Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ---------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC KINH DOANH Ở MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ BÀI HỌC CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP Sinh viên thực hiện : Nguyễn Văn Hoà Lớp : Anh 2 Khóa : 45A Giáo viên hướng dẫn : ThS. Trần Hồng Ngân Hµ Néi - 05/2010
  2. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 CHƢƠNG I: Lý luận chung về đạo đức kinh doanh ........................................... 4 1. Tổng quan về đạo đức kinh doanh. ........................................................... 4 1.1. Khái niệm đạo đức. ................................................................................ 4 1.2. Khái niệm đạo đức kinh doanh. ............................................................. 6 1.2.1. Sự phát triển của khái niệm đạo đức kinh doanh trong các thời kì lịch sử. ....................................................................................................... 6 1.2.2. Khái niệm đạo đức kinh doanh. .................................................... 10 2. Các khía cạnh thể hiện của đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp. . 15 2.1. Đạo đức trong quản trị doanh nghiệp. .................................................. 15 2.2. Đạo đức trong quan hệ với cổ đông. .................................................... 18 2.3. Đạo đức trong quan hệ với khách hàng. ............................................... 19 2.4. Đạo đức trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường. ............................... 21 3. Vai trò của đạo đức kinh doanh. ............................................................. 23 3.1. Đạo đức kinh doanh góp phần điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh doanh. ............................................................................................................ 23 3.2. Đạo đức kinh doanh góp phần làm tăng chất lượng quản lý của doanh nghiệp. ........................................................................................................... 24 3.3. Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự cam kết và tận tâm của nhân viên. . ............................................................................................................ 25 3.4. Đạo đức kinh doanh góp phần làm hài lòng khách hàng. ..................... 25 3.5. Đạo đức kinh doanh góp phần tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. ....... 26
  3. 3.6. Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự vững mạnh của nền kinh tế quốc gia. ............................................................................................................ 27 Chƣơng II: Vấn đề đạo đức kinh doanh ở một số quốc gia ............................... 29 1. Mỹ - nền kinh tế và nền tảng đạo đức kinh doanh phát triển nhất thế giới. ......................................................................................................... 29 2. Nhật Bản. ........................................................................................... 45 3. Trung Quốc. ....................................................................................... 61 Chƣơng III: Bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập. ..................................................................................................... 75 1. Thực trạng đạo đức kinh doanh Việt Nam. ............................................ 75 2. Bài học kinh nghiệm để phát triển đạo đức kinh doanh ở Việt Nam. ... 86 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 93 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 94
  4. LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Trong những năm gần đây, ở Việt Nam, liên tiếp xảy ..ra những vụ bê bối liên quan đến những hành vi thiếu trách nhiệm của các doanh nghiệp Việt Nam đối với khách hàng, người tiêu dùng, cổ đông và toàn xã hội với những hành vi tiêu biểu như: hành vi sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm không an toàn, kém chất lượng, gây tác hại cho sức khỏe người tiêu dùng, trong đó nổi cộm là vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm...; hành vi thiếu minh bạch, thiếu trung thực, thiếu trách nhiệm trong việc công bố các thông tin tài chính, thông tin hoạt động của doanh nghiệp cho các cổ đông, cho công chúng nhà đầu tư, đặc biệt là vấn đề công bố thông tin của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán.... Những vụ bê bối ấy đang đặt ra nhiều câu hỏi về trách nhiệm xã hội cũng như đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam. Liệu rằng khái niệm đó có thực sự tồn tại trong các doanh nghiệp? Nếu như chúng tồn tại thì chúng đang đóng vai trò gì trong hoạt động của các doanh nghiệp? Và làm thế nào để phát triển, phát huy vai trò của đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội trong hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam? Nhìn ra các nước phát triển trên thế giới, trong quá trình phát triển của mình, họ đã đúc rút ra những bài học kinh nghiệm về vai trò, tầm quan trọng của đạo đức kinh doanh, cũng như sự cần thiết phải áp dụng, phát triển vai trò của chúng trong hoạt động của doanh nghiệp. Hiện nay, chính phủ và bản thân doanh nghiệp ở những nước phát triển đã tích cực có những hành động, biện pháp cụ thể nhằm đạt được mục tiêu trên. 1
  5. Hiện nay, khái niệm đạo đức kinh doanh vẫn còn khá mới mẻ ở Việt Nam; trong khi đó ở các nước phát triển, đạo đức kinh doanh đã trở thành một khái niệm quen thuộc, và đã có những bước phát triển không ngừng. Chúng ta là những người đi sau, có lợi thế là có thể học hỏi, đúc rút được những kinh nghiệm từ quá trình phát triển của các quốc gia đi trước để tránh những sai lầm và thúc đẩy quá trình phát triển của chính mình. Theo nguyên tắc này, người viết đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Vấn đề đạo đức kinh doanh ở một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập”, để góp phần phát triển đạo đức kinh doanh trong các doanh nghiệp ở Việt Nam – một vấn đề rất bức thiết đối với Việt Nam hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu. Thông qua nghiên cứu tìm hiểu sự phát triển của đạo đức kinh doanh cũng như những biện pháp, cách thức mà Chính phủ, xã hội và bản thân các doanh nghiệp ở một số quốc gia đã và đang tiến hành để nâng cao đạo đức trong doanh nghiệp, người viết sẽ rút ra những kinh nghiệm, biện pháp phù hợp cho Việt Nam để thực hiện mục tiêu xây dựng, nâng cao đạo đức kinh doanh trong hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hiện trạng và sự phát triển của đạo đức kinh doanh ở ba quốc gia đó là: Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc. Lý do người viết chọn ba quốc gia trên đó là Mỹ và Nhật Bản là hai cường quốc kinh tế mạnh nhất trên thế giới, đồng thời cũng là những nước đã có sự phát triển cao về thực hiện đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp; và Trung Quốc là một đất nước đang phát triển đang trỗi dậy mạnh mẽ về kinh tế trên thế giới, bên cạnh đó, bối cảnh cũng như các đặc điểm kinh tế - xã hội của Trung Quốc có 2
  6. rất nhiều nét tương đồng đối với Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu là các chính sách, luật pháp của các Chính phủ, các chính sách của các công ty và các tài liệu của tổ chức xã hội liên quan đến đạo đức kinh doanh. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu để áp dụng chủ yếu là nghiên cứu phân tích và tổng hợp tài liệu. 5. Bố cục. Luận văn gồm 3 chương: Chƣơng I: Lý luận chung về đạo đức kinh doanh. Chƣơng II: Vấn đề đạo đức kinh doanh ở một số quốc gia. Chƣơng III: Một số bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam. Cuối cùng, người viết xin gửi lời chân thành cảm ơn đến ThS. Trần Hồng Ngân – Giảng viên Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế - Trường Đai học Ngoại Thương đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ người viết trong quá trình hoàn thành luận văn này. Hà Nội, ngày 12 tháng 4 năm 2010 3
  7. CHƢƠNG I: Lý luận chung về đạo đức kinh doanh 1. Tổng quan về đạo đức kinh doanh. 1.1. Khái niệm đạo đức. Theo quan niệm phương Tây, đạo đức được viết trong tiếng La-tinh là từ Moralital (luân lý) có nghĩa là bản thân mình cư xử và trong tiếng Hi Lạp là từ “Ethigos” (đạo lý) có nghĩa là người khác muốn ta hành xử và ta muốn người khác như vậy. Đối với quan niệm của người phương Đông mà tiêu biểu là trong văn minh Trung Hoa, người ta quan niệm “đạo” là đường đi, đường sống của con người, “đức” là các nguyên tắc luân lý, đức tính cần có của con người. Như vậy, tổng kết lại, khái niệm đạo đức đƣợc hiểu là tập hợp các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh, đánh giá hành vi của con ngƣời đối với bản thân và trong quan hệ với cá nhân khác, với toàn xã hội.[Dương Thị Liễu, 2006] Có thể nói, đạo đức ra đời từ rất sớm ngay trong những hình thái xã hội đầu tiên của loài người.Trong xã hội, đạo đức thường được thể hiện qua những chuẩn mực và quy tắc đạo đức được phân ra hai loại là tốt và xấu như: lòng độ lượng, bác ái, tính thật thà, tham lam, lùa dối... Những chuẩn mực và quy tắc này được hình thành trên nguyên tắc phải có sự thừa nhận tự nguyện của cả cộng đồng xã hội. Nó được chấp hành dựa trên sức mạnh của sự thôi thúc của lương tâm cá nhân, của dư luận xã hội, của tập quán truyền thống và của giáo dục.. Thông qua hệ thống các chuẩn mực và quy tắc đạo đức này, đạo đức quy định thái độ, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người đối với bản thân, những người xung quanh và toàn xã hội. Qua 4
  8. đó, đạo đức điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội. Đây chính là chức năng cơ bản của đạo đức trong suốt các thời kì lịch sử. Với bản chất là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có hai đặc điểm: Đạo đức có tính giai cấp, tính khu vực, tính địa phương: Điều kiện, hoàn cảnh sống có tác động trực tiếp, ảnh hưởng lớn lên cách thức sinh sống, lên tư duy và quan niệm về các vấn đề xã hội của con người. So sánh giữa quan niệm đạo đức của các dân tộc ở các khu vực địa lý khác nhau, giữa các giai cấp khác nhau ta dễ dàng nhận thấy sự khác biệt. Nội dung của các chuẩn mực đạo đức thay đổi theo điều kiện lịch sử cụ thể: Qua từng giai đoạn phát triển khác nhau của các hình thái tổ chức xã hội. Chúng ta dễ dàng nhân thấy sự khác biệt trong chuẩn mực đạo đức của từng thời kỳ. Nếu như trong xã hội phong kiến, việc trung thành với quân vương là tiêu chuẩn tiên quyết trong đánh giá tư cách đạo đức con người thì đến các xã hội sau này, tiêu chuẩn này đã mất đi. Trong các hình thái xã hội phát triển cao hơn về sau này, khi có sự xuất hiện của Nhà nước, pháp luật đã được ra đời và cùng đóng vai trò điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội với đạo đức. Tuy nhiên, đạo đức có những đặc điểm khác biệt mà pháp luật không có được:  Sự điều chỉnh hành vi của đạo đức không mang tính cưỡng chế, cưỡng bức như pháp luật mà mang tính tự nguyện. Các chuẩn mực đạo đức cũng không được qui định thành văn.  Phạm vi điều chỉnh của đạo đức rộng hơn so với pháp luật khi nó không chỉ điều chỉnh những hành vi của con người như pháp luật mà còn bao quát mọi lĩnh vực của thế giới tinh thần. 5
  9. 1.2. Khái niệm đạo đức kinh doanh. 1.2.1. Sự phát triển của khái niệm đạo đức kinh doanh trong các thời kì lịch sử. a) Sự phát triển của khái niệm đạo đức kinh doanh trước thời kì hiện đại. Lịch sử xuất hiện của đạo đức kinh doanh gắn liền với sự ra đời và phát triển của buôn bán, thương mại trên thế giới. Từ thuở ban đầu, trong các hoạt động buôn bán, trao đổi người ta đã qui định, đòi hỏi với nhau những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức như: không được trộm cắp, phải trung thực, sòng phẳng trong trao đổi; phải có chữ tín, tôn trọng các cam kết thỏa thuận... Đây là những nguyên tắc ban đầu của đạo đức kinh doanh. Trong giai đoạn đầu phát triển, những tín điều tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và xây dựng ý thức tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức của mọi người. Ở phương Tây, trong Luật Tiên tri lâu đời đã có những lời khuyên như: đến mùa thu hoạch, mọi người không nên gặt hái hết hoa màu mà nên dành lại một phần để dành cho những người nghèo khó; hay mỗi tuần nên dành một ngày để cho cả chủ và thợ được nghỉ ngơi... Đến thời Trung cổ, Giáo hội La Mã đã có Luật đề ra những nguyên tắc của đạo đức kinh doanh như: mọi người phải trung thực trong trao đổi, buôn bán theo nguyên tắc “thuận mua vừa bán”; không nên trả lương quá thấp cho người làm công... Ở phương Đông, những tư tưởng về đạo đức kinh doanh đã được tìm thấy trong Luật Hồi giáo với những điều răn dạy ngăn cản việc cho vay lấy lãi, trừ trường hợp bỏ vốn ra đầu tư, buôn bán thì được phép hưởng lợi và 6
  10. đặc biệt là những tư tưởng của các học giả Trung Quốc thời cổ đại mà tiêu biểu đó là Khổng Tử và Hàn Phi Tử. Nhắc đến Khổng Tử là nhắc đến tư tưởng Đức trị được thể hiện qua Ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Dũng của ông. Nhẫn là biết yêu thương, giúp đỡ người khác và lấy đó làm phương hướng rèn luyện của bản thân. Nhân là yếu tố quan trọng nhất, đóng vai trò chi phối trong Ngũ thường. Nghĩa là thấy việc gì đáng làm thì dốc sức làm không mưu lợi cá nhân với cả phương châm “không thành công cũng thành nhân”. Quan điểm này đã được phát triển thành tư tưởng “đạo đức vĩ mô” trong đạo đức phương Tây thời gian sau này. Lễ là hình thức của Nhân, chủ trương “điều mình không muốn làm cho mình thì không nên làm cho người khác”. Trí là có trí tuệ, biết mình, biết người. Dũng là sự kiên cường, quả cảm vượt qua khó khăn để đạt được mục đích đề ra, thậm chí là sẵn sàng hi sinh bản thân vì mục đích cao cả. Ở phương Tây, triết lý quản lý của nhiều công ty coi rủi ro là một yếu tố tất yếu trong quá trình hoạt động, ra quyết định và họ khuyến khích tinh thần dám đối mặt và phấn đấu vượt qua thách thức, khó khăn. Khác hẳn với Khổng Tử, Hàn Phi Tử lại chủ trương dùng pháp trị, coi hình phạt là cách thức ngăn chặn những hành vi xấu hiệu quả nhất. Ông đưa ra ba khái niệm trong học thuyết cai trị của mình đó là Thế, Pháp và Thuật. 7
  11. Thế là quyền thế, là sự coi trọng quyền lực. Theo ông, quyền lực phải được tập trung và thưởng phạt là cách thức cai trị. Pháp là pháp luật, là căn cứ để phân biệt đúng – sai, phải – trái, thể hiện tính công bằng và phải được công khai, phổ biến rộng rãi. Thuật là nghệ thuật cai trị. Ông cho rằng trong nghệ thuật cai trị bao gồm 2 khía cạnh là kỹ thuật và tâm thuật. Kỹ thuật là cách thức tuyển dụng, đánh giá, quản lý. Còn tâm thuật là các mưu mẹo, thủ thuật khống chế, điều khiển hành vi. Trong những giai đoạn về sau, khi xã hội loài người đã có những bước phát triển lên các giai đoạn cao hơn đánh dấu với sự ra đời và hoan thiện của Nhà nước thì các nguyên tắc của đạo đức kinh doanh được dần dần đưa vào trong luật pháp để ngày càng có tính ràng buộc, có hiệu lực điều chỉnh hành vi xã hội mạnh cao hơn. b) Sự phát triển của khái niệm đạo đức kinh doanh hiện đại. Sang đến thế kỷ XX, đạo đức kinh doanh đã có những bước phát triển vượt bậc khi trở thành một lĩnh vực nghiên cứu thu hút sự quan tâm của nhiều học giả, các công ty, Nhà nước và của cả xã hội. Đạo đức kinh doanh đã trở thành một lợi thế cạnh tranh quan trọng đối với các doanh nghiệp. Sự phát triển của đạo đức kinh doanh trong thế kỷ XX được phân chia thành các giai đoạn như sau:  Trước thập kỷ 60, đạo đức kinh doanh được khởi đầu bằng các vấn đề chủ yếu do các Giáo phái đưa ra, đề cập chủ yếu đến mối quan hệ giữa người lao động và các chủ doanh nghiệp như Đạo Thiên chúa giáo dành nhiều sự quan tâm đến mức sống , quyền lợi của người công nhân... 8
  12.  Trong thập kỷ 60, đối tượng những người tiêu dùng bắt đầu được chú ý. Các đạo luật về bảo vệ người tiêu dùng được ban hành. Năm 1963, Tổng thống Mỹ đã đưa ra thông báo đặc biệt về quyền lợi người tiêu dùng. Từ năm 1968 – 1970, một số luật có nội dung bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được ban hành. Đây cũng là thập kỷ mà các vấn đề liên quan đến môi trường sinh thái như vấn đề ô nhiễm, các chất độc hại cũng đã bắt đầu được chú ý đến.  Đến thập kỷ 70, đạo đức kinh doanh đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu. Các trung tâm nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được thành lập. Người ta đã đưa ra những khuyến nghị về những nguyên tắc đạo đức kinh doanh cần được áp dụng trong hoạt động của doanh nghiệp. Đặc biêt, khi những vấn đề như hối lộ, quảng cáo lừa gạt, an toàn sản phẩm, hành vi thông đồng câu kết với nhau để áp đặt giá của một số doanh nghiệp bị phát giác thì khái niệm đạo đức kinh doanh đã ngày càng trở nên quen thuộc với người tiêu dùng và trở thành một đòi hỏi bức thiết họ đối với các doanh nghiệp.  Trong những năm 80, việc giảng dạy và nghiên cứu về đạo đức kinh doanh đã có những bước tiến vượt bậc. Chỉ tính riêng ở Mỹ, đã có hơn 30 trung tâm nghiên cứu về đạo đức kinh doanh được thành lập. Các khóa học về đạo đức kinh doanh tại các trường đại học của Mỹ đã tăng lên 500 khóa và thu hút 70.000 sinh viên theo học. Các công ty lớn như: Johnson&Johnson, Caterpiller đã thành lập những Ủy ban Đạo đức và chính sách xã hội để giải quyết những vấn đề đạo đức trong công ty.  Trong thập kỷ 90, đạo đức kinh doanh đã được thể chế hóa. Tháng 11/1991, Quốc hội Mỹ đã thông qua chỉ dẫn xử án đối với các tổ chức có 9
  13. các hành vi vô đạo đức gây thiệt hại cho các bên được ghi thành luật và những khuyến khích đối với các doanh nghiệp có những biện pháp ngăn ngừa các hành vi phi đạo đức. Bước sang thế kỷ XXI, vấn đề đạo đức kinh doanh tiếp tục được nghiên cứu, xem xét đa dạng hơn từ nhiều góc độ khác nhau gồm luật pháp, triết học và các khoa học xã hội khác. Đặc biệt khi yếu tố phát triển bền vững ngày càng được các doanh nghiệp và cộng đồng xã hội chú trọng thì vai trò của đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp càng được đề cao, trở thành một nhân tố không thể thiếu trong hoạt động của doanh nghiệp bở vì chỉ khi doanh nghiệp hoạt động có đạo đức, doanh nghiệp mới có thể có được sự phát triển bền vững. 1.2.2. Khái niệm đạo đức kinh doanh. Trên thế giới hiện nay, tồn tại rất nhiều định nghĩa về đạo đức kinh doanh của các học giả, các nhà nghiên cứu dựa trên những góc độ và quan điểm nhìn nhận khác nhau. Khái niệm đơn giản nhất về đạo đức kinh doanh của các học giả phương Tây đưa ra đó là định nghĩa của Brenner theo đó: “Đạo đức kinh doanh là những nguyên tắc được chấp nhận để phân định đúng sai, nhằm điều chỉnh hành vi của các nhà kinh doanh”.[TS. Nguyễn Hoàng Ánh,2009] Giáo sư người Mỹ Phillip V.Lewis đã dành thời gian điều tra, thu thập 185 định nghĩa về đạo đức kinh doanh được đề cập trong các sách báo, các bài nghiên cứu. Qua đó, ông đã tổng hợp những định nghĩa này và đưa ra định nghĩa đạo đức kinh doanh là: “Đạo đức kinh doanh là tất cả 10
  14. những quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức hoặc luật lệ để cung cấp chỉ dẫn về hành vi ứng xử chuẩn mực và sự trung thực (của một tổ chức) trong những trường hợp nhất định”.[TS. Nguyễn Hoàng Ánh, 2009] Một khuyết điểm lớn trong những định nghĩa về đạo đức kinh doanh của Giáo sư Philip V.Lewis và các học giả trước đó đó là họ nêu ra đạo đức kinh doanh bao gồm những chuẩn mực, qui tắc ứng xử để phân định các hành vi đúng sai trong hoạt động kinh doanh nhưng lại chưa chỉ ra được bằng cách thức nào để xác định điều gì là đúng và điều gì là sai trong hoạt động kinh doanh. Phát triển từ định nghĩa của Giáo sư Lewis, hai học giả Ferrels và John Fraedrich đã đưa ra một định nghĩa đầy đủ hơn về đạo đức kinh doanh đó là: Đạo đức kinh doanh bao gồm những nguyên tắc cơ bản và tiêu chuẩn điều chỉnh hành vi trong thế giới kinh doanh. Tuy nhiên, việc đánh giá một hành vi cụ thể là đúng hay sai, phù hợp với đạo đức hay không sẽ được quyết định bởi nhà đầu tư, nhân viên, khách hàng,các nhóm có quyền lợi liên quan, hệ thống pháp lý cũng như cộng đồng”.[TS. Nguyễn Hoàng Ánh, 2009] Còn ở Việt Nam, giữa các học giả nghiên cứu về đạo đức kinh doanh hiện nay cũng có sự tồn tại đan xen của nhiều định nghĩa khác nhau về đạo đức kinh doanh. Theo tác giả Dương Thị Liễu trong cuốn sách “Bài giảng về văn hóa kinh doanh” thì đạo đức kinh doanh được định nghĩa là: “Đạo đức kinh doanh là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh. [Dương Thị Liễu, 2006] 11
  15. Còn theo GS.TS Nguyễn Mạnh Quân thì: “ Đạo đức kinh doanh bao gồm những nguyên tắc và chuẩn mực có tắc dụng nhằm hướng dẫn hành vi trong các mối quan hệ kinh doanh, chúng được những người hữu quan (nhà quản lý, nhà đầu tư, người lao động, khách hàng, đối tác, các cơ quan pháp lý, cộng đồng dân cư...) sử dụng để phát xét xem một hành động cụ thể là đúng hay là sai, là hợp đạo đức hay phi đạo đức.”[GS. TS Nguyễn Mạnh Quân, 2008] Về bản chất, đạo đức kinh doanh cũng là một đạng đạo đức nghề nghiệp. So với những tiêu chuẩn đạo đức trong các ngành nghề khác, đạo đức kinh doanh có tính đặc thù của hoạt động kinh doanh vốn gắn liền với các lợi ích kinh tế, nên khía cạnh thể hiện trong ứng xử về đạo đức có những đặc điểm khác như: tính thực dụng, sự coi trọng hiệu quả kinh tế là yếu tố dược chấp nhận trong đạo đức kinh doanh.. Tuy vậy, đạo đức kinh doanh vẫn luôn phải chịu sự chi phối bởi một hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức xã hội chung. Đạo đức kinh doanh có các nguyên tắc là: Tính trung thực: Gồm trung thực với Nhà nước cụ thể là: trung thực trong chấp hành pháp luật của Nhà nước, không làm ăn phi pháp, không sản xuất và buôn bán những mặt hàng quốc cấm, thực hiện những dịch vụ có hại cho thuần phong mỹ tục... và trung thực với đối tác, người tiêu dùng cụ thể là: không dùng các thủ đoạn gian dối, xảo trá để kiếm lời, giữ lời hứa, giữ chữ tín trong kinh doanh, nhất quán trong nói và làm... Tôn trọng con người: Đối với cộng sự và những người dưới quyền thì phải tôn trọng phẩm giá, quyền lợi chính đáng, tôn trọng hạnh phúc, tôn trọng tiềm năng phát triển của nhân viên, quan tâm đúng mức, tôn trọng 12
  16. quyền tự do cá nhân và các quyền hợp pháp khác. Đối với khách hàng: phải tôn trọng nhu cầu, sở thích và tâm lý khách hàng. Đối với đối thủ cạnh tranh thì phải tôn trọng lợi ích của đối thủ. Gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của khách hàng và xã hội, coi trọng hiệu quả gắn với trách nhiệm xã hội. Bí mật và trung thành với các trách nhiệm đặc biệt. Đạo đức kinh doanh điều chỉnh các chủ thể trong hoạt động kinh doanh bao gồm: Tầng lớp doanh nhân thực hiện hoạt động kinh doanh: đạo đức kinh doanh điều chỉnh hành vi đạo đức của tất cả các thành viên trong các tổ chức kinh doanh ( hộ gia đình, công ty, tập đoàn, xí nghiệp) như ban giám đốc, cán bộ nhân viên... Sự điều chỉnh này chủ yếu thông qua công tác lãnh đạo, quản lý trong những tổ chức đó. Đạo đức kinh doanh chính là đạo đức nghề nghiệp của họ. Khách hàng và các đối tác kinh doanh của doanh nghiệp: Các khách hàng khi thực hiện hoạt động mua hàng cũng đều xuất phát từ lợi ích kinh tế của bản thân, đều có tâm lý muốn mua rẻ và được phục vụ chu đáo. Vì vậy, nó cũng cần phải chịu sự điều chỉnh của đạo đức kinh doanh, tránh tình trạng, khách hàng lợi dụng vị thế của mình để chèn ép, xâm phạm danh dự, nhân phẩm của các doanh nhân. So sánh đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội. Khái niệm trách nhiệm xã hội. Các học giả và các nhà nghiên cứu trên thế giới đã đưa ra rất nhiều định nghĩa về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. 13
  17. Keith Davis (1973) đã đưa ra một khái niệm khá rộng về CSR đó là: “CSR là sự quan tâm và phản ứng của doanh nghiệp với các vấn dề vuợt ra ngoài việc thỏa mãn những yêu cầu pháp lý, kinh tế, công nghệ”. Trong khi đó, Carroll (1999) cho rằng CSR còn có phạm vi lớn hơn “là tất cả các vấn đề kinh tế, pháp lý, đạo đức, và những linh vực khác mà xã hội trông dợi ở doanh nghiệp trong mỗi thời điểm nhất định.” Theo Matten và Moon (2004): “CSR là một khái niệm chùm bao gồm nhiều khái niệm khác nhu đạo đức kinh doanh, doanh nghiệp làm từ thiện, công dân doanh nghiệp, tính bền vững và trách nhiệm môi truờng. Ðó là một khái niệm rộng và luôn đuợc thử thách trong từng bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù.” [Nguyễn Thu Quỳnh, 2009] Theo WB, trách niệm xã hội của doanh nghiệp là cam kết của doanh nghiệp đóng góp cho sự phát triển kinh tế bền vững, thông qua việc tuân thủ các chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn về lao động, tôn trọng quyền lợi người lao động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên, phát triển cộng đồng...theo cách có lợi cho doanh nghiệp cũng như sự phát triển chung của xã hội.[Dương Thị Liễu, 2006] Trách nhiệm xã hội là nghĩa vụ mà một doanh nghiệp phải thực hiện đối với xã hội. Có trách nhiệm với xã hội là tăng đến mức tối đa các tác dụng tích cực và giảm tới mức tối thiểu các hậu quả tiêu cực với xã hội. Các doanh nghiệp có thể thực hiện trách nhiệm xã hội của mình bằng cách đạt một chứng chỉ quốc tế hay áp dụng những bộ quy tắc ứng xử. Mối quan hệ giữa đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội. Trên thực tế, khái niệm trách nhiệm xã hội được nhiều người hiểu là một biểu hiện của đạo đức kinh doanh nhưng giữa hai khái niệm này có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. 14
  18. Nếu trách nhiệm xã hội là những nghĩa vụ một doanh ngiệp hay cá nhân phải thực hiện đối với xã hội nhằm đạt được nhiều nhất những tác động tích cực và giảm tối thiểu các tác động tiêu cực đối với xã hội, thì đạo đức kinh doanh lại bao gồm các qui định và tiêu chuẩn đạo đức điều chỉnh hành vi trong kinh doanh. Trách nhiệm xã hội là một cam kết với xã hội, còn đạo đức kinh doanh lại bao gồm các qui định về các phẩm chất đạo đức của các tổ chức kinh doanh và nó sẽ chi phối quá trình ra quyết định của các tổ chức này. Nếu đạo đức kinh doanh liên quan đến các nguyên tắc và qui định chi phối các quyết định của các tổ chức kinh doanh thì trách nhiệm xã hội quan tâm tới hậu quả của những quyết định mà các tổ chức kinh doanh thực hiện. Đạo đức kinh doanh thể hiện những mong muốn, kì vọng xuát phát từ bên trong, còn trách nhiệm xã hội thể hiện những mong muốn, kì vong xuất phát từ bên ngoài. Tuy có sự khác nhau nhưng giữa hai khái niệm này cũng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đạo đức kinh doanh chính là sức mạnh trong trách nhiệm xã hội vì chỉ khi bản thân các tổ chức có sự tuân thủ đạo đức thì họ mới có thể thực sự có thành ý thực hiện tốt các trách nhiệm xã hội của mình. 2. Các khía cạnh thể hiện của đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp. 2.1. Đạo đức trong quản trị doanh nghiệp. Vấn đề đạo đức trong quản trị doanh nghiệp chủ yếu được thể hiện trong các vấn đề cơ bản liên quan đến mối quan hệ giữa người chủ sở hữu hay quản lý đối với nhân viên như sau: 15
  19. Đạo đức trong tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng lao động Những vấn đề đạo đức trong quá trình tuyển dụng, bổ nhiệm lao động thường gặp bao gồm: Tình trạng phân biệt đối xử: Phân biệt đối xử là việc không cho phép một người nào đó được hưởng những lợi ích nhất định xuất phát từ định kiến về phân biệt biểu hiện ở các dạng như: phân biệt chủng tộc, giới tính, tôn giáo, địa phương, tuổi tác....Trong tất cả các công việc luôn có những tính chất, đặc điểm đòi hỏi người lao động phải có những đặc điểm về tuổi tác, giới tính... nhất định, nhưng nhất thiết những yêu cầu này phải được dựa trên những nguyên nhân hợp lý, theo đúng đòi hỏi thực tế của công việc. Tuy vậy, có nhiều trường hợp quyết định tuyển dụng, bổ nhiệm nhân sự của nhà quản lý lại dựa trên những định kiến về phân biệt đối xử. Họ thường quyết định dựa trên cơ sở người lao động thuộc một nhóm người nào đó, đặc điểm của nhóm người này sẽ được gán cho người lao động bất kể họ có những đặc điểm đó hay không và dựa trên giả định là nhóm người này kém cỏi hơn nhóm người khác. Đó là những định kiến như: phụ nữ khó có thể đưa ra những quyết định hợp lý nên không thể làm được lãnh đạo, người da màu kém thông minh hơn người da trắng... Những quyết định như vậy không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động mà còn ảnh hưởng đến chính bản thên doanh nghiệp khi họ có thể mất đi nguồn nhân lực có chất lượng. Tôn trọng quyền riêng tư cá nhân của người lao động: Việc yêu cầu người lao động cung cấp các thông tin cá nhân cho doanh nghiệp để hoạt động quản lý được dễ dàng là yêu cầu chính đáng. Tuy nhiên, ngược lại doanh nghiệp cũng phải có trách nhiệm bảo mật thông tin cá nhân cho 16
  20. người lao động. Những trường hợp các nhà quản lý doanh nghiệp sử dụng các thông tin cá nhân để phục vụ cho các ý đồ cá nhân như trả thù cá nhân, nói xấu, trù đập, gây sức ép cho người lao động cần bị lên án và loại bỏ trong doanh nghiệp. Sử dụng và đãi ngộ người lao động hợp lý, xứng đáng: Doanh nghiệp cần phải có chính sách sử dụng người lao động hợp lý, phù hợp với năng lực của họ để họ có thể phát huy, đóng góp hết khả năng cho công ty. Bên cạnh đó, bản thân các doanh nghiệp cũng phải có những sự đãi ngộ tương xứng với công sức người lao động đã đóng góp cho doanh nghiệp. Làm tốt công tác sử dụng lao động sẽ giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, tăng trưởng lợi nhuận bền vững. Những hành vi chèn ép, bóc lột người lao động là những trường hợp cần hết sức tránh trong hoạt động của doanh nghiệp. Đạo đức trong đánh giá ngƣời lao động. Hành vi hợp đạo đức của người quản lý trong đánh giá người lao động là người quản lý không được đánh giá người lao động trên cơ sở định kiến hay những tình cảm cá nhân. Những nhân tố như sự yêu ghét cá nhân, sự ghanh ghét, đố kỵ... hay dùng ấn tượng của mình về một nhóm người mà người lao động thuộc nhóm người đó để nhìn nhận họ là những điều người quản lý phải hết sức tránh. Đánh giá người lao động phải dựa trên những đóng góp thực tế của họ cho doanh nghiệp một cách vô tư, công bằng thông qua sự giám sát của các nhà quản lý. Sự giám sát này cũng phải được thực hiện một cách cẩn trọng và tế nhị, trên nguyên tắc tôn trọng quyền cá nhân của người lao động, tránh gây áp lực, tâm lý căng thẳng hay xâm phạm thô bạo quyền cá nhân cho người lao động. 17
nguon tai.lieu . vn