Xem mẫu
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ô nhiễm môi trường hiện nay không còn là vấn đề mới, nhưng lúc nào
cũng nóng và được quan tâm. Tình trạng ô nhiễm môi trường diễn ra trên khắp
thế giới, ở mọi nơi, mọi lúc và ngày càng gia tăng ở các trạng thái: ô nhiễm
rắn, ô nhiễm lỏng và khí.
Hiện nay, Việt Nam là một trong những quốc gia có không khí bị ô
nhiễm, đặc biệt tại thủ đô Hà Nội nồng độ khí CO, NOx, VOC, benzen, hơi
xăng dầu trung bình ngày ở một số nút giao thông lớn đã vượt tiêu chuẩn cho
phép từ 1,2 1,5 lần [3]. Các nhà khoa học cùng nghiên cứu nhiều phương pháp
để giảm thiểu sự ô nhiễm không khí, đặc biệt hướng dùng các chất xúc tác
nhắm nâng cao hiệu suất chuyển hóa các khí độc hại thành các chất ít độc hại
hơn được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi. Chất xúc tác thường dùng trước
đây là các kim loại quý và hợp chất của chúng, tuy chất xúc tác này có hiệu
quả khá cao trong quá trình xử lí nhưng giá thành rất cao không lợi về mặt kinh
tế. Ngay từ khi mới ra đời vật liệu nano được thử nghiệm làm chất xúc tác đã
cho kết quả bất ngờ.
Công nghệ nano (tiếng Anh là nanotechnology) là ngành công nghệ liên
quan đến việc thiết kế, phân tích, chế tạo và ứng dụng các cấu trúc, thiết bị và
hệ thống bằng việc điều khiển hình dáng, kích thước trên quy mô nanomet.
Vật liệu nano là vật liệu trong đó ít nhất một chiều có kích thước
nanomet. Về trạng thái của vật liệu, người ta phân chia thành ba trạng thái:
rắn, lỏng và khí. Vật liệu nano được tập trung nghiên cứu hiện nay chủ yếu là
vật liệu rắn, sau đó mới đến vật liệu lỏng và khí.
Về mặt xúc tác, vật liệu zircon kiểu MVO4 đã và đang là tâm điểm của
sự chú ý đối với nhiều nhà khoa học trong nước và trên thế giới.
1
Trong thành phần zircon MVO4 (với M là nguyên tố hóa trị 3 như: Sc, Y,
Ce, Pr, Nd, Tb, Ho, Er, Tm, Yb, Lu…), khi thay thế nguyên tố M có bản chất
khác nhau sẽ cho những vật liệu có hoạt tính xúc tác khác nhau. Người ta đã
thay thế một phần các kim loại khác vào vị trí M tạo nên cấu trúc zircon kiểu
M1xAxVO4 ( A là nguyên tố đất hiếm) hoặc M1xA1,5xVO4 (A là các nguyên tố
hóa trị II). Những vật liệu được pha tạp này thể hiện nhiều tính chất xúc tác
đặc thù.
Vật liệu zircon NdVO4 đã và đang được quan tâm đặc biệt vì chúng có
những ứng dụng quan trọng. Từ lâu, vật liệu NdVO4: Eu3+ được sử dụng là
chất phát quang màu đỏ trong ống tia catot, đèn huỳnh quang… [13,31,37]. Vật
liệu nano NdVO4: Eu3+ có thể phát quang mạnh ở bước sóng nm, vì vậy rất có
triển vọng trong các ứng dụng đánh dấu y sinh, hay đánh dấu bảo mật [18,46].
Ngoài ra NdVO4: Eu3+ còn có ứng dụng làm chất xúc tác cho các phản ứng xử
lý ô nhiễm môi trường khí. Hiện nay nhiều phòng thí nghiệm đã đi sâu vào
nghiên cứu vật liệu NdVO4 với thành phần nguyên tố pha tạp khác nhau nhưng
chủ yếu vẫn là kim loại đất hiếm hóa trị 3.
Việc chế tạo chất xúc tác cho phản ứng xử lí các hợp chất hữu cơ dễ
bay hơi VOCs (Volatile Organic Compounds) cũng là phần nghiên cứu quan
trọng của ngành xúc tác. Những dung môi hữu cơ thải ra từ công nghiệp hóa
chất như benzen, toluen, mxylen… đang ảnh hưởng không ít đến môi trường
làm việc của con người.
Tóm lại, với mong muốn tìm vật liệu zircon có hoạt tính xúc tác cao
trong các phản ứng nhằm mục đích xử lí ô nhiễm môi trường khí, đề tài nghiên
cứu của khóa luận là: “Tổng hợp và nghiên cứu cấu trúc, hoạt tính xúc tác
của vật liệu nano NdVO4: M2 + (M=Ca, Co, Zn)”
2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2
Tổng hợp vật liệu theo phương pháp solgel. Khi tổng theo phương pháp
solgel, tiến hành khảo sát thành phần pha tạp khác nhau… Từ đó tìm ra thành
phân pha tạp tối ưu để tổng hợp ra vật liệu mong muốn. Dùng các phương
pháp phân tích để nghiên cứu cấu trúc và tính chất của vật liệu tổng hợp được.
Chọn ra phương pháp tổng hợp vật liệu làm xúc tác trong phản ứng oxi
hóa mxylen đạt hiệu suất cao nhất.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tổng hợp vật liệu được thực hiện theo phương pháp solgel.
Xác định đặc trưng cấu trúc của vật liệu sẽ sử dụng các phương pháp
hóa lí và vật lí như: phương pháp phân tích phổ hồng ngoại, nhiễu xạ tia X,
hiển vi điện tử quét (SEM), tán xạ năng lượng tia X , xác định diện tích bề mặt
riêng (BET).
Nghiên cứu khả năng xúc tác được tiến hành trên hệ vi dòng kết nối với
hệ sắc kí khí.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu có ý nghĩa xây dựng quy trình tổng hợp vật liệu zircon
NdVO4: M2+ (M=Ca, Co, Zn) có hoạt tính xúc tác cao trong vấn đề xử lí các
chất gây ô nhiễm môi trường. Đồng thời đề tài cũng cho thấy phần nào mối
quan hệ giữa cấu trúc của vật liệu zircon và hoạt tính xúc tác của chúng trong
phản ứng oxi hóa các chất hữu cơ dễ bay hơi.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Tầm quan trọng của việc xử lí khí thải
Trong thế kỉ XXI, nhân loại đang phải đối mặt với nhiều vấn đề lớn
đặc biệt là ô nhiễm môi trường. Trong đó ô nhiễm không khí đang ngày càng
gia tăng là vấn đề đáng lo ngại nhất hiện nay.
Trong những năm gần đây, ở các khu đô thị Việt Nam thì nguyên nhân ô
nhiễm chính là do các hoạt động giao thông vận tải. Sự gia tăng mạnh các
phương tiện giao thông cơ giới, đặc biệt là lượng xe máy và xe ô tô đã làm
tăng đáng kể về nhu cầu tiêu thụ xăng dầu, vì vậy tình trang ô nhiễm môi
trường không khí càng trở nên trầm trọng.
Theo thống kê năm 2009 của cục Đăng Kiểm Việt Nam và Vụ Khoa học
Công nghệ và Môi trường, Bộ Giao thông vận tải, số lượng phương tiện giao
thông hằng năm tăng đáng kể. Đô thị càng phát triển thì số lượng phương tiện
giao thông vận tải lưu hành trong đô thị càng tăng nhanh (Hình 1.1). Đây là áp
lực rất lớn đối với môi trường không khí đô thị.
Hình 1.1. Số lượng ô tô và xe máy hoạt động hàng năm của Việt Nam
Các phương tiện giao thông sử dụng động cơ đốt trong là một trong
những nguồn phát thải các chất độc hại như CO, hơi xăng dầu (HmCn, VOC), 4
SO2, chì, BTX (Benzen, toluene, xylen) ra môi trường. Hình 1.2 cho thấy tỉ lệ phát thải khí ô nhiễm của các loại phương tiện khác nhau. Xe máy là nguồn đóng góp chính các khí như CO, HmCn, VOCs.
Thực tế nếu hàm lượng các chất độc hại từ khí thải động cơ đốt trong thấp, người sử dụng ít quan tâm tới sự nguy hiểm trước mắt do nó gây ra. Tuy nhiên sự phân tích các dữ liệu về sự thay đổi thành phần không khí trong năm gần đây đã cho thấy sự gia tăng rất đáng ngại của các chất ô nhiễm.
Theo Hội thảo Nhiên liệu và xe cơ giới sạch ở Việt Nam, Bộ Giao thông vận tải và Chương trình môi trường Mỹ Á, 2004. Hình 1.2 cho thấy tỷ lệ phát thải các khí ô nhiễm của các loại phương tiện khác nhau. Xe máy là nguồn đóng góp chính các khí như CO, HmCn và VOCs. Trong khi đó, xe tải lại thải ra nhiều SO2 và NOx.
Hình 1.2. Tỷ lệ phát thải chất gây ô nhiễm do các phương tiện giao thông cơ
giới đường bộ của Việt Nam
Theo chương trình Không khí sạch Việt Nam – Thụy Sỹ, 2007 tại Hà
Nội một số nghiên cứu cho thấy nồng độ BTX cao nhất ở dọc hai bên tuyến
đường giao thông và có giảm đi ở các khu dân cư nằm xa trục đường lớn
(Hình 1.3). Điều này chứng tỏ nguồn gốc của những khí này chủ yếu từ các
phương tiện giao thông.
5
...
- tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn