Xem mẫu
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quyền yêu cầu người khác bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái của
người gây thiệt hại (về tài sản, sức khỏe…..) cho bản thân mình là một
quyền được áp dụng có tần suất lớn nhất trong các quyền về yêu cầu bồi
thường thiệt hại quy định bởi luật dân sự tại xã hội hiện đại. Tại Nhật, số
vụ yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái (bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng (BTTHNHĐ)) chiếm 61% trong tổng số vụ việc tranh chấp
dân sự. Con số này nói lên mức độ quan trọng của quyền yêu cầu bồi thường
thiệt hại do hành vi sai trái trong đời sống dân sự.
Khi nghiên cứu về hệ thống pháp luật Dân sự Việt Nam Ông John
Gillespie giáo sư thỉnh giảng của Trường Đại học Luật Deakin một trong
những trường Đại học Luật danh tiếng của Úc đã nhận định rằng: “Người
dân Việt Nam không biết đến quyền yêu cầu nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch
vụ bồi thường thiệt hại cho mình do hành vi sai trái của nhà sản xuất nói
riêng và quyền yêu cầu người khác bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái
của người đó nói chung”(1).
Ở Việt Nam quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái tuy
đã được luật hóa tại Bộ luật dân sự, tại chương “Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng” (từ Điều 604 đến 630 BLDS năm 2005) và một số
văn bản pháp luật dưới BLDS khác. Tuy nhiên, vấn đề xác định năng lực chủ
thể trong trách nhiệm BTTHNHĐ luôn luôn đặt ra cho các nhà làm luật,
những người thừa hành pháp luật cũng như các nhà nghiên cứu luật pháp
những vấn đề nan giải khi tiếp cận.
.Xuất phát từ đó tôi chọn đề tài: “Năng lực bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam” để làm
khoá luận tốt nghiệp.
1
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
(1) Theo bài: Quyền của cá nhân trong thương mại (dân sự) ở Việt Nam: Phân tích dưới phương pháp so sánh)
đăng trên tạp chí Pháp luật quốc tế Đại học Stanford (Stanford Journal of International Law) số 30 năm 1994 (30 Stan. J
Int’l L. 325) tại các trang 347, 348 và 349
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay trên các diễn đàn nghiên cứu luật pháp ở nước ta đã xuất hiện
khá nhiều các bài viết, các công trình nghiên cứu về Trách nhiệm BTTHNHĐ,
như “những vấn đề cơ bản về trách nhiệm BTTHNHĐ trong Bộ luật dân sự”
của Tiến sỹ Lê Mai Anh… Tuy nhiên, đối với vấn đề về “Năng lực chủ thể
của cá nhân trong BTTHNHĐ” theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam
thì còn khá khiêm tốn trong vấn đề nghiên cứu chuyên sâu và có tính khoa học
thực tiễn.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu quy định về trách nhiệm BTTHNHĐ mà cụ
thể là “năng lực BTTHNHĐ của cá nhân” mà không đi vào nghiên cứu trách
nhiệm bồi thường theo hợp đồng và năng lực BTTHNHĐ của các chủ thể
khác.
Đề tài hướng tới làm rõ các quy định của pháp luật về năng lực bồi
thường thiệt hại của cá nhân trong từng trường hợp cụ thể. Trên cơ sở đó
đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề
này.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Kết hợp giữa quan
điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quá
trình nghiên cứu đề tài tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu
như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp
chứng minh.
5. Kết cấu của khóa luận
2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận gồm hai chương:
Chương 1: Khái quát về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Chương 2: Năng lực bồi thường thiệt hại của cá nhân theo Bộ luật dân
sự Việt Nam 2005
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ NGOÀI HỢP ĐỒNG
1.1.Khái niệm và các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự ngoài hợp
đồng
1.1.1.Khái niệm trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Xã hội luôn luôn là tổng hoà của các mối quan hệ đa dạng và phức tạp
và cần đến sự điều chỉnh của pháp luật. Chính từ sự đa dạng và phức tạp của
các quan hệ xã hội nên yêu cầu pháp luật cũng cần có một cơ chế điều chỉnh
đa dạng và phù hợp, xuất phát từ đây mà nhiều quan hệ pháp luật đã ra đời
trong đó có quan hệ về nghĩa vụ dân sự. Trong quan hệ này khi chủ thể tham
gia không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết kể cả
thực hiện không đúng nghĩa vụ do pháp luật quy định thì phải gánh chịu về
mình những hậu quả bất lợi. Hậu quả bất lợi này thể hiện thông qua việc
giải quyết “trách nhiệm dân sự” giữa người có quyền với người có nghĩa vụ
và được thực hiện theo nguyên tắc bên có hành vi vi phạm và gây ra thiệt hại
sẽ phải bồi thường. Theo T¹p chÝ d©n chñ vµ ph¸p luËt cña Bé T ph¸p,
sè chuyªn ®Ò vÒ Bé luËt d©n sù ViÖt Nam 2005, t¹i phÇn thuËt ng÷ ph¸p luËt d©n sù cã ®a ra kh¸i niÖm vÒ tr¸ch nhiÖm d©n sù nh sau: “Trách nhiệm dân sự (theo nghĩa rộng) là các biện pháp có tính cưỡng chế được áp dụng nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu của một quyền dân sự
3
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
bị vi phạm. Tr¸ch nhiÖm d©n sù (theo nghĩa hẹp) là các biện pháp cưỡng
chế áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật gây ra thiệt hại cho
người khác, người gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm khắc phục những
hậu quả xấu xảy ra bằng tài sản của mình”.[tr. 249]
Các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật phải gánh chịu những
hậu quả bất lợi, họ phải chịu trách nhiệm dân sự là do chính những hành vi
sai trái của mình. Hành vi của các chủ thể có thể là vi phạm hợp đồng (không
thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết) hoặc do
hành vi vi phạm pháp luật. Như vậy, trách nhiệm dân sự có thể chia thành hai
loại đó là trách nhiệm dân sự theo hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp
đồng.
Thực tiễn đời sống hàng ngày của chúng ta xảy ra rất nhiều các thiệt
hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân, tài
sản, danh dự, uy tín của tổ chức. Nguyên nhân dẫn đến những thiệt hại này
rất đa dạng, có thể là do tác động của các yếu tự nhiên bên ngoài, tác động
bởi hoàn cảnh khách quan hay hành vi của con người…trong đó phần lớn là
do các hành vi trái pháp luật của con người mang lại. Trước những hành vi
xâm phạm tới các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức được pháp
luật bảo vệ cho nên nhà nước cần đề ra những biện pháp để ngăn chặn và
khắc phục hậu quả. Điều 71 Hiến pháp 1992 của nước ta ghi nhận: “Công
dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm…”. Thể chế hoá các quy định về vấn
đề này của Hiến pháp BLDS Việt Nam 2005 tại Điều 604 đã quy định:
“Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm
phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt
hại thì phải bồi thường”. Điều này có nghĩa là một người nào đó gây thiệt
4
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn
hại cho người khác thì phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Khi một
người gây thiệt hại cho người khác sẽ làm phát sinh mối quan hệ bồi thường
thiệt hại giữa họ và người bị thiệt hại. Quan hệ bồi thường thiệt hại này phát
sinh từ hành vi trái pháp luật của một bên chủ thể nhưng giữa các bên không
có mối quan hệ hợp đồng hoặc nếu có, thì vi phạm này không phải là vi
phạm nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng, do đó phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Vậy trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng là trách nhiệm phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó không có
quan hệ hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi vi phạm của
người gây thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ chấp hành hợp đồng đã ký kết.
Như vậy, về cơ bản thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng phát sinh không phải từ quan hệ hợp đồng nhưng cũng không thể khẳng
định một cách cứng nhắc rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng chỉ phát sinh không phải từ hợp đồng. Nếu khẳng định như vậy thì sai
lầm, phiến diện và thiếu căn cứ, bởi lẽ ta không thể loại bỏ được khả năng
nghĩa vụ dân sự ngoài hợp đồng phát sinh xuất phát từ quan hệ hợp đồng giữa
các bên chủ thể. Ngoài ra, quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn
xuất hiện trong rất nhiều trường hợp khác nhau. Ví dụ như quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, việc thực hiện công việc không có uỷ quyền,
ngay cả hợp đồng dân sự vô hiệu hay hành vi pháp lý đơn phương cũng có thể
trở thành nguyên nhân của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
và còn rất nhiều các trường hợp khác nữa.
Qua những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh giữa các chủ thể mà trước
đó không có quan hệ hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi
của người gây thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ thi hành hợp đồng đã ký kết
giữa các bên.
5
...
- tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn