngựa, đồng nghĩa là một con ngựa nào đó mà chỉ là con tiền, Satan, thần chết, chó, màu đỏ... Và mỗi ngựa được vẽ lại. Nhưng người họa sĩ hoặc tiếng nói của chúng là một cách nhìn, một vẽ theo một khuôn mẫu hoặc vẻ theo ký ức quan niệm, một sự mong đợi được thể hiện. về con ngựa - con ngựa mà thượng đế Cái cây: xuất hiện trong chương 10 mường tượng chứ không thật sự nhìn "Tôi là một cái cây" của tác phẩm. Từ điển những con ngựa là khác nhau được nhìn biểu tượng văn hóa thế giới: Cây là một thấy. Những nghệ sĩ khẳng định rằng con trong những đề tài biểu tượng phong phú ngựa đẹp nhất là con ngựa mà những nhà nhất và phổ biến nhất, mang ý niệm về Vũ tiểu họa mù vẽ lại theo ký ức, phong cách trụ sống trong sự tái sinh liên tục. Trái với mới của những bậc thầy Tây vực không hề một số biểu hiện bề ngoài và một số kết báng bổ, mà hoàn toàn ngược lại, chúng là luận vội vã, cây, và ngay cả cây thiêng, cách hay nhất trong việc tuân theo tín không phải là vật thờ bái ở khắp nơi; nó là ngưỡng tôn trọng những sản phẩm được một hình ảnh biểu trưng về một bản thể khai sinh bởi Chúa và những sản phẩm vượt lên trên nó, chính cái bản thể ấy mới nghệ thuật được tái sinh trên những trang có thể trở thành đối tượng của sự thờ bái. họa qua cách nhìn của Chúa. Là những đối Là biểu tượng của sự sống trong tiến hóa tượng trong cùng một bức tranh, cùng được liên tục, trong sự vươn lên về phía trời, cây vẽ theo một phong cách nhưng ở đây lại gợi nhớ toàn bộ hàm nghĩa biểu trưng của tạo nên một tình huống phi lý nó chống lại chiều thẳng đứng. Mặt khác, nó cũng được những ý kiến của nhau tạo nên các đối cực dùng để biểu thị tính tuần hoàn của biến trong chính một bức tranh. Và sự phi lí hóa vũ trụ: sự chết và sự tái sinh; đặc biệt được tạo bởi vì cả hai quan niệm trên đều lá cây gợi ý niệm về sự tuần hoàn: cây cối có lý. Nó nêu đúng yêu cầu của cách nhìn hàng năm trút lá rồi lại mọc lá mới, khắp về nghệ thuật mà Thánh Ahlla yêu cầu: nơi cây được xem như một biểu tượng về Một cái cây được vẽ yếu tính, một con những quan hệ đã thiết lập giữa đất và trời. ngựa thực - theo cách nhìn của thượng đế Cái cây được xây dựng trong tác phẩm là con ngựa được nhìn thấy chứ không phải như một chủ thể nhân vật đã lên tiếng bày được hồi lại. tỏ quan điểm của mình, quan điểm khách Màu đỏ: chương 31 "Tôi là Đỏ" màu quan của một đối tượng được đưa vào sắc vốn là yếu tố đặc biệt quan trọng của tranh theo phương pháp vẽ tiểu họa. Cái tồn tại vật chất. Từ xa xưa, màu sắc luôn cây đưa vào tranh không là một cái cây hiện diện trong cuộc sống và trong nhận thực thể, mà là hình ảnh cái cây mang ý thức của con người với vai trò là bệ đỡ cho nghĩa là cái cây. Ở đây ta cảm nhận được tư duy biểu tượng. Trong màu đỏ ấn chứa sự tương cận với ý đồ mà Magritle vẽ bức tính hai chiều đối nghịch: sức sống, sự tranh cái tẩu thuốc lại chú thích dòng chữ nhiệt tình, hăng say của tuổi trẻ đối lập với bên dưới "Voici n'est pas une pipe" (Đây sự chết chóc (màu đỏ của máu). Cả hai nhà không phải cái tẩu thuốc). họa sĩ mù đều có thể cảm nhận được màu Xuất hiện song song với cái cây trong đỏ mà không biết chúng. Nhưng màu đỏ chương 10 là hình ảnh con ngựa bước ra từ không thể chỉ bằng cảm nhận. 90
  5. "Ý nghĩa của màu đỏ là gì? - nhà tiểu tình tiết, nhân vật... Nó thể hiện mâu thuẫn, họa mù đã vẽ con ngựa theo ký ức hỏi. dằn xé cực độ giữa các quan điểm để xuất Ý nghĩa của màu đỏ là ở chỗ nó có ở hiện như nó muốn có và như nó cần phải đó trước mặt chúng ta và chúng ta thấy nó. có để hài hòa với các đối tượng khác. Và - Người kia nói - Anh không thể giải thích cuộc chiến ấy không dừng lại, chúng phá màu đỏ với người không thấy được nó. vỡ sự toàn nhất các quan niệm về tranh tiểu Để phủ nhận thượng đế, những kẻ họa vì nó đang nằm ở ranh giới, vùng giao theo satan vẫn cho rằng thượng đế không nhau giữa các quan niệm, cách nhìn tôn hữu hình với chúng ta - nhà họa sĩ mù vẽ giáo, thời đại, dân tộc, con người và con ngựa nói. người nghệ sĩ. Nhưng Người hiện ra với những ai có 3. Biểu tượng "Trái cấm" thời mất Chúa thể nhìn thấy, vì lý do này mà kinh Koran Huyền thoại về câu chuyện trái cấm phán rằng việc mù và thấy là không như vườn Eden nay được tái sinh vào một câu nhau." (Tên tôi là Đỏ, chương 31) chuyện mới - câu chuyện về các bức tranh Đây là câu chuyện của màu đỏ. Màu tiểu họa thế kỷ XVI. Tranh tiểu họa mà nhà đỏ sẽ chẳng là gì đối với những họa sĩ vua yêu cầu để minh họa cho quyền lực không bao giờ thấy chúng. Màu đỏ không của nhà vua trở thành biểu tượng mang phải màu của hồi ức, đỏ không có những tính huyền thoại "trái cấm". Nó là nguyên sắc khác nhau mà chỉ là một màu đỏ duy nhân, bước tiến mang tính quyết định phá nhất. Và cái duy nhất ấy phải gắn liền với vỡ thời kỳ đơn nhất để thiết lập những cái cái trông thấy. Vậy "Đỏ" ở đây không còn nhìn mới, những quan hệ mới. Câu chuyện giới hạn là một trong những gam màu chủ trái cấm trong kinh Koran (chương 2 và đạo trong màu sắc nữa. Đỏ trở thành hình chương 20) thuật lại chuyện Adam và Evà ảnh biểu tượng cho những điều tưởng ăn trái cấm giống như trong sách Sáng Thế tượng, cho vấn đề sự tồn tại của nghệ thuật Ký của đạo Do Thái, nói lên ADam và Eva và sự cảm nhận nghệ thuật tồn tại. Đó là trải qua quá trình từ tối tăm đến hiểu biết, cuộc đấu tranh giữa vô hình và hữu hình. thiện và ác, sống và chết trước và sau khi Không có nghệ thuật nào là đơn nhất và chọn ăn trái cấm. tuyệt đối. Bức tranh tổng hòa tất cả các chi Trong khi toàn bộ câu chuyện của Tên tiết, các màu sắc và đối tượng mà nó đưa tôi là Đỏ đều xoay quanh bức tranh tiểu vào để thể hiện ý nghĩa chung nhất. Đi vào họa - được vẽ theo phong cách mới do tả chân thì đối tượng không phải được vẽ chính nhà vua yêu cầu. Vì sự bí ẩn của bức ra mà được tạo ra với diện mạo cá thể. tranh (không ai được thấy bức tranh hoàn Nghệ thuật không thể là cái cá thể, cái duy thành) đã thôi thúc một trong các nhà tiểu nhất có thể chỉ ra được. Đi vào trừu tượng họa giết người. Và từ đây, cuộc truy tìm tội thì đối tượng đóng băng, nó không còn là ác, truy vấn nghệ thuật, cật vấn con đường cách nhìn mường tượng của đấng Ahlla sáng tạo của các nhà tiểu họa được bắt đầu. nữa mà phục vụ cho cái độc tôn. Trước khi nhìn thấy bức tranh và sau Cùng với các mảnh ghép huyền thoại, khi thấy bức tranh là hai trạng thái hoàn Orhan Pamuk đã dựng nên tận cùng các toàn khác nhau. Trước khi nhìn bức tranh các chiều kích đối chọi nhau không giới tiểu họa được vẽ theo phương pháp Tây hạn ở tư tưởng, nhân vật, cách xây dựng vực, các nhà tiểu họa luôn độc tôn một 91
  6. phương pháp vẽ duy nhất mà các nhà tiểu họa bậc thầy. Nếu bị dồn đến phải lựa chọn họa vĩ đại xưa truyền tụng. Không có gì con đường theo người Tây vực thì sẽ bị khác ngoài một cách vẽ được chấp nhận kiềm chế trong xã hội tôn thờ tranh tiểu họa của xã hội và thể hiện sự tôn sùng đức và trong chính con người hèn nhát chính thiên Chúa: đứng sau Người, cố mô phỏng đáng của các nhà tiểu họa. Nếu cố gắng đạt cái nhìn, sự mường tượng của Người về thế được phong cách và tính cách châu Âu thì giới. Tôn sùng các bậc thầy tiểu họa xưa vì vẫn sẽ thất bại. Người Ottoman sẽ cười cách nhìn của họ gần với cách nhìn của nhạo. Còn theo nghệ thuật truyền thống thì Chúa và những bức tranh là mẫu mực. Tuy bản thân mình không muốn, cả nhà vua - nhiên, khi biết bức tranh kia là có thực, họ người thống trị không muốn. trỗi dậy những mối ngờ vực, sự tò mò, ham Tất cả tình tiết trước và sau khi nhìn muốn được trông thấy, được tiếp cận cách thấy bức tranh đều đi vòng và ngược lại nhìn mới như thể tìm thấy một chỗ đứng chứ không đi theo tuyến tính như huyền của con người cá nhân, tài năng của mình. thoại trái cấm vốn có. Vượt qua những quy Họ nghe nói về nó - một kỹ thuật mới và định để nhìn thấy bức tranh (ăn trái cấm), khác hẳn những gì họ đã và đang làm đối nhân vật đã bị trừng phạt làm mù mắt. Mù với nghệ thuật và nó dằn vật con người mắt là cái hoàn kết nhưng lại có ý nghĩa đứng trước cái ngưỡng giữa truyền thống quay về khởi điểm và đã biến chuyển. Đó và hiện đại, phong cách và phi cá nhân, là công cuộc tìm kiếm chính mình, tìm mắt sáng nhìn cuộc sống hiện thực như nó kiếm sự thật nhưng mục đích chẳng bao vốn có hay mắt mù và tái hiện những gì nó giờ đạt được, sự thật ngày càng xa rời, đã từng có. Cuộc đấu tranh này đi đến tội càng đi vào những mê cung không thể vượt ác giết người để được nhìn thấy bức tranh thoát được. Và trong mê cung đó, quan và trả lời mọi nghi vấn nghệ thuật đó. Nó trọng hơn hết không phải không tìm thấy mang màu sắc huyền thoại như Eva ăn trái lối ra mà là họ đã quá sợ hãi, mất đi niềm cấm trước sự thôi thúc của con rắn. Mọi tin, hoài nghi tất cả nên trước mặt luôn chỉ dồn nén, mọi câu hỏi và ẩn ức trong lòng là bức tường. Họ đánh mất mình một phần các nhà tiểu họa nào có được đi đến kết vì nỗi sợ hãi từ bên trong và mất đi niềm quả như Adam, Eva: mắt ông bà sẽ mở ra, tin đối với thế giới bên ngoài . và ông bà sẽ nên như những vị thần biết Các họa sĩ hay chính con người nói điều thiện điều ác. chung đi tìm chính mình nhưng tất cả như Sau khi nhìn thấy bức tranh, các nhà bị sắp đặt sẵn, tất cả mọi người đều bị đóng tiểu họa đã rùng mình trước một kiệt tác vĩ trong khuôn trong cách nhìn của tôn giáo, đại và lần đầu tiên họ thấy mình là trung của người có quyền lực và của người khác. tâm của bức tranh. Nhưng đồng thời với Họ không thể biện minh, không bào chữa niềm hoan hỉ ấy họ trở lại với những dằn được cho số phận của mình, những bức vặt lựa chọn truyền thống mẫu mực nên có tranh vẽ theo phong cách các bậc thầy châu ở bức tranh truyền thống hay chọn những Âu sẽ biến họ ngang hàng kẻ phản bội. Từ cách tân theo mong muốn. Với việc "sáng đó, họ rơi vào trạng thái mù tiếp nối truyền mắt", "biết điều thiện điều ác" cũng đẩy họ thống, số phận; thái độ, sự lựa chọn con đến những nỗi lo sợ nghiệt ngã, không có đường đi của những người hiện tại đối mặt chỗ nào nữa ở Istanbul cho những nhà tiểu với sự va chạm văn hóa phương Tây. Hoặc 92
  7. là không hiểu biết hoặc là sự hiểu biết bên bởi những quyền lực của những cá nhân trong, từ chối cái nhìn thấy bên ngoài để thuộc những tầng lớp thống trị. Khi niềm nhìn thấy một thế giới khác - thế giới bên tin về những bảng giá trị truyền thống bị trong tâm tưởng. Mù thể hiện bản chất lay động, hình ảnh về cái thế giới nhìn thấy nghệ thuật của Hồi giáo. Con người cá qua con mắt bình thường bắt đầu mang nhân không có chỗ đứng trong nghệ thuật màu sắc huyền thoại. tiểu họa mà chỉ có thượng đế, chỉ có cách Các nhà tiểu họa bị ràng buộc phải nhìn của thượng đế. Mù hay không mù? sáng tạo các tác phẩm theo cách vẽ yếu Mù là đi vào nhận thức bên trong hay mù tính của sự vật, nhìn theo cách nhìn của là thái độ bảo thủ với cái được cho là ánh Thánh Ahlla nhưng xã hội không thích sáng, là giá trị bên trong? Mù là cách chối điều đó, họ chạy theo những cái mới dù là bỏ cách nhìn thực tại cuộc sống hay chính những đơn đặt hàng lén lút. Một mặt họ tôn là cách đi đến, phản ứng với thực tại mà trọng những bậc thầy tiểu họa cổ xưa, như mình đang phải đối diện? Mù là đi đến các bậc thánh, một mặt muốn thay đổi, tiếp đỉnh điểm của nghệ thuật bằng cách nhìn cận với phong cách phương Tây nhưng lại của thượng đế hay chính là chối bỏ nghệ phê phán cái phong cách tả chân đến. Họ thuật vì không thể làm gì được cho nghệ mâu thuẫn giữa những mong muốn chứng thuật cả? Mù là bước đường cùng vì bế tắt, minh tài năng nên phạm vào các giới luật, không còn con đường nào khác do mâu nhưng nếu giữ đúng giới luật thì lại bị đào thuẫn yêu cầu thực tại - ràng buộc quá khứ; thải khỏi những thị hiếu mới của xã hội. sự khát khao - bổn phận, danh dự, lời Vậy nên, con người trong xã hội đang có nguyền? Các nhà tiểu họa hay con người những bước va chạm các nền văn minh, họ nói chung đang lúng túng, mâu thuẫn, rụt lúng túng, mất phương hướng. Các giá trị rè không có niềm tin vì biết được con nghệ thuật hội họa giờ đây bị đặt dưới đường đầy hậu họa cố ý hay vô tình sẽ xảy những áp lực về quyền lực, đồng tiền. ra với họ. Mù vốn là một bi kịch, là thảm Đặt ra vấn đề nghệ thuật hội họa, ý họa giáng xuống đối với con người. Thế thức được thế nào là nghệ thuật đích thực. nhưng giờ đây mù là cách để phản ứng và Nghệ thuật không phải là việc mô tả chân thích nghi. Và nó trở thành một sự lựa thực đối tượng mà gợi cho người ta nhận chọn đầy phi lý. thức về đối tượng đó. Tuy nhiên, nghệ Trước những con mắt mới lạ và tinh thuật cũng không phải là những hình ảnh tường của khoa học hiện đại, nhà văn bắt của ký ức (khi đã hoàn toàn rơi vào trạng đầu hoài nghi về con mắt của mình. Nói thái mù) vì như thế nghệ thuật sẽ chết vì cách khác, nhà văn bắt đầu cảm thấy rằng đối tượng của nó đã đóng khung và chính bên cạnh, bên dưới, hay phía sau cái thế đối tượng đó lại càng nhợt nhạt, yếu ớt giới mình quan sát hàng ngày, còn một thế hơn. Tác giả không đi ngược lại tính nhân giới khác "có thực" hơn - một thế giới chỉ bản của con người trong việc tìm kiếm con có thể được nhìn thấy bằng con mắt của tri người cá nhân và cũng không chống lại thức khoa học mới. Những cái nhìn mới truyền thống, đức tin trong lòng con người. dồn dập nẩy sinh trên nhiều lĩnh vực đã Pamuk trân trọng nó nhưng cũng yêu cầu khiến con người bắt đầu cảm thấy rằng mọi nó hòa hợp khi trích dẫn kinh Koran trong giá trị truyền thống đều đã được đặt định tác phẩm Đông và Tây đều thuộc về 93
  8. thượng đế. tôi là trung tâm thế giới và mỗi lần tôi nhìn III. Ý nghĩa sử dụng huyền thoại vào bức tranh thì đấy là điều tôi mong trong tác phẩm muốn... tôi vẫn thấy cô đơn". (Tên tôi là Huyền thoại là một hiện tượng trung Đỏ, chương 59) tâm trong lịch sử văn hóa, đồng thời là một phương tiện cổ xưa để nhận thức thực tại TÀI LIỆU THAM KHẢO xung quanh và bản chất của con người. 1. Alain gheerbrant, Jean Chevalier (1997), Từ Huyền thoại cũng là mô hình đầu tiên của điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Trường mọi hệ tư tưởng, là cái nôi nguyên hợp của viết văn Nguyễn Du. các loại hình văn hóa khác nhau – văn học, 2. Nguyễn Văn Dân (2006), Phương pháp luận nghệ thuật, tôn giáo và ở mức độ nào đó, cả nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học Xã hội. triết học, thậm chí cả khoa học. [10, tr.14] 3. Chu Xuân Diên (2013), Huyền thoại và văn học (Chuyên đề Cao học). Dùng thi pháp huyền thoại hóa, sử dụng biểu tượng là nơi tích tụ những kinh 4. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb Đại học nghiệm phổ quát của loài người. Thể hiện Quốc gia Hà Nội. bề sâu hiện tượng tinh thần, nói đến những 5. Đặng Anh Đào, Huyền thoại văn chương: vấn đề phổ quát của nhân loại. Đi vào tiểu Thời điểm phát sáng và biến hóa trong văn thuyết hiện đại, biểu tượng huyền thoại học viết hiện đại truy cập tại được trao cho những lớp nghĩa mới bên http://lythuyetvanhoc.wordpress.com cạnh những vỉa tầng ý nghĩa vốn đã vô 6. Đặng Anh Đào (chủ biên) (2007), Văn học cùng phong phú tạo nên sức hấp dẫn cho phương Tây, Nxb Giáo dục, Hà Nội. tác phẩm. 7. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2010), Từ điển thuật ngữ văn Pamuk tìm cách dung hòa sự đối lập, học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. sự mâu thuẫn của các nền văn hóa đã ảnh 8. Đoàn Tử Huyến (2011), 108 nhà văn thế kỷ hưởng quan điểm sống, phụng thờ cái đẹp XX, XXI, Nxb Lao động. của con người. Tác giả muốn xóa bỏ bức 9. Inrasarav, Chân dung Orhan Pamuk, lưu vong tường ngăn cách giữa mâu thuẫn nghệ như là một định mệnh truy cập tại thuật đạo Hồi và nghệ thuật Venice, giữa http://www.vanchuongviet.org/index.php?co Hồi giáo và Phương Tây; tác giả đã tạo nên mp=tacpham&action=detail&id=7587 mối dây ràng buộc, không thể chối bỏ giữa 10. Meletinsky, E. M. (2004), Thi pháp của quá khứ - hiện tại và tương lai, giữa truyền huyền thoại, (Trần Nho Thìn - Song Mộc dịch), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. thống của tổ tiên và sự gìn giữ, tiếp nối của 11. Lotman I.U.M (2004), Cấu trúc văn bản các thế hệ con cháu, qua đó kêu gọi thái độ nghệ thuật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. trân trọng trong đánh giá và nhìn nhận lịch 12. Nhiều tác giả (2007), Huyền thoại và văn sử. Cách để thế giới này tốt đẹp là hòa học, Nxb Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ nhập và học hỏi tôn trọng lẫn nhau. Trong Chí Minh. bức tranh xã hội đó, con người luôn tìm 13. Nguyễn Tiến Văn (2008), Một cách đọc kiếm chính mình, tài năng, danh dự và cảm Orhan Pamuk, người bắc cầu giữa Đông và thức của nỗi cô đơn: "Tôi biết rằng cho dù Tây (Nguồn: talawas.org). Ngày nhận bài: 11/03/2015 Biên tập xong: 15/01/2016 Duyệt đăng: 20/01/2016 94
nguon tai.lieu . vn