Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ----------***---------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG INDOVINA TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Bích Trang Lớp : Anh 1 - KTNT Khóa : K41 Giáo viên hướng dẫn : Ths. Hoàng Xuân Bình HÀ NỘI, 11/2006
  2. Khóa luận tốt nghiệp LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu. Trước tác động của toàn cầu hoá, xu thế nhất thể hoá thị trường tài chính - tiền tệ đang diễn ra nhanh chóng. Việt Nam đang từng bước mở cửa tiến tới hội nhập khu vực và Quốc tế. Trong xu thế đó, Việt Nam đã ký kết không ít các Hiệp định song phương và đa phương liên quan tới hoạt động tài chính - ngân hàng. Đặc biệt Hiệp định thương mại Việt-Mỹ cũng như cam kết chuẩn bị gia nhập tổ chức Thương mại thế giới ( WTO) đã buộc chúng ta phải đổi mới và mở cửa lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Để giành thế chủ động trong tiến trình hội nhập, các ngân hàng thương mại cần đa dạng hóa các hình thức dịch vụ, đa dạng về hình thức, có uy tín với khách hàng, hoạt động có hiệu quả, an toàn, nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng đầu tư đáp ứng nhu cầu Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đối với các Ngân hàng Thương mại thì việc phát triển dịch vụ là một giải pháp cơ bản, hết sức cần thiết bởi nó thúc đẩy quá trình hội nhập, mở rộng cạnh tranh, nâng cao tính chủ động và hiệu quả của ngân hàng. Tuy nhiên, không phải một vài ngân hàng nhận ra và đi theo hướng này, vì thế sức ép cạnh tranh ngày càng tăng lên. Trước tình hình đó, đòi hỏi mỗi một ngân hàng cần tìm cho mình một giải pháp thiết thực, mang tính chiến lược và đem lại hiệu quả cao cho ngân hàng. Do vậy, phát triển dịch vụ luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mỗi Ngân hàng Thương mại hiện nay. Trong quá trình phát triển dịch vụ, vấn đề điều chỉnh cơ cấu dịch vụ của một ngân hàng là điều rất quan trọng. Bên cạnh công tác phát triển và nâng cao chất lượng các dịch vụ ngân hàng truyền thống (dịch vụ tiền gửi, kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh) và các dịch vụ ngân hàng hiện đại (dịch vụ Internet Banking, Mobile Banking, Home Banking) thì việc nâng dần tỷ trọng thu phí - hay các khoản thu phi lãi là xu thế tất yếu của mô hình Ngân hàng Nguyễn Thị Bích Trang 1 Lớp: A1-K41A-KTNT.
  3. Khóa luận tốt nghiệp Thương mại hiện nay. Với các NHTM trên thế giới thì phát triển dịch vụ ngân hàng đã có từ lâu nhưng ở Việt Nam thì đây là vấn đề hết sức mới mẻ. Phát triển dịch vụ ngân hàng là một xu thế tất yếu chỉ có phát triển dịch vụ mới có thể thoả mãn tốt nhu cầu đa dạng và phong phú của khách hàng, bởi khách hàng là điều kiện sống còn của một ngân hàng. Trước yêu cầu bức thiết đó, em đã lựa chọn đề tài “Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng nhằm góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng Indovina trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” là vấn đề nghiên cứu của khoá luận này. 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận. Khoá luận tập trung nghiên cứu vào một số nội dung cơ bản sau:  Nghiên cứu về NHTM và vai trò quan trọng của nó trong nền kinh tế thị trường.  Nghiên cứu đặc điểm của các loại sản phẩm dịch vụ, từ đó thấy được sự khác biệt so với các sản phẩm hàng hoá thông thường khác và ngân hàng cần phải có các biện pháp để tạo ra các sản phẩm dịch vụ mới.  Xác định mục đích của việc phát triển dịch vụ ngân hàng từ đó đưa ra một số điều kiện cần thiết để các ngân hàng phát triển hoạt động dịch vụ theo xu hướng hội nhập  Nghiên cứu sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng Indovina hiện nay ra sao, liệu có khả năng cạnh tranh hay mức đáp ứng nhu cầu khách hàng so với các Ngân hàng Thương mại khác. Qua đó tìm ra những biện pháp thích hợp nhằm tạo đà phát triển cho Ngân hàng Indovina tiến vào hội nhập kinh tế một cách vững mạnh. 3. Phƣơng pháp nghiên cứu. Để giải quyết vấn đề đạt ra, theo truyền thống khoá luận sử dụng tổng hợp phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp chặt chẽ việc Nguyễn Thị Bích Trang 2 Lớp: A1-K41A-KTNT.
  4. Khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu lý luận, khái niệm của các nước và thực tiễn vận dụng vào Việt Nam. Kết hợp sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp phân tích kinh tế để vận dụng vào phân tích các chỉ tiêu trong khoá luận. Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp khảo sát thực tiễn tại một số NHTM khác để đúc kết kinh nghiệm và đề ra giải pháp, kiến nghị. 4. Những đóng góp của khoá luận. Phân tích, hệ thống hoá những khái niệm, những nguyên lý mô hình về các sản phẩm dịch vụ của NHTM trong nền kinh thị trường. Thu thập, phân tích và đánh giá thực trạng của việc phát triển dịch vụ của ngân hàng Indovina trong thời gian qua. Đề xuất một số giải pháp cơ bản và kiến nghị nhằm hoàn thiện các giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng một cách có hiệu quả. 5. Bố cục của khoá luận. Ngoài phần mở đầu của khoá luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận được trình bày thành 3 chương: Chương 1: Phát triển dịch ngân hàng- xu hướng tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chương 2: Thực trạng hoạt động dịch vụ của Ngân hàng Indovina. Chương 3: Một số giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng nhằm góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng Indovina trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, mặc dù đã có nhiều cố gắng song do còn thiếu kinh nghiệm cũng như tầm hiểu biết thực tế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong thầy cô chỉ bảo tận tình để khoá luận được hoàn thiện hơn. Em xin gửi lời biết ơn chân thành tới thầy giáo - Th.s Hoàng Xuân Bình người đã tận tình chỉ bảo em trong suốt quá trình làm khoá luận này, cùng với Ban lãnh đạo và anh chị phòng thanh toán quốc tế của Ngân hàng Nguyễn Thị Bích Trang 3 Lớp: A1-K41A-KTNT.
  5. Khóa luận tốt nghiệp Indovina đã nhiệt tình giúp đỡ em trong suốt thời gian thực tập tại Ngân hàng để em hoàn thành bài khoá luận này. Nguyễn Thị Bích Trang 4 Lớp: A1-K41A-KTNT.
  6. Khóa luận tốt nghiệp CHƢƠNG I: PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG - XU HƢỚNG TẤT YẾU TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ. I. Khái quát về Ngân hàng thƣơng mại: 1. Bản chất của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường: Ngân hàng Thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Như vậy, ngân hàng là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ trong đó có hai nghiệp vụ cơ bản là: Nhận ký thác của các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan Nhà nước và sử dụng các khoản ký thác đó để cho vay chiết khấu. NHTM là một tổ chức trung gian tài chính có vị trí quan trọng nhất. Tổng số tài sản nợ của Ngân hàng bao giờ cũng lớn hơn tổng số tài sản nợ của các ngân hàng khác và của các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Hoạt động của các NHTM mang tính chất tổng hợp, ngoài ra còn là thành viên chủ yếu tham gia thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán. 2. Chức năng của ngân hàng thương mại: Thứ nhất, chức năng trung gian tín dụng. Với chức năng này, NHTM đã khắc phục được những hạn chế trong mối quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi và chủ thể có nhu cầu tiền tệ cần bổ xung trong thời gian ngắn. Thông qua khoản vốn ngân hàng hình thành thêm quỹ rồi đem cho vay đối với nền kinh tế mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Như vậy, ngân hàng vừa đóng vai trò là người cho vay và là người đi vay. Lý do các ngân hàng thực hiện chức năng này là vì nó là cơ quan chuyên trách kinh doanh tiền tệ, tín dụng có khả năng nhận biết được tình Nguyễn Thị Bích Trang 5 Lớp: A1-K41A-KTNT.
  7. Khóa luận tốt nghiệp hình cung cầu về tín dụng là nơi khách hàng có thể gửi tiền. Ngân hàng có thể tạo lợi ích cho tất cả các bên trong quan hệ với người gửi tiền, mà vẫn đảm bảo lợi ích của nền kinh tế. Đây là chức năng quan trọng nhất vì nó phản ánh bản chất của NHTM đó là “vay để cho vay”, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của NHTM, đồng thời là cơ sở để thực hiện những chức năng tiếp theo. Thứ hai, chức năng trung gian thanh toán. Thực hiện chức năng trung gian thanh toán, NHTM đóng vai trò là người thủ quỹ của các doanh nghiệp, thực hiện các yêu cầu của khách hàng như: Trích tài khoản từ tiền gửi của khách hàng hay nhập tiền vào tài khoản của khách hàng, thanh toán hộ cho khách hàng. Ngân hàng mở hộ cho khách hàng và theo dõi thu chi. Đó là tiền khách hàng thực hiện qua ngân hàng, đặt vào vị trí tiền gửi thanh toán đồng thời giảm thiểu rủi ro và chi phí trong việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt của các chủ thể kinh tế. Chức năng trung gian thanh toán của NHTM có mối quan hệ hữu cơ với chức năng trung gian tín dụng. Bởi vì, ngân hàng sẽ sử dụng số tiền gửi của khách hàng này để cho khách hàng khác vay với mục đích trả nợ, thanh toán. Với việc gửi tiền vào ngân hàng hay ngân hàng chi trả hộ khách hàng đã giảm thiểu tới mức tối đa những rủi ro, bất tiện và đặc biệt là chi phí lưu thông tiền mặt và những chi phí liên quan tới người trả và người nhận tiền. Khi nền kinh tế càng phát triển, càng bộc lộ rõ vai trò quan trọng của nó, làm cơ sở cho các chức năng tiếp theo, và là cơ sở cho chức năng “tạo tiền”. Thứ ba, chức năng tạo tiền của NHTM. Chức năng tạo tiền là một trong những chức năng cơ bản của NHTM, sự ra đời của nó đã tạo ra sự phát triển về chất trong kinh doanh tiền tệ. Trước đây, các tổ chức kinh doanh tiền tệ chỉ nhận gửi tiền (vàng, bạc) và cho vay bằng chính đồng tiền đó. Ngày nay, chức năng này không hoàn toàn như vậy nữa. Khi phân chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp, trong đó Ngân hàng Trung Ương - ngân hàng cấp 1- là ngân hàng phát hành, quản lý lưu thông Nguyễn Thị Bích Trang 6 Lớp: A1-K41A-KTNT.
  8. Khóa luận tốt nghiệp tiền tệ, còn các NHTM- ngân hàng cấp 2- chuyên kinh doanh tiền tệ. Cơ sở quá trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán. Thực chất của quá trình này là NHTM đã “biến” một khối lượng tiền gửi ghi sổ thể hiện trên tài khoản thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thành một khoản tiền lớn hơn nhiều lần khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng, thanh toán qua nhiều ngân hàng khác. Quá trình này được miêu tả như sau: Ngân hàng sử dụng số tiền từ việc huy động, sau đó đem cho khách hàng vay, số tiền cho vay lại được khách hàng sử dụng để thanh toán trong khi đó số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận tiền giao dịch. Khi ngân hàng nhận tiền gửi chưa cho vay, thì lúc đó ngân hàng chưa tạo ra tiền, hay nói cách khác là nó chỉ tạo ra tiền khi cho vay trong nền kinh tế, chính việc này đã tạo ra tiền gửi thanh toán. Tuy vậy, để tạo ra tiền gửi thanh toán, NHTM phải làm được chức năng trung gian thanh toán, mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng thì số tiền trên tài khoản mới là một bộ phận của tiền giao dịch. Với chức năng này, ngân hàng đã làm tăng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu chi trả, chi trả cho xã hội. Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng tạo ra làm tăng khả năng tạo tiền và từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng. Thứ tƣ, chức năng cung ứng dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác. Ngoài chức năng trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền, NHTM còn có thể làm tư vấn về tài chính và đầu tư cho các Doanh nghiệp, bảo lảnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Ngân hàng có thể tư vấn cho doanh nghiệp chọn loại chứng khoán để phát hành, về lãi suất chứng khoán, thời hạn chứng khoán. Ngoài ra, ngân hàng còn cung cấp dịch vụ lưu giữ và quản lý chứng khoán, mua bán chứng khoán cho các khách hàng. Với điều kiện và khả năng của mình, ngân hàng còn có thể cung cấp Nguyễn Thị Bích Trang 7 Lớp: A1-K41A-KTNT.
  9. Khóa luận tốt nghiệp cho khách hàng các dịch vụ khác như dịch vụ bảo quản tài sản có giá trị, dịch vụ tín thác, dịch vụ cho thuê két sắt. 3. Vai trò của Ngân hàng thương mại: Như chúng ta đã biết vai trò của NHTM được thể hiện rõ nét ngay ở chức năng của nó. Xuất phát từ chức năng trung gian tín dụng, qua nghiệp vụ huy động vốn, ngân hàng đã tập hợp khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân và cung ứng nguồn vốn đó cho nền kinh tế nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế, góp phần lưu thông hàng hoá tiền tệ, cũng như đẩy mạnh tiêu dùng cá nhân. Các ngân hàng đã huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn bộ nền kinh tế vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nếu không có ngân hàng trung gian thì việc huy động mọi của cải xã hội vào quá trình sản xuất kinh doanh sẽ chậm đi rất nhiều. Có thể nói nó là “chất dầu bôi trơn” cho bộ máy kinh tế hoạt động. ới chức năng thanh toán, ngân hàng đã thực hiện dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế, từ đó thúc đẩy luân chuyển hàng hoá, luân chuyển vốn trong xã hội. Đồng thời, thực hiện giám sát toàn bộ nền kinh tế, góp phần tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, tạo sự ổn định trong đời sống kinh tế xã hội. Ngân hàng là bộ mặt của xã hội, do đó không thể kể đến vai trò quan trọng đó là ngân hàng đã thu hút một lượng vốn đầu tư lớn cho nền kinh tế, mở rộng đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo mọi điều kiện tốt nhất giúp đỡ các doanh nghiệp thực hiện chiến lược kinh doanh. Bên cạnh đó, ngân hàng còn thực hiện việc cung cấp các dịch vụ cần thiết khác như: Tư vấn đầu tư, thuê mua tài chính, bảo lãnh, giúp đỡ khách hàng kiểm tra số dư tài khoản của mình. Như chúng ta đã biết, NHTM tham gia vào quá trình cung ứng tiền tệ vì thế mà nó là công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW. Thật vậy, để thực thi được chính sách tiền tệ, NHTW phải sử dụng các công cụ để điều Nguyễn Thị Bích Trang 8 Lớp: A1-K41A-KTNT.
  10. Khóa luận tốt nghiệp tiết lượng tiền cung ứng trong lưu thông để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô, đặc biệt là mục tiêu ổn định tiền tệ. Phần lớn các công cụ của chính sách tiền tệ chỉ được thực thi có hiệu quả khi có các NHTM và các trung gian tài chính tham gia đầy đủ theo quy định của NHTW (về tỉ lệ dự trữ bắt buộc, quy chế thanh toán không dùng tiền mặt). Việt Nam cùng với sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đã thay đổi mạnh mẽ cả về cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động, hoạt động hiệu quả hơn rất nhiều. Như vậy, sự ra đời của NHTM là xu hướng tất yếu khách quan, có ý nghĩa cực kỳ to lớn trong nền kinh tế hàng hoá thị trường: Góp phần giảm chi phí lưu thông, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đặc biệt trong mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế. II. Dịch vụ ngân hàng: 1. Các loại dịch vụ ngân hàng: Đối với nền kinh tế, bản thân hoạt động của ngân hàng là một loại dịch vụ. Tuy nhiên, đối với từng ngân hàng người ta phân biệt thành 2 nội dung chính như sau. - Kinh doanh tiền tệ. - Dịch vụ ngân hàng. Trong giới hạn của bài viết, tôi xin đề cập đến mảng dịch vụ ngân hàng để chúng ta thấy được tầm quan trọng của dịch vụ ngân hàng với cơ chế thị trường như hiện nay. Trước tiên chúng ta hãy xem dịch vụ ngân hàng ở các nước phát triển trên thế giới bao gồm những loại dịch vụ gì. Nói tới hoạt động kinh doanh của các ngân hàng của những nước phát triển chúng ta không thể phủ nhận một điều là hoạt động dịch vụ của họ phát triển rất mạnh mẽ (theo con số thống kê tỷ lệ thu từ dịch vụ chiếm khoảng trên 30% tổng thu nhập của ngân hàng đó). Hoạt động dịch vụ có rất nhiều loại, nhiều sản phẩm nhưng chúng ta phân chia chúng ra thành những nhóm chủ yếu sau đây. Nguyễn Thị Bích Trang 9 Lớp: A1-K41A-KTNT.
  11. Khóa luận tốt nghiệp Nhóm thứ nhất là nhóm dịch vụ gắn liền với kinh doanh tiền tệ.  Nhận uỷ thác và làm đại lý hoặc uỷ thác và đặt đại lý. Chẳng hạn, đại lý phát hành trái phiếu và cổ phiếu và các giấy tờ có giá khác cho doanh nghiệp.  Chiết khấu hoặc tái chiết khấu các giấy tờ có giá khác, hoặc cầm cố các thương phiếu.  Kinh doanh ngoại hối.  Cung ứng dịch vụ bao thanh toán (factoring). Đây là một hình thức chiết khấu chứng từ, nhằm tài trợ tín dụng cho doanh nghiệp qua việc mua lại các hoá đơn ghi các khoản nợ phải thu của các doanh nghiệp, xuất phát từ việc bán hàng trả chậm, quản lý sổ sách kế toán cho doanh nghiệp.  Dịch vụ kiều hối, kinh doanh vàng bạc.  Tài trợ mua trả góp.  Thuê mua tài chính.  Mua bán chứng khoán cho mình và cho bên thứ 3, nghĩa là mua bán công cụ nợ (kinh doanh và mua bán chứng khoán).  Tài trợ tiêu dùng (mua ô tô, mua cổ phần và trái phiếu).  Bảo lãnh cho bên thứ 3.  Dịch vụ tư vấn đầu tư.  Giao dịch nhà đất và bất động sản.  Tiết kiệm gắn với bảo hiểm (an sinh, giáo dục, ôtô, nhà đất, tiêu dùng). Nhóm thứ hai là nhóm dịch vụ gắn với thanh toán.  Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt với nhiều nội dung :  Chuyển tiền điện tử.  Qua máy gửi và rút tiền tự động (ATM) trên cơ sở phát hành thẻ và sử dụng thẻ thanh toán hoặc thẻ tín dụng (gồm thẻ nội địa và thẻ thanh toán quốc tế như: Visa card, Mastercard).  Tham gia mạng thanh toán quốc tế (SWIFT). Nguyễn Thị Bích Trang 10 Lớp: A1-K41A-KTNT.
  12. Khóa luận tốt nghiệp  Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ từng ngân hàng.  Tham gia hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (ở nước ta hiện nay có khoảng 6 đơn vị tham gia) nhờ đó :  Có thể chuyển từ hệ thống bán lẻ sang hệ thống thanh liên ngân hàng.  Có thể chuyển từ tiết kiệm không kỳ hạn qua tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm đầu tư có lãi suất cao.  Khách hàng có thể trả tiền cho nhiều loại hình như: Trả lương, tiền hưu trí, tiền điện, tiền nước, trả gốc và lãi tiền vay.  Có thể giao dịch thanh toán tức thì, không qua trung gian thanh toán nào. Qua hệ thống giao dịch tự động, khách hàng có thể giao dịch 24/24h tại máy ATM trong cả nước.  Từ tài khoản tiền gửi cá nhân, có thể rút tiền mặt qua thẻ tín dụng nội địa hoặc quốc tế, thẻ ghi nợ quốc tế.  Nhờ hệ thống giao dịch tự động này, khách hàng có thể mở tài khoản một nơi nhưng có thể rút ở nhiều nơi, thậm chí khách hàng có thể giao dịch ở nhà mà không phải đến ngân hàng.  Dịch vụ lưu ký và thanh toán chứng khoán cho các bên giao dịch ở SGD chứng khoán. Nhóm thứ ba là nhóm dịch vụ ngân quỹ.  Dịch vụ đếm kiểm, thu nộp và cung ứng tiền mặt cho đối tác có tài khoản.  Dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá.  Cho thuê tủ két sắt, cầm đồ.  Các loại dịch vụ ngân quỹ khác. Dịch vụ Ngân hàng Việt Nam hiện nay phát triển ra sao so với các ngân hàng trong khu vực, từ đó chúng ta có thể đánh giá chính xác được thực trạng này ở nước ta hiện nay như thế nào. Theo luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi năm 2003) nước ta cho phép Nguyễn Thị Bích Trang 11 Lớp: A1-K41A-KTNT.
  13. Khóa luận tốt nghiệp các ngân hàng được thực hiện các loại dịch vụ chủ yếu sau đây : 1. Tham gia vào thị trường tiền tệ.  Thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc.  Thị trường nội tệ, ngoại tệ liên ngân hàng.  Thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn khác. 2. Tham gia hệ thống thanh toán.  Thanh toán nội bộ từng ngân hàng.  Thanh toán liên Ngân hàng trong nước.  Thanh toán quốc tế. 3. Làm dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế trong đó có :  Cung ứng phương tiện thanh toán.  Dịch vụ thu hộ, chi hộ. 4. Dịch vụ ngân quỹ.  Thu nộp và cung ứng dịch vụ cho khách hàng. 5. Kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và quốc tế 6. Uỷ thác, nhận uỷ thác ; làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng. 7. Kinh doanh và làm dịch vụ bảo hiểm qua Công ty độc lập.  Kinh doanh bảo hiểm.  Cung ứng các dịch vụ bảo hiểm. 8. Dịch vụ tư vấn về tài chính cho khách hàng. 9. Các loại dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân.  Bảo quản vật quý, giấy tờ có giá.  Cho thuê tủ sắt, két sắt. Ngoài ra còn có các dịch vụ thông tin tư vấn, dịch vụ thẩm định kỹ thuật. 2. Đặc điểm của dịch vụ ngân hàng: Thứ nhất, dịch vụ ngân hàng mang tính vô hình: Do dịch vụ của Nguyễn Thị Bích Trang 12 Lớp: A1-K41A-KTNT.
  14. Khóa luận tốt nghiệp ngân hàng không tồn tại dưới dạng vật chất vì vậy khách hàng khi mua dịch vụ không thể sờ nắm được vật mà mình mua. Để tăng lòng tin tưởng của khách hàng khi sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thì ngân hàng cần rất nhiều biện pháp tác động tới khách hàng, từ đó để họ tin rằng họ sẽ thu được nhiều lợi ích khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Do đó hoạt động marketing là rất quan trọng, hoạt động này coi như là hoạt động chính của ngân hàng, tác động chính vào khách hàng, đi sâu vào tâm lý của khách hàng, hướng tới khách hàng và coi đây là hoạt động chủ yếu của ngân hàng. Thứ hai, tính không thể tách rời. Trên thực tế, Quá trình cung ứng dịch vụ Ngân hàng luôn luôn cùng diễn ra đồng thời với quá trình tiêu dùng của khách hàng, họ cũng có mặt khi dịch vụ được thực hiện nên sự tác động qua lại giữa người cung ứng dịch vụ và khách hàng là một tính chất đặc biệt của marketing dịch vụ. Cả nhân viên ngân hàng và khách hàng đều tác động ảnh hưởng tới kết quả dịch vụ. Trong khi đó, xuất phát từ tính chất phức tạp của dịch vụ, các giải pháp marketing không chỉ hướng riêng vào nhân viên ngân hàng mà còn phải nhanh gọn, chính xác với thái độ thiện cảm với khách hàng. Bên cạnh đó còn phải phối hợp chặt chẽ với khách hàng hoàn tất quá trình cung ứng dịch vụ. Thứ ba, tính không ổn định về chất lƣợng: Dịch vụ Ngân hàng phụ thuộc phần lớn vào nhân tố con người mà con người là nhân tố không ổn định vì vậy chất lượng dịch vụ không ổn định. Giải pháp điều này là phải hướng tới đào tạo nhân viên ngân hàng làm việc có bài bản nhưng không mất đi tính năng động vốn có của con người. Thứ tƣ, dịch vụ Ngân hàng không có tính lƣu trữ đƣợc. Thật vậy dịch vụ ngân hàng không thể sản xuất rồi lưu kho như các sản phẩm thông thường khác, vì vậy hoạt động ngân hàng cần hướng vào việc điều chỉnh nhịp độ cung ứng theo kịp nhịp độ mua bán, rút ngắn quá trình xử lý nghiệp vụ, tăng cường nhân viên cung ứng tại giờ cao điểm. Nguyễn Thị Bích Trang 13 Lớp: A1-K41A-KTNT.
  15. Khóa luận tốt nghiệp 3. Mục đích của việc phát triển dịch vụ ngân hàng: Tại sao lại cần phải xác định mục đích? Để tạo ra vị thế cạnh tranh trên thị trường lẽ tất nhiên là chúng ta cần tạo cho ngân hàng mình một điểm riêng, một ưu thế riêng, một đoạn thị trường nào mà ở đó ngân hàng của mình có ưu việt hơn đối thủ cạnh tranh hoặc chúng ta cần phải biết “từ bỏ” khỏi thị trường đó nếu như đối thủ cạnh tranh có thể mạnh hơn hẳn mình. Đây cũng là một chiến lược trong cạnh tranh mà chúng ta cần phải xác định rõ mục đích. Để nâng cao khả năng cạnh tranh thì phát triển dịch vụ là điều rất quan trọng bởi chỉ có ngân hàng có nhiều tiện ích thì mới thoả mãn tối đa nhu cầu. Do vậy chỉ có những ngân hàng nào có thế mạnh thì mới đứng vững trên thị trường. Việc phát triển dịch vụ nhằm mục đích phát triển một lượng lớn tài chính, doanh thu tăng lên. Theo lý thuyết, đầu tư càng lớn, vốn càng lớn, càng dễ thu nhiều lợi nhuận. Bên cạnh đó, xác định mục đích phát triển dịch vụ chúng ta tạo nên hoạt động của các ngân hàng trở lên sôi động hơn, tạo nên một môi trường kinh doanh phát triển ở trình độ cao, “cạnh tranh ở mức độ cao sẽ tạo ra động lực để mỗi người tự hoàn thiện và phát triển bản thân”. Tiếp đến, hiện nay thị trường của chúng ta đang rất lộn xộn, các cơ quan chức năng rất khó kiểm soát, chưa hình thành một thị trường cạnh tranh, chưa hình thành văn minh thương mại. Đó là một điều rất bất lợi cho tiêu dùng: đó là hiện tượng hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng,... Đồng thời khách hàng cũng chưa được cung ứng dịch vụ tốt nhất. Từ bất cập trên, việc phát triển dịch vụ cần phải làm tốt công tác khách hàng, lấy khách hàng là “cuộc sống” của Ngân hàng. Từ đó mới có thể cung cấp dịch vụ tốt nhất đối với khách hàng. Một mục đích quan trọng nữa không thể không kể đến đó là việc đóng góp của các ngân hàng làm tăng tiềm lực tài chính của quốc gia cho nền kinh tế như thông qua nghĩa vụ đóng góp với ngân sách Nhà nước, trích lập các quỹ tương trợ cho xã hội. Nguyễn Thị Bích Trang 14 Lớp: A1-K41A-KTNT.
  16. Khóa luận tốt nghiệp Đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng bằng việc áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện đại sẽ tiết kiệm chi phí trên một sản phẩm và các sản phẩm đơn lẻ sẽ được liên kết thành “dịch vụ ngân hàng” thắt chặt quan hệ lợi ích giữa khách hàng và ngân hàng. Ví dụ: chỉ với dịch vụ giao dịch địa ốc ngân hàng có thể cung cấp cho khách hàng các dịch vụ: dịch vụ tư vấn thủ tục, thanh toán qua ngân hàng, sẵn sàng cho khách hàng vay nếu họ có nhu cầu, ngăn ngừa rủi ro trong quá trình mua nhà ... và nhiều tiện ích khác nữa. 4. Ý nghĩa của việc phát triển dịch vụ ngân hàng: Như chúng ta đã biết, dịch vụ Ngân hàng là một tín hiệu cho thấy trình độ phát triển của một quốc gia. Do vậy nó có ý nghĩa cực kỳ to lớn không những có những đóng góp cho xã hội mà còn lợi ích của một nền kinh tế. Chúng ta hãy tách lợi ích của nó đem lại ra cho từng đối tượng để thấy được tầm quan trọng của nó : Thứ nhất, đối với nền kinh tế và khách hàng. Thông qua hoạt động dịch vụ tài chính ngân hàng thực hiện quá trình chu chuyển tiền tệ cho nền kinh tế, khai thác và sử dụng các nguồn vốn chu chuyển tiền tệ cho nền kinh tế, làm luân chuyển tiền tệ trong không gian và thời gian để sinh lời. Từ đó, các khối tiền bất động trở thành sống động hơn di chuyển từ nơi này sang nơi khác, từ khách hàng này sang khách hàng khác để phục vụ sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế xã hội, kích thích và thúc đẩy sản xuất phát triển thông qua các dịch vụ đầu tư , dịch vụ ngoại hối, dịch vụ thuê mua tài chính góp phần thực hiện công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, thực hiện chuyển giao công nghệ, kích thích sản xuất kinh doanh nhập khẩu phát triển kinh tế đất nước. Hoạt động dịch vụ tài chính ngân hàng đã tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành trôi chảy nhịp nhàng thúc đẩy đồng vốn luân chuyển nhanh chóng góp phần đẩy nhanh tốc độ sản xuất, luân chuyển hàng hoá. Dịch vụ tài chính của ngân hàng góp phần tích cực trong việc mang Nguyễn Thị Bích Trang 15 Lớp: A1-K41A-KTNT.
  17. Khóa luận tốt nghiệp lại nhiều lợi ích chung cho nền kinh tế, cho khách hàng và cho ngân hàng thông qua việc giảm chi phí nhờ sự tiện ích và sự chuyên môn hóa của từng dịch vụ: giảm chi phí kiểm đếm, bảo quản, vận chuyển tiền, cũng như tiết kiệm nhân lực để thực hiện; chi phí dịch vụ thấp so với giá trị tài sản hoặc thấp trong trường hợp phải đầu tư phương tiện phải bảo quản tại nhà, khi thực hiện quản lý hộ, giữ hộ. Thông qua đó khách hàng có cơ hội lựa chọn sản phẩm dịch vụ có lợi nhất, hiệu quả nhất. Thứ hai, đối với các Ngân hàng. Hoạt động dịch vụ tài chính của ngân hàng, đem lại cho ngân hàng một khoản thu nhập lớn từ phí dịch vụ, hoa hồng. Phát triển dịch vụ Ngân hàng đa dạng hoá tiện ích theo hướng cải tiến công tác thanh toán, đơn giản hoá thủ tục, mở rộng mạng lưới hoạt động. Bên cạnh đó, Ngân hàng có thể phát triển những dịch vụ hỗ trợ như: dịch vụ trả lương, dịch vụ chuyển tiền mặt giao tận tay cho người nhận sẽ thu hút được nhiều khách hàng thanh toán qua ngân hàng từ đó làm tăng trưởng nguồn thu dịch vụ của Ngân hàng. Tận dụng được nguồn vốn trong thanh toán của khách hàng đang lưu ký trên các tài khoản tiền gửi séc bảo chi, séc chuyển tiền cầm tay trong thời gian tờ séc chưa quay trở về ngân hàng. Những tài khoản dùng để đảm bảo thanh toán này, ngân hàng không phải trả lãi như đối với các loại tài khoản tiền gửi khác. Sự phát triển dịch vụ ngân hàng trong lĩnh vực tài chính Công ty đặc biệt là cung ứng dịch vụ tư vấn và phân tích tài chính phục vụ hoạt động của ngân hàng, đã mở ra khả năng to lớn để tăng lợi nhuận cho các tổ chức ngân hàng cũng như khả năng mở rộng thêm đội ngũ khách hàng. Từ đó các ngân hàng có thể chuyển các rủi ro của người đi vay từ bảng cân đối của các ngân hàng sang các tổ chức đầu tư, tăng vốn tư bản và thực thi chiến lược phát triển của các Công ty. Đối với các ngân hàng, việc cung ứng các dịch vụ trong lĩnh vực tài chính Công ty không chỉ mang lại khoản lợi nhuận khổng lồ mà còn tạo ra Nguyễn Thị Bích Trang 16 Lớp: A1-K41A-KTNT.
  18. Khóa luận tốt nghiệp cho họ những lợi thế rất quan trọng để đảm bảo nâng cao hiệu quả và độ an toàn cho hoạt động ngân hàng như: Duy trì và tăng cường tính trung thực của khách hàng đối ngân hàng, có điều kiện nghiên cứu kỹ các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của khách hàng, thu hút thêm được khách hàng mới, thiết lập được cơ sở dữ liệu thông tin tin cậy của riêng mình về khách hàng lớn nâng cao chất lượng dịch vụ tư vấn đầu tư và trình độ của cán bộ nhân viên ngân hàng. Thực ra, bất cứ một ngân hàng nào hoạt động chân chính đều phải thực hiện đầy đủ ba nghĩa vụ sau: Trước hết, đối với chính bản thân ngân hàng đó là nghĩa vụ kinh doanh làm sao cho đạt lợi nhuận tối đa. Nói gì thì nói, lợi nhuận cũng chính là nhiệm vụ sống còn của ngân hàng bởi ngân hàng bắt buộc phải tồn tại và phát triển. Từ đó mới có tiềm lực và điều kiện để thực hiện các nhiệm vụ đối với xã hội. Tiếp theo, là phải làm nhiệm vụ đối với thị trường, thể hiện ở việc làm tròn bổn phận đối với khách hàng. Ngay từ đầu, phải xác định mục tiêu phục vụ khách hàng là mục tiêu cao nhất, phải cung cấp cho khách hàng những dịch vụ hoàn hảo nhất. Luôn coi khách hàng là cuộc sống của ngân hàng. Tránh kiểu làm ăn “lừa đảo khách hàng” sau đó chuyển sang khách hàng khác. Ngân hàng phải nghĩ tới làm ăn lâu dài điều đó có nghĩa là lấy khách hàng làm đầu, củng cố và giữ chữ tín để chuẩn bị cho những bước cao hơn. Cuối cùng, thể hiện trách nhiệm đối với xã hội, trách nhiệm này thể hiện ở một số mặt chủ yếu sau:  Trách nhiệm phải tạo thêm việc làm cho xã hội. Tất nhiên không phải nói ai cũng hiểu tầm quan trọng của việc làm trong việc hạn chế các tệ nạn xã hội, tận dụng và phát huy tối đa nguồn lực.  Trách nhiệm bảo vệ môi trường việc này thể hiện ở chỗ việc lựa chọn công nghệ phù hợp, tuân theo các tiêu chuẩn kinh doanh do NHTW đề ra.  Trách nhiệm đóng góp vào ngân sách quốc gia “ thuế là nguồn thu chủ yếu Nguyễn Thị Bích Trang 17 Lớp: A1-K41A-KTNT.
  19. Khóa luận tốt nghiệp của ngân sách Nhà nước”  Ngoài ra, trong điều kiện cụ thể mà ngân hàng có thể tham gia đóng góp tài chính cho trong việc ủng hộ các vấn đề xã hội như bão lụt. III. Hoạt động ngân hàng trong điều kiện hội nhập KTQT: 1. Tính tất yếu phải hội nhập KTQT trong lĩnh vực ngân hàng: Hội nhập KTQT của một nền kinh tế là mức độ mở cửa về hoạt động kinh tế giữa nền kinh tế đó và các nước trong khu vực và trên toàn thế giới. Mức độ mở cửa hội nhập về hoạt động ngân hàng là mức độ giao dịch về các nghiệp vụ tín dụng, tiền tệ thanh toán của một nền kinh tế với thế giới bên ngoài. Độ mở cửa này có thể được đo bằng mức độ tự do hoá khu vực tiền tệ tín dụng ngân hàng. Bản chất của hội nhập KTQT về ngân hàng là giao lưu về hoạt động của hệ thống ngân hàng trong nước với cộng đồng tài chính khu vực và quốc tế, là sự dỡ bỏ các rào cản ngăn cách, tạo nên sự tự do hoá các hoạt động dịch vụ ngân hàng giữa trong nước và thế giới. Như vậy có thể nói hội nhập KTQT trong lĩnh vực tài chính tiền tệ nói chung và ngành ngân hàng nói riêng là một xu thế tất yếu. Nhận thức được vấn đề này, trong những năm gần đây, nhiều quốc gia trên thế giới đã tiến hành những bước đi quan trọng nhằm mục đích tự do hoá thị trường tài chính và thực tế đã cho thấy hội nhập KTQT về ngân hàng đã mang lại rất nhiều lợi ích kinh tế cho mỗi quốc gia và toàn cầu. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hệ thống tài chính - ngân hàng cạnh tranh và mở cửa là những hệ thống hỗ trợ hiệu quả cho phát triển và tăng trưởng kinh tế. Cạnh tranh sẽ làm cho hệ thống ngân hàng vững mạnh, hiệu quả và lành mạnh hơn. Do vậy các nước đang phát triển nói chung muốn hội nhập quốc tế, phát triển và cải cách hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao khả năng thu hút và phân bổ các nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh tế có thể tiếp cận các dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao hơn Nguyễn Thị Bích Trang 18 Lớp: A1-K41A-KTNT.
  20. Khóa luận tốt nghiệp nhưng với chi phí thấp hơn. Về mặt chính sách nhằm khuyến khích hội nhập kinh tế quốc tế, chính phủ thường thực hiện mở cửa tiếp cận thị trường, đối xử quốc gia, xây dựng môi trường chính sách trong nước hỗ trợ cho cạnh tranh, từng bước cho phép các ngân hàng nước ngoài cạnh tranh trong một sân chơi công bằng và tạo thuận lợi cho các tổ chức tín dụng trong nước thâm nhập thị trường quốc tế. Bên cạnh đó chính phủ các nước cũng áp dụng các tiêu chuẩn, thông lệ tốt nhất của quốc tế liên quan đến hoạt động ngân hàng làm cho thương mại và luân chuyển vốn quốc tế tự do hơn. Mức độ hội nhập quốc tế đạt được trên thực tế tùy thuộc vào sự phản hồi của các ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng trong nước đối với các cơ hội do sự thay đối chính sách tạo ra. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng được thể hiện qua: mức độ sở hữu nước ngoài trong các ngân hàng trong nước; thị phần dịch vụ ngân hàng của các ngân hàng nước ngoài... Ngành ngân hàng đóng vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, hoạt động ngân hàng có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động của các ngành khác trong nền kinh tế. Chính vì vậy trong tiến trình hội nhập KTQT lĩnh vực ngân hàng luôn là lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu. Tính tất yếu phải hội nhập của ngành ngân hàng được thể hiện như sau: Thứ nhât, khi hoạt động trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các nước không ngừng được mở rộng đã làm phát sinh các khoản thu chi bằng tiền mặt giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu. Tuy nhiên nếu họ thanh toán trực tiếp với nhau thì rất tốn thời gian và tiền của do vậy các ngân hàng đã xuất hiện với vai trò làm trung gian thanh toán. Điều này làm cho hoạt động thanh toán giữa người mua và người bán trở nên thuận lợi hơn rất nhiều. Thứ hai, trong nền kinh tế có những lúc vào một thời điểm nơi này thừa vốn và nơi khác thiếu vốn nhất là khi hội nhập. Khi đó ngân hàng đã Nguyễn Thị Bích Trang 19 Lớp: A1-K41A-KTNT.
nguon tai.lieu . vn