Xem mẫu

KHÓ KHĂN TÂM LÝ VÀ NHU CẦU ĐƯỢC HỖ TRỢ CHUYÊN NGHIỆP CỦA TRẺ VỊ THÀNH NIÊN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ths. Phạm Tiến Sỹ Sự phát triển tâm lý của một đứa trẻ từ khi lọt lòng cho đến lúc trưởng thành được chia thành nhiều giai đoạn với những đặc trưng tâm lý riêng. Trong đó, giai đoạn vị thành niên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn với nhiều biến cố, khó khăn, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển tâm lý, nhân cách của trẻ. Tính chất phức tạp của lứa tuổi này được đặc trưng bởi những tên gọi như “tuổi khó bảo”, “tuổi khủng hoảng”, “tuổi bất trị”…Đặc điểm lứa tuổi cộng với sự biến đổi mạnh mẽ của xã hội đang ngày ngày tác động càng tăng thêm khó khăn của bản thân trẻ cũng như các bậc phụ huynh trong giáo dục con cái. Do vậy, việc nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lý, nắm vững những khó khăn và nhu cầu cần được hỗ trợ của trẻ vị thành niên trong hoàn cảnh xã hội hiện nay sẽ góp phần không nhỏ vào việc hạn chế, ngăn chặn những rối nhiễu tâm lý, hành vi ở trẻ. 1. Tuổi vị thành niên và đặc điểm tâm - sinh lý tuổi vị thành niên Việc xác định thời điểm bắt đầu và kết thúc của tuổi vị thành niên cũng xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau. Theo E. Spranger, tuổi vị thành niên được bắt đầu từ tuổi 14 và kết thúc vào tuổi 17. Đ. Bromlei lại cho rằng độ tuổi này kéo dài từ 11 đến 15 tuổi…Theo tác giả Vũ Dũng, tuổi vị thành niên là lứa tuổi từ 11 đến 17 tuổi. Riêng ở Việt Nam, giai đoạn tuổi vị thành niên thường được các nhà tâm lý học phân chia thành hai giai đoạn: tuổi thiếu niên kéo dài từ 11 đến 15 tuổi (hay tuổi học sinh cơ sở) và tuổi đầu thanh niên từ 16 đến 18 tuổi (tuổi học sinh trung học phổ thông). Vị thành niên là lứa tuổi mà trẻ có sự phát triển mạnh mẽ và phức tạp về mặt sinh lý, xã hội và tâm lý. Trẻ có sự phát triển nhảy vọt về tầm vóc (mỗi năm cao lên 5-6cm ở nữ và 810cm ở nam), hệ xương phát triển mạnh giúp trẻ có thân hình cao lớn, mạnh mẽ như người lớn nhưng có phần lóng ngóng, vụng về do hệ cơ phát triển không tương xứng. Hệ tuần hoàn và các tuyến nội tiết phát triển đáng kể. Tim phát triển nhanh hơn các mạch máu gây ra sự mất cân bằng là nguyên nhân gây ra các rối loạn chức năng trong hoạt động của hệ tim mạch như tim đập nhanh, huyết áp cao, hay bị chóng mặt, nhức đầu, khả năng làm việc suy giảm. Các tuyến nội tiết hoạt động mạnh hơn nhiều gây ra sự mất cân bằng trong hoạt động của hệ thần kinh trung ương. Vì thế, ở trẻ thường dễ có những cơn xúc động mạnh, những phản ứng nỏng nảy, vô cớ, các em khó làm chủ được bản thân, khả năng tự kiềm chế thấp. Sự biến đổi sinh lý có ý nghĩa quan trọng nhất, đặc trưng của lứa tuổi này là thời kì dậy thì và phát dục. Các em gái bắt đầu có kinh nguyệt, tuyến vú phát triển, giọng nói trong trẻo, thân hình trở nên nở nang, cân đối. Các em trai xuất hiện các hiện tượng mộng tinh, thủ dâm…Các em có nhu cầu tìm hiểu về các vấn đề tình dục, vấn đề quan hệ nam - nữ, bắt đầu khám phá khả năng và thỏa mãn nhu cầu tình dục của bản thân bằng cách xem phim, tranh ảnh kết hợp với thủ dâm, thậm chí một số em còn quan hệ tình dục trực tiếp. Căn cứ vào đặc điểm này, nhà phân tâm học S. Freud gọi giai đoạn phát triển này là giai đoạn sinh dục. Trẻ vị thành niên có sự trưởng thành đáng kể về mặt xã hội. Trong gia đình, các em được người lớn tôn trọng, được tham gia vào hoạt động sản xuất, đóng góp ý kiến đối với các vấn đề của gia đình…Các mối quan hệ xã hội được mở rộng dần bằng cách tham gia vào các hoạt động xã hội do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, nhà trường tổ chức…Tất cả những hoạt động đó góp phần mở rộng vốn hiểu biết, kĩ năng ứng xử của trẻ vị thành niên, làm cho các em có cảm giác mình không còn là trẻ con nữa, có xu hướng vươn lên làm người lớn. Thế nhưng, các em vẫn phải phụ thuộc gia đình về mặt kinh tế, vẫn luôn được quan tâm, chăm sóc, quản lý theo kiểu trẻ con của người lớn. Điều này dễ dẫn đến những mâu thuẫn, xung đột trong quan hệ cha mẹ và con ở lứa tuổi này. Về mặt tâm lý, hoạt động nhận thức của trẻ vị thành niên phát triển mạnh. Tri giác trở nên nhạy bén, chính xác, khả năng tập trung chú ý cao, tư duy trừu tượng phát triển mạnh giúp đáp ứng được với nhiệm vụ học tập ngày càng cao. Ở lứa tuổi này nhu cầu quan hệ với bố mẹ giảm đi, ngược lại nhu cầu quan hệ với bạn bè ngày càng lớn. Nhiều nhà tâm lý học khẳng định, quan hệ bạn bè ở tuổi vị thành niên có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết trong suốt cả đời người(1). Dễ dàng nhận thấy rằng, bạn bè là những người có nhiều điểm tương đồng về tâm sinh lý và xã hội, dễ dàng lắng nghe, thấu hiểu và thông cảm với nhau. Đặc biệt, trong tiếp xúc với bạn bè các em giành được sự bình đẳng, tôn trọng mà trong quan hệ với bố mẹ và người lớn rất khó để các em đạt được. Với bạn bè, các em thường xem là nguồn động viên, là nơi chia sẻ mọi thắc mắc, mọi vấn đề của tuổi mới lớn…nhưng đồng thời, trong bản thân mối quan hệ này cũng chứa đựng những vấn đề, những mâu thuẫn trở thành nguồn gốc tạo áp lực tâm lý và là nguy cơ hình thành nên hành vi lệch chuẩn ở trẻ. Tuổi vị thành niên cũng xuất hiện những rung cảm đầu đời nảy sinh trong tình bạn khác giới. Tình cảm đó có nhiều điểm tương đồng với tình yêu nam nữ, cũng say mê, nồng nàn, chung thủy, hi sinh, cũng có hạnh phúc, sự thẹn thùng, hờn dỗi, có cả ghen tuông và đau khổ, chia ly…Tuy nhiên, đứng trước thứ tình cảm mới lạ này, trẻ vị thành niên cũng gặp không ít lúng túng, bối rối, băn khoan, gặp phải những vấn đề khó xử liên quan đến vấn đề học tập, sự cấm đoán của cha mẹ, vấn đề quan hệ tình dục…dễ đưa các em phát triển lệch hướng nếu như không có sự hỗ trợ, giúp đỡ, định hướng từ người lớn. Sự tác động tâm lý mạnh mẽ nhất đối với trẻ vị thành niên là quá trình đi tìm bản ngã riêng. Các em ý thức được mình là một nhân cách độc lập, có quyền được tin cậy, được tôn trọng như những người lớn. Sự thất bại trong việc hình thành một bản ngã ít nhiều sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của trẻ, sự mất cân bằng được tạo ra làm ảnh hưởng tiêu cực đến trẻ. Điều này được Waterman chứng minh (1) Theo Berndt and Perry, dẫn theo (Papalia, D.E. và Olds, S.W, 1996. (1992), ông đã điểm lại một khối lượng nghiên cứu lớn cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa sự hình thành bản ngã và hoạt động tâm lý có hiệu quả(2). 2. Một số khó khăn của tuổi vị thành niên Người lớn thường có thói quen áp đặt những mong muốn chủ quan của mình lên trẻ. Họ kì vọng cao và sẵn sàng tạo mọi điều kiện cho con mình được học hành, được vui chơi. Vì vậy, các bậc cha mẹ thường cho rằng phần việc còn lại của con cái họ là khá đơn giản, chỉ có ăn với học mà thôi. Ít ai biết rằng, trên con đường hình thành bản ngã mới, phát triển nhân cách, trẻ vị thành niên phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Đó có thể là những tình huống gây căng thẳng, lo âu, trầm cảm, hoảng loạn... 2.1. Một số khó khăn trong học tập Hoạt động học tập giữ vị trí rất quan trọng trong sự phát triển tâm lý, nhân cách của trẻ ở tuổi vị thành niên. Đối với nhiều em, sự hấp dẫn nhà trường tăng lên rõ rệt vì môi trường giao tiếp được mở rộng. Tuy nhiên, bên cạnh hoạt động học tập, các em bắt đầu có hứng thú với nhiều hoạt động khác. Có những em cố gắng bằng mọi cách để được bạn bè yêu mến, để trở thành trung tâm chú ý của mọi người, các em bắt đầu chú ý vào ăn mặc và các kiểu thời trang, nhiều em bắt đầu xuất hiện tình cảm yêu đương, bắt đầu thao thức, mất tập trung bởi một bạn trai, bạn gái nào đó…vì thế, kết quả học tập có thể bị ảnh hưởng không nhỏ. Hơn thế nữa, trong điều kiện hiện tại, môi trường học đường còn chứa đựng nhiều nguy cơ. Thời gian gần đây, trên các website thường xuất hiện các clip đánh nhau, hành hạ, lột đồ, nhục mạ nhau; các tệ nạn ma túy, mại dâm cũng dần len lỏi và ảnh hưởng đến trẻ vị thành niên, tạo cảm giác mất an toàn, lo âu ở trẻ. Môi trường học đường không còn là môi trường giáo dục thực sự lí tưởng, an toàn đối với trẻ nữa. Áp lực học hành đến từ chương trình học, sự kỳ vọng của cha mẹ vào con cái, tâm lý bằng cấp, không đánh giá đúng năng lực bản thân của con cái để có những 2 Xem thêm: Kathryn Geldard & David Geldard (dịch: Nguyễn Xuân Nghĩa & Lê Lộc) (2002), Tham vấn thanh thiếu niên, ĐH Mở bán công TPHCM. đòi hỏi phù hợp... cũng đang bủa vây lấy trẻ vị thành niên. Số lượng học sinh mắc chứng nhiễu tâm (lo âu, trầm cảm, hoảng loạn, hung tính, tự sát…) do học tập ngày càng lớn. 2.2. Một số khó khăn nội tâm Tuổi vị thành niên là lứa tuổi đang ở thời kì quá độ từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành. Các em không còn là trẻ con nhưng cũng chưa phải là người lớn. Trong khi đó tự ý thức của các em đã phát triển mạnh mẽ. Tình trạng này đã tạo nên một loạt những khó khăn ngay trong bản thân các em. Tác giả Phan Thị Mai Hương trong đề tài nghiên cứu “Cách ứng phó của trẻ vị thành niên với hoàn cảnh khó khăn” đã chỉ ra sáu khó khăn nội tâm cơ bản đối với trẻ vị thành niên như sau: - Khó khăn thứ nhất là mâu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng hiện có, giữa địa vị mong muốn và địa vị thực tế của các em. Một mặt các em muốn trở thành người lớn, muốn độc lập và bình đẳng với bố mẹ, mặt khác, các em vẫn chưa có khả năng tự lập, vẫn phải sống phụ thuộc vào người lớn. - Khó khăn thứ hai là mâu thuẫn giữa nội dung ý thức và hình thức hành vi ở trẻ vị thành niên. Các em muốn được tự do, muốn thể hiện mình có quyền và có khả năng như người lớn. Tuy nhiên, các em lại chưa biết cách lựa chọn cách biểu hiện phù hợp. Để thể hiện mình đã trưởng thành, chứng tỏ sự tự do, các em bắt chước người lớn hút thuốc lá, uống rượu, uống cà phê, nói tục…Để chứng tỏ sức mạnh cơ bắp, lòng can đảm, các em thực hiện các hành vi nguy hiểm như đua xe, lảng lách, đánh võng, đánh nhau, đi xe đạp buông hai tay…Sự quan tâm của các em đối với các bạn khác giới lại biến tướng thành các hành vi xa lánh, trêu chọc, thô bạo. - Khó khăn thứ ba là sự biến đổi ngoại hình trở thành nỗi khổ tâm của các em. Một số “mất ăn mất ngủ” vì cho rằng mình là một cô gái xấu xí, một chàng trai thấp lùn; các em mất tự tin vì cái mụn trên mặt, nốt tàn nhang trên má… - Khó khăn thứ tư là việc chỉ nắm lấy những biểu hiện bề ngoài không bản chất làm đặc điểm chủ yếu của khái niệm gây những khó khăn cho các em trong hoạt động học tập.

nguon tai.lieu . vn