Xem mẫu

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

KHẢO SÁT MỐI LIÊN QUAN GIỮA KHÁNG INSULIN  
VÀ TỔN THƯƠNG THẬN Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYP 2 
Nguyễn Thị Thanh Nga*, Hoàng Trung Vinh**, Nguyễn Thị Bích Đào*** 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá mối liên quan giữa tình trạng kháng insulin với đặc điểm tổn thương thận ở bệnh nhân 
(BN) đái tháo đường (ĐTĐ) typ 2. 
Đối tượng nghiên cứu và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu cắt ngang 288 đối tượng, chia làm 3 nhóm. 
Nhóm1 ‐ chứng khỏe mạnh (n=51), nhóm 2 ‐ chứng BN ĐTĐ typ 2 không tổn thương thận (n= 113), nhóm 3 ‐ 
BN ĐTĐ typ 2 có tổn thương thận (n= 124) khi có 1 trong các biểu hiện vi đạm niệu (MAU), albumin niệu 
(MAC), suy thận mạn tính (STMT) chưa có lọc máu chu kỳ. Tất cả các đối tượng được định lượng glucose‐máu 
lúc đói, insulin huyết thanh, C‐peptid huyết thanh. Dựa vào nồng độ glucose, C‐peptid huyết thanh để xác định 
chỉ số kháng insulin, độ nhạy insulin, chức năng tế bào beta theo mô hình HOMA2 vi tính, ký hiệu lần lượt là: 
HOMA2‐IR,  HOMA2‐%S  và  HOMA2‐%B.  Xác  định  có  kháng  insulin  khi  nồng  độ  insulin,  C‐peptid  và 
HOMA‐IR cao hơn, HOMA2‐%S và HOMA2‐%B thấp hơn so với chỉ số tương ứng ở nhóm chứng. Giá trị chỉ 
số ở BN được coi là tăng khi lớn hơn giá trị trung bình + 1 SD (phương sai), được coi là giảm khi nhỏ hơn giá trị 
trung bình – 1 SD của chỉ số tương ứng thuộc nhóm chứng. 
Kết quả: BN ĐTĐ typ 2 với tổn thương thận có giá trị trung bình insulin, C‐peptid và HOMA2‐IR tăng 
trong khi HOMA2‐%S và HOMA2‐%B giảm so với các chỉ số tương ứng ở nhóm chứng bệnh và nhóm chứng 
khỏe  mạnh.  Nồng  độ  trung  bình  insulin,  C‐peptid  và  HOMA2‐IR  tăng  dần,  HOMA2‐%S  và  HOMA2‐%B 
giảm dần theo thứ tự từ BN có vi đạm niệu, albumin niệu đến suy thận mạn. Tỉ lệ % BN tăng insulin, C‐peptid 
và  HOMA2‐IR  so  với  giá  trị  trung  bình  các  chỉ  số  tương  ứng  ở  nhóm  chứng  khỏe  mạnh  là:  81,5%,  62,1%, 
79,8%. Tỉ lệ % BN giảm HOMA2‐%S và HOMA2‐%B là: 78,2% và 80,6%. 
Kết  luận:  Kháng insulin ở BN ĐTĐ typ 2 liên quan với tổn thương thận trong đó nồng độ insulin, C‐
peptid và kháng insulin tăng dần, chỉ số nhạy cảm insulin và chức năng tế bào beta giảm dần theo các giai đoạn 
bệnh thận đái tháo đường. 
Từ khóa: kháng insulin, đái tháo đường typ 2, bệnh thận mạn do đái tháo đường. 

ABSTRACT 
RELATIONSHIP BETWEEN INSULIN RESISTANCE AND DIABETIC NEPHROPATHY  
IN TYPE 2 DIABETIC ADULTS 
Nguyen Thi Thanh Nga, Hoang Trung Vinh, Nguyen Thi Bich Dao  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 468 ‐ 472 
Patients  and  Methods: This is a prospective, cross sectional and descriptive study. We had 288 patients 
divided  in  3  groups:  group  1  (healthy)  including  51  healthy  people,  group  2  (control)  including  113  type  2 
diabetic patients without kidney damage and group 3 (disease) including 124 type 2 diabetic adults with diabetic 
nephropathy. Diabetic nephropathy was defined as patient had at least one of the followings: microalbuminuria, 
albuminuria or chronic renal failure not requiring regular dialysis. The clinical parameters for all people were 
fasting blood glucose, serum insulin concentration and serum C‐peptide. Based on the concentration of glucose 
and serum C‐peptide, we would determine the insulin resistance index, the insulin sensitivity and the pancreatic 
* Bệnh viện Nguyễn Trãi 
** Học viện Quân Y 
Tác giả liên lạc: Nguyễn Thị Thanh Nga ĐT: 0908498899

468

*** Bệnh viện Chợ Rẫy 
Email: thanhngabvnt@gmail.com

Chuyên Đề Nội Khoa 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

beta cell function according to the computerised model called HOMA2 and symbolize these values as HOMA2‐
IR,  HOMA2‐%S  and  HOMA2‐%B  respectively.  Insulin  resistance  was  determined  when  the  insulin 
concentration, C‐peptide and HOMA2‐IR were higher whereas the HOMA2‐%S and HOMA2‐%B were lower 
than correspondent values in the healthy group. The value was defined as high when it was more than the mean 
value + 1 SD (standard deviation) in healthy group; low when it was lower than the mean value – 1 SD.  
Results: In type 2 diabetic patients with diabetic nephropathy, the mean values of insulin, C‐peptide and 
HOMA2‐IR  increased  whereas  the  HOMA2‐%S  and  HOMA2‐%B  decreased  compared  to  the  correspondent 
indexes in healthy and control groups. The mean values of insulin concentration, C‐peptide and HOMA2‐IR also 
increased gradually together with the mean values of HOMA2‐%S and HOMA2‐%B decreased in subgroups of 
different stages of diabetic nephropathy including microalbuminuria, albuminuria and chronic renal failure. The 
percentage of patients with diabetic nephropathy had increased insulin concentration, C‐peptide and HOMA2‐IR 
compared to correspondent indexes in healthy group were 81.5%, 62.1% and 79.8% respectively. The percentage 
of patients with diabetic nephropathy had decreased HOMA2‐%S and HOMA2‐%B were 78.2% and 80.6%.  
Conclusion: The insulin resistance indexes were related to the diabetic nephropathy in which the insulin 
concentration, serum C‐peptide and insulin resistance index increased whereas the insulin sensitivity index and 
pancreatic beta cell function index decreased corresponding to different stages of diabetic nephropathy. 
Key words: insulin resistance, diabetic nephropathy.  
typ  2.  Sự  gia  tăng  tình  trạng  kháng  insulin  sẽ 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
ảnh hưởng đến tiến triển của tổn thương thận.  
Kháng insulin đóng vai trò quan trọng trong 
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: khảo sát mối 
sinh bệnh học của đái tháo đường typ 2 và trong 
liên quan giữa kháng insulin với tổn thương thận và 
các biến chứng mạch máu. Kháng insulin có thể 
giai  đoạn  tổn  thương  thận  ở  bệnh  nhân  đái  tháo 
là  một  yếu  tố  nguy  cơ  của  bệnh  thận  đái  tháo 
đường typ 2.  
đường.  Các  nghiên  cứu  trước  đây  đã  cho  thấy 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
rằng  kháng  insulin  có  thể  xuất  hiện  sớm,  thậm 
chí  sớm  hơn  ở  những  bệnh  nhân  với  mức  độ 
Đối  tượng  nghiên  cứu  bao  gồm  288  chia  3 
bệnh thận mạn ở giai đoạn 3, 4. Giảm độ  nhạy 
nhóm,  nhóm  1‐  nhóm  chứng  khỏe  mạnh  (n  = 
cảm  insulin  đã  được  chứng  minh  có  liên  quan 
51), nhóm 2 – BN ĐTĐ typ 2 không tổn thương 
đến  chức  năng  thận  suy  giảm  ngay  cả  trong 
thận  (n  =  113),  nhóm  3‐  BN  ĐTĐ  typ  2  tổn 
bệnh thận mạn(4,10). 
thương thận chưa có lọc máu chu kỳ (n = 124).  
Tổn  thương  thận  là  1  trong  các  biến  chứng 
hay  gặp,  xuất  hiện  sớm  ở  BN  ĐTĐ  typ  2.  Tổn 
thương thận ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 
xuất  hiện  theo  các  giai  đoạn  từ  nhẹ  đến  nặng, 
đầu tiên là sự xuất hiện vi đạm niệu, sau đó là 
albumin  niệu  trong  đó  có  thể  xuất  hiện  hội 
chứng thận hư, cuối cùng là suy thận mạn tính 
các giai đoạn mà nặng nhất là suy thận mạn tính 
giai đoạn cuối cần phải điều trị bằng các phương 
pháp thay thế thận(2,8).  
Kháng insulin vừa là cơ chế bệnh sinh đồng 
thời  cũng  là  yếu  tố  nguy  cơ,  có  liên  quan  đến 
biến  chứng  thận  ở  bệnh  nhân  đái  tháo  đường 

Nội tiết

Phương pháp nghiên cứu 
Thiết  kế  nghiên  cứu:  tiến  cứu,  cắt  ngang, 
mô tả, so sánh. 

Nội dung nghiên cứu 
Sau khi xác định các đối tượng thuộc nhóm 1 
là  người  khỏe  mạnh,  tiến  hành  xét  nghiệm  các 
chỉ  số  glucose,  insulin,  c‐peptid  huyết  thanh. 
Tính các chỉ số kháng insulin dựa vào nồng độ 
glucose,  c‐peptid  theo  mô  hình  HOMA2  bằng 
cách  xác  định  chỉ  số  kháng  insulin  (HOMA  2‐
IR), độ nhạy insulin (HOMA2‐%S) và chức năng 
tế bào beta (HOMA2‐ %B). Ở BN thuộc nhóm 2 
và nhóm 3 cũng xét nghiệm các chỉ số tương tự 

469

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 

và  tính  toán  các  chỉ  số  kháng  insulin  tương  tự 
như ở nhóm chứng khỏe mạnh. 
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0. Giá 
trị của 1 chỉ số ở BN được coi là tăng khi trị tuyệt 
đối > X  + 1SD, giảm khi trị tuyệt đối < X  ‐ 1SD 

giá trị tương ứng của nhóm chứng. Xác định có 
kháng insulin khi tăng nồng độ insulin, c‐peptid 
huyết  thanh,  HOMA2‐  IR;  giảm  HOMA2‐%S, 
HOMA2‐%B. 

KẾT QUẢ 
Bảng 1: Đặc điểm chung của các đối tượng nghiên cứu 
Chỉ số
n
Nam: Nữ
Tuổi (năm)
BMI
Thời gian phát hiện bệnh ĐTĐ (năm)
HATT
HATTr

N1
51
11: 40
66,4
21,6 ± 1,5

Bảng 1 cho thấy các chi tiết nhân khẩu học, 
nhân trắc học và huyết động của các đối tượng 
nghiên cứu. 
Đối  tượng  nữ  trong  mỗi  nhóm  đều  chiếm 
tỷ lệ cao. 
Tỷ lệ đối tượng theo giới giữa 3 nhóm khác 
biệt không có ý nghĩa thống kê. 

N2
113
30: 83
65,9
23,1 ± 3,5
6,6 ± 5,8
129,1 ± 15,4
76,7 ± 7,6

N3
124
33:91
69,4
22,6 ± 3,9
9,3 ± 6,3
136,9 ± 19,1**
77,2 ± 7,5

Tuổi trung bình của đối tượng thuộc 3 nhóm 
tương đương nhau. 
Thời gian phát hiện bệnh trung bình của BN 
ĐTĐ  typ  2  có  tổn  thương  thận  cao  hơn  so  với 
BN ĐTĐ typ 2 không có tổn thương thận. 
Giá  trị  trung  bình  (GTTB)  HATT  ở  BN 
thuộc nhóm nghiên cứu cao hơn  so  với  nhóm 
chứng bệnh. 

Bảng 2: So sánh một số chỉ số giữa bệnh nhân thuộc 3 thể lâm sàng tổn thương thận 
Chỉ số
Tuổi (năm)
Thời gian phát hiện bệnh (năm)
Glucose máu lúc đói (mmol/l)
HbA1c (%)
MLCT (ml/1,73m2/phút)
HATT (mmHg)
HATTr (mmHg)

MAU (n=22)
67,6 ± 10,4
6,3 ± 4,7
9,0 ± 3,96
8,38 ± 2,32
98,5 ± 8,4
132,5 ± 19,7
75 ± 7,5

MAC (n=39)
68,3 ± 9,9
7,4 ± 6,4
9,32 ± 4,16
9,05 ± 2,64
95,2 ± 6,1
141,9 ± 16,3
78,6 ± 6,5

Mức độ tổn thương thận nặng dần thì: Thời 
gian phát hiện bệnh tăng dần, MLCT giảm dần, 
chỉ số HATT‐ HATTr tăng dần có ý nghĩa thống 

STMT (n=63)
68,4 ± 9,7
11,1 ± 6,1
9,66 ± 3,31
8,07 ± 1,77
48,16 ± 11,82
148,1 ± 17,9
79,6 ± 7,6

P-ANOVA
>0,05
0,05
>0,05
1,92)
Giảm HOMA2%S (
nguon tai.lieu . vn