Xem mẫu

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM ỐNG HẬU HÀM TRÊN HÌNH ẢNH  
CORE BEAM CT CỦA XƯƠNG HÀM DƯỚI NGƯỜI VIỆT 
Nguyễn Thị Thùy Trang*, Lê Đức Lánh*, Phạm Thị Hương Loan* 

TÓM TẮT 
Mục  tiêu: Khảo sát sự hiện diện và đặc điểm của ống hậu hàm trên hình ảnh CBCT ở xương hàm dưới 
người Việt. 
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 91 hình ảnh CBCT được lưu trữ tại bộ môn Tia X, Khoa 
Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Ở vùng hậu hàm ghi nhận sự hiện diện của ống hậu 
hàm, phân loại ống hậu hàm theo phân loại của Von Arx (2011), đo đạc các thông số khoảng cách A, chiều cao B, 
đường kính C, đường kính F1, đường kính F2 và khoảng cách F2. 
Kết quả: Trong số 91 hình ảnh CBCT khảo sát ghi nhận tỉ lệ cá thể có ống đôi ống răng dưới là 46,2%, tỉ lệ 
cá thể có ống hậu hàm là 16,5%. Nghiên cứu ghi nhận ống hậu hàm loại B1 hiện diện nhiều nhất 44,4%, số ống 
hậu hàm loại A1, B2, C lần lượt là 27,8%, 22,2%, 5,6% và không ghi nhận có ống hậu hàm loại A2. Khoảng 
cách A bên phải dài hơn bên trái có ý nghĩa thống kê. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sự phân bố 
ống hậu hàm theo giới và vị trí bên hàm. 
Kết luận: Nghiên cứu bước đầu ghi nhận sự hiện diện và đặc điểm đường đi ống hậu hàm ở xương hàm 
dưới người Việt. Sự hiện diện của ống hậu hàm có ý nghĩa quan trọng giúp cho các nhà lâm sàng cần nhớ đến 
cấu trúc này khi tiến hành can thiệp ở vùng hậu hàm và góp phần làm phong phú thêm đặc điểm hình thái của 
xương hàm dưới người Việt. 
Từ khóa: ống hậu hàm, ống đôi ống răng dưới. 

ABSTRACT 
RETROMOLAR CANALS AS OBSERVED ON CONE BEAM COMPUTED TOMOGRAPHY 
Nguyen Thi Thuy Trang, Le Duc Lanh, Pham Thi Huong Loan  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 366 ‐ 370 
Objectives: To evaluate the presence and characteristics of the mandibular retromolar canal in Vietnamese 
by using CBCT images. 
Methods:  A  cross  –  sectional  study  was  conducted  on  91  CBCT  images  were  stored  in  the  X‐ray 
Department, the Faculty Odonto – Stomatology, University of Medicine and Pharmacy at Ho Chi Minh City. In 
the  retromolar  fossa,  detected  the  presence  of  retromolar  canal,  classified  them  according  to  Von  Arx  (2011), 
measurement of distance A, height B, diameter C, the diameter F1, diameter F2 and distance F2. 
Results: On 91 CBCT images, 42 patients were detected bifid mandibular canal (46.2%) and 15 patients 
were found retromolar canal (16.5 %). The present study demontrated retromolar canal type B1 is the most with 
44.4%, the retromolar type A1, B2, C are 27.8%, 22.2%, 5.6% respectively and not identified type A2. Distance 
A in right side is longer than in left side with statistical significance. The existence of a retromolar canal was not 
statistically related to gender or side.  
 Conclusions: Initially the present study evaluated the presence and characteristics course of mandibular 
retromolar canal in Vietnamese. The presence of retromolar canal is very important for clinicians to remember 
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược TP HCM  
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Thùy Trang ĐT: 0972150008

366

Email: nguyenthuytrang@gmail.com

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

this  structure  when  performing  surgery  in  the  retromolar  area  and  contribute  to  enrich  the  morphological 
characteristics of Vietnamese. 
Key words: retromolar canal, bifid mandibular canal. 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ống răng dưới (ORD) là  cấu  trúc  giải  phẫu 
kéo  dài  từ  lỗ  hàm  dưới  đến  lỗ  cằm  chứa  dây 
thần  kinh  xương  ổ  dưới,  động  mạch  và  tĩnh 
mạch.  Dây  thần  kinh  xương  ổ  dưới  có  ý  nghĩa 
lâm sàng vì dễ bị tổn thương do gãy xương hàm 
dưới, phẫu thuật răng khôn lệch, phẫu thuật đặt 
Implant, phẫu thuật chỉnh hàm, phẫu thuật điều 
trị các bệnh lý, phẫu thuật ghép (vị trí lấy mảnh 
ghép, vị trí ghép) và phẫu thuật nội nha. Vì vậy, 
xác  định  vị  trí  ống  răng  dưới  giữ  vai  trò  quan 
trọng trong việc lập kế hoạch điều trị phẫu thuật 
vùng  răng  sau  hàm  dưới.  Những  thay  đổi  giải 
phẫu trong đường đi của ống răng dưới như sự 
hiện diện ống đôi ORD, vòng ngoặt trước không 
phải  là  hiếm(1),  những  đặc  điểm  này  giúp  các 
nhà lâm sàng luôn nhớ rằng có các thay đổi về 
giải  phẫu  của  ORD.  Ống  đôi  ORD  được  gọi  là 
ống hậu hàm khi ống hướng về phía xa răng cối 
lớn thứ ba, phù hợp với phân loại IV trong phân 
loại của Nortje (1977), ống hậu hàm là một ống 
phụ  phát  sinh  từ  gối  hậu  nha  và  gia  nhập  với 
ống chính ở vùng hậu hàm. Những biến chứng 
như  chấn  thương  thần  kinh,  dị  cảm,  chảy  máu 
có thể xảy ra khi các nhà lâm sàng không nhận 
ra được sự hiện diện của cấu trúc giải phẫu này 
và  các  ứng  dụng  của  nó.  Trong  phẫu  thuật  cắt 
xương hàm dưới thì phẫu thuật sẽ trở nên phức 
tạp hơn khi có thêm bó mạch thần kinh thứ hai. 
Hơn nữa, trong trường hợp chấn thương xương 
hàm dưới, tất cả xương hàm dưới gãy nên được 
nắn chỉnh và cố định để tránh bị chồng xương. 
Sự  nắn  chỉnh  sẽ  trở  nên  khó  khăn  khi  có  bó 
mạch  thần  kinh  thứ  hai  nằm  trên  mặt  phẳng 
khác. 
Hình ảnh cắt lớp điện toán với chùm tia hình 
chóp  nón  (CBCT)  được  sử  dụng  rất  hiệu  quả 
trong  nha  khoa  giúp  nhìn  thấy  hình  ảnh  ba 
chiều của cấu trúc sọ mặt với độ phân giải cao, 
kích  thước  chính  xác,  thời  gian  tạo  ảnh  nhanh, 
độ nhiễm xạ thấp và kinh tế. Như vậy, liệu trên 

Răng Hàm Mặt 

xương hàm dưới người Việt có sự hiện diện của 
ống  hậu  hàm  hay  không?  Để  trả  lời  câu  hỏi 
nghiên  cứu  trên,  chúng  tôi  tiến  hành  khảo  sát 
“Sự  hiện  diện  của  ống  hậu  hàm  trên  hình  ảnh 
CBCT của xương hàm dưới người Việt” với các 
mục tiêu sau: 
‐  Xác  định  tỉ  lệ  ống  hậu  hàm  trên  hình  ảnh 
CBCT của xương hàm dưới người Việt theo giới, 
giữa bên phải và bên trái.  
‐  Mô  tả  đặc  điểm  ống  hậu  hàm  và  tương 
quan ống hậu hàm với các mốc giải phẫu. 

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Mẫu  thuận  tiện  gồm  hình  ảnh  CBCT  hàm 
dưới thỏa tiêu chí hàm dưới còn răng cối lớn thứ 
hai  hoặc  răng  cối  lớn  thứ  ba,  không  có  bệnh  lý 
hay có chỉ định phẫu thuật xương hàm dưới và 
chưa  từng  trải  qua  bất  kì  phẫu  thuật  hàm  mặt 
nào.  Các  hình  ảnh  CBCT  được  lưu  trữ  tại  bộ 
môn  Tia  X,  lấy  từ  các  bệnh  nhân  đến  khám  và 
điều  trị  tại  Khoa  Răng  Hàm  Mặt,  Đại  học  Y 
Dược Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 11 năm 
2011 đến tháng 5 năm 2013. 

Phương pháp nghiên cứu 
Thu thập dữ liệu 
Xác  định  ống  răng  dưới:  là  một  ống  nằm 
trong xương hàm dưới bắt đầu từ lỗ hàm dưới ở 
cành  đứng  xương  hàm  dưới,  ống  chạy  xiên 
xuống dưới và ra trước trong cành đứng, và sau 
đó ra trước theo cành ngang đến lỗ cằm. 
Ở vùng hậu hàm ghi nhận(2): 
‐ Sự hiện diện ống đôi ORD: trên đường đi 
của ống răng dưới, ghi nhận sự phân nhánh từ 
ống chính. 
‐  Sự  hiện  diện  của  ống  hậu  hàm:  Một  dải 
thấu  quang  do  sự  phân  nhánh  của  ống  răng 
dưới nằm trong vùng hậu hàm, đó là ống hậu 
hàm. 

367

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

‐ Sự hiện diện của lỗ hậu hàm: ống hậu hàm 
chạy  theo  hướng  sau  trên  và  mở  ra  một  lỗ  mở 
trên xương vùng hậu hàm. 
Phân  loại  ống  hậu  hàm  dựa  theo  phân  loại 
của Von Arx (2011)(9). 
Đo đạc các thông số về mối tương quan ống 
hậu hàm với các mốc giải phẫu theo nghiên cứu 
của Von Arx (2011)(9) gồm: 

Đường  kính  F2:  đối  với  các  ống  hậu  hàm 
phân loại A2 và B2, ghi nhận thêm đường kính 
lớn nhất của ống hậu hàm khi phân nhánh cấp 2 
(Hình 2).  
Khoảng  cách  F2:  từ  điểm  giữa  của  phân 
nhánh  cấp  2,  hạ  đường  vuông  góc  với  bề  mặt 
xương  hàm  dưới  cùng  hậu  hàm,  ghi  nhận 
khoảng cách này (Hình 3). 

Khoảng  cách  ngang  từ  ống  hậu  hàm  đến 
răng cối lớn thứ hai (Hình 1). 

ĐƯỜNG KÍNH F1

 
Hình 2:. Đo đường kính F1 trên hình ảnh CBCT. 
Hình 1: Sơ đồ minh họa các kích thước của ống hậu 
hàm. 
(1)  ORD,  (2)  ống  hậu  hàm  (A)  khoảng  cách 
ngang,  (B)  chiều  cao  ống  hậu  hàm,  (C)  đường 
kính ống. 
A:  khoảng  cách  ngang  từ  điểm  giữa  của  lỗ 
hậu  hàm  đến  đường  nối  men  xê  măng  phía  xa 
của răng cối lớn thứ hai. 
Chiều cao ống hậu hàm (Hình 1). 
B:  khoảng  cách  đứng  (chiều  cao)  từ  điểm 
giữa của lỗ hậu hàm đến giới hạn phía trên của 
ống răng dưới. 
Từ điểm giữa lỗ hậu hàm đã xác định ở trên, 
hạ đường vuông góc lên giới hạn phía trên của 
ống  răng  dưới.  Đo  khoảng  cách  này  ta  được 
chiều cao B.  
Đường kính ống hậu hàm (Hình 1). 
C: đường kính ống hậu hàm được đo tại vị 
trí dưới trung tâm lỗ mở 3 mm.  
Đường  kính  F1:  đường  kính  của  ống  hậu 
hàm  khi  phân  nhánh  từ  ống  răng  dưới  (phân 
nhánh cấp 1) (Hình 2). 

368

KHOẢNG CÁCH F2

ĐƯỜNG KÍNH F2

 
Hình 3: Đường kính F2 và khoảng cách F2 trên hình 
ảnh CBCT 
Thực hiện khảo sát đặc điểm ống hậu hàm ở 
mỗi bên hàm và cả hai bên (nếu có). 
Sử dụng phép kiểm χ2, phần mềm SPSS 21 
để  so  sánh  sự  phân  bố  cá  thể  có  ống  hậu  hàm 
theo nam – nữ, bên phải – bên trái, dùng phép 
kiểm  t  để  so  sánh  các  thông  số  khoảng  cách, 
đường  kính,  chiều  cao  theo  giới  và  bên  phải  – 
bên trái. 

KẾT QUẢ 
Khảo sát 91 hàm dưới ghi nhận được có 42 
cá thể ống đôi ORD (chiếm 46,2%). Trong đó có 
15/91  cá  thể  có  ống  hậu  hàm  chiếm  tỉ  lệ  16,5%. 
Trong  số  các  cá  thể  có  ống  hậu  hàm,  có  6/15 
(40%) cá thể là nữ và 9/15 (60%) cá thể là nam. 7 

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
(46,7%)  cá  thể  chỉ  có  ống  hậu  hàm  bên  phải,  5 
(33,3%) cá thể chỉ có ống hậu hàm bên trái và 3 
(20%) cá thể có cả hai bên hàm. 
Trong  tổng  số  18  ống  hậu  hàm  cho  thấy  ở 
nam, có 7 ống hậu hàm ở bên phải (63,6%) và 4 
ống hậu hàm ở bên trái (36,4%). Ở nữ có 3 ống 
hậu  hàm  hiện  diện  bên  phải  (42,9%)  và  4  ống 
hậu hàm hiện diện bên trái (57,1%), không có sự 

Nghiên cứu Y học

khác  biệt  có  ý  nghĩa  thống  kê  sự  phân  bố  ống 
hậu hàm theo giới và vị trí bên hàm, p>0,05. Ống 
hậu hàm loại B1 hiện diện nhiều nhất 8/18 ống 
(44,4%), ống hậu hàm loại A1, B2, C lần lượt là 5 
ống  (27,8%),  4  ống  (22,2%),  1  ống  (5,6%)  và 
không  có  ống  hậu  hàm  nào  trong  mẫu  nghiên 
cứu loại A2 (0%). 

Bảng:. Giá trị trung bình các số đo. 
Khoảng cách A

n’
Giá trị trung bình
Độ lệch chuẩn

Chiều cao B

12
16,42
6,03

18
9,55
1,92

Đường kính C Đường kính F1 Đường kính F2

18
0,89
0,35

18
1,78
0,57

4
2,59
1,06

Khoảng cách
F2

4
5,77
2,04

 Đơn vị tính: mm 
Khoảng cách trung bình tính từ điểm giữa lỗ 
hậu hàm đến đường nối men – xê măng răng cối 
lớn thứ hai là 16,42 ± 6,03 mm. Chiều cao trung 
bình  ống  hậu  hàm  là  9,55  ±  1,92  mm.  Đường 
kính trung bình ống hậu hàm dưới 3 mm từ lỗ 
mở  là  0,89  ±  0,35  mm.  Đường  kính  trung  bình 
ống hậu hàm tại phân  nhánh  thứ  nhất,  thứ  hai 
và khoảng cách từ phân nhánh thứ hai cho đến 
bề mặt xương lần lượt là 1,78 ± 0,57 mm, 2,59 ± 
1,06 mm, 5,77 ± 2,04 mm (Bảng 1). 

BÀN LUẬN 
Trong 91 hình ảnh CBCT được khảo sát, có 
42 cá thể có ống đôi ORD chiếm tỉ lệ 46,2%, phù 
hợp với nghiên cứu Naitoh (2009) ghi nhận tỉ lệ 
ống  đôi  ORD  thay  đổi  từ  15,6  –  65%  trên  hình 
ảnh CBCT. Trong số đó chỉ có 15 cá thể có ống 
hậu hàm chiếm tỉ lệ 16,5%, thấp hơn nghiên cứu 
Kawai  (2012)  là  52%  (24/46  xương  hàm  dưới)(3). 
Trong  nghiên  cứu  mới  đây  của  Patil  (2013)  ghi 
nhận  tỷ  lệ  khá  cao  ống  hậu  hàm  65%  khi  khảo 
sát  trên  hình  ảnh  CBCT(6).  Tỷ  lệ  ống  hậu  hàm 
trong  các  nghiên  cứu  trên  xương  khô  và  CBCT 
thay  đổi  từ  6,1%  ‐  72%(9).  Ossenberg  (1987)  đã 
ghi nhận ở người Mỹ có tỉ lệ ống hậu hàm cao 
hơn người Nhật Bản, Ấn Độ và châu Phi và ông 
cũng kết luận rằng: tỉ  lệ  ống  hậu  hàm  thay  đổi 
tùy chủng tộc(5). Sự khác biệt này có thể do ảnh 
hưởng  của  di  truyền  và  môi  trường  như  dinh 
dưỡng, căng thẳng áp lực(5). 

Răng Hàm Mặt 

Nghiên  cứu  này  chưa  ghi  nhận  có  sự  khác 
biệt về giới và tần suất xuất hiện ống hậu hàm ở 
bên phải và trái (p>0,05). Kết quả này tương tự 
các  nghiên  cứu  khác(1,5).  Nghiên  cứu  cũng  ghi 
nhận  tỉ  lệ  cá  thể  có  ống  hậu  hàm  ở  một  bên 
(80%) cao hơn hai bên (20%), phù hợp với đa số 
nghiên  cứu  khác(1,8),  trong  khi  đó,  nghiên  cứu 
của Sagne (1977) lại cho thấy ống hậu hàm hiện 
diện ở cả hai bên hàm với tỉ lệ cao hơn. 
  Trong  nghiên  cứu  này,  tần  số  xuất  hiện 
ống  hậu  hàm  ở  nam  (9/15  trường  hợp)  nhiều 
hơn ở nữ (6/15 trường hợp) nhưng sự khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Kết quả này 
tương  tự  Ossenberg  (1987)(5)  và  Pyle  (1999)(7). 
Ngược lại, nghiên cứu của Von Arx (2011) nhận 
thấy  xu  hướng  nữ  giới  có  ống  hậu  hàm  nhiều 
hơn  so  với  nam  giới(9).  Tuy  nhiên,  các  nghiên 
cứu  đều  ghi  nhận  sự  khác  biệt  giữa  hai  giới 
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). 
Trong số 18 ống hậu hàm trên 15 cá thể thì 
ống hậu hàm loại B1 (8/18 ống hậu hàm) và A1 
(5/18 ống) chiếm tỉ lệ cao hơn lần lượt là 44,4% 
và 27,8%. Tỉ lệ này khá phù hợp với nghiên cứu 
của Von Arx (2011) với tỉ lệ ống hậu hàm loại B1 
và  A1  lần  lượt  là  9/31  ống  (29%)  và  13/31  ống 
(41,9%). Điều này có nghĩa là các ống  hậu  hàm 
trong nghiên cứu này chủ  yếu  là  những  nhánh 
đứng (loại A1) hoặc uốn cong (loại B1) tách ra từ 
ORD.  Tỉ  lệ  ống  hậu  hàm  loại  B2  là  22,2%  cho 

369

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

thấy ống hậu hàm không phải chỉ là nhánh đơn 
mà  trên  đường  đi  phân  nhánh  từ  ORD  đến  lỗ 
mở vùng hậu hàm, ống hậu hàm có thể chia tách 
thành những nhánh nhỏ hơn. Kết quả này tương 
tự như nghiên cứu của Patil (2013) 31/129 cá thể 
có  ống  hậu  hàm  loại  A,  110/129  cá  thể  có  ống 
hậu hàm loại B. 
Khi khảo sát đường kính ống hậu hàm tại 
các vị trí: (a) phân nhánh từ ống răng dưới, (b) 
phân nhánh cấp hai và (c) dưới 3 mm từ trung 
tâm  lỗ  mở,  nhận  thấy  đường  kính  ống  hậu 
hàm  ngay  tại  nơi  bắt  đầu  phân  nhánh  từ  ống 
răng  dưới  (1,78  ±  0,57  mm)  lớn  hơn  tại  vị  trí 
dưới  3  mm  từ  trung  tâm  lỗ  mở  (0,89  ±  0,35 
mm).  Nghiên  cứu  này  ghi  nhận  4  trường  hợp 
có ống hậu hàm loại B2 là những ống hậu hàm 
cong hướng về vùng hậu hàm và mở ra một lỗ 
mở  ở  vùng  hậu  hàm.  Tuy  nhiên,  trên  đường 
đi,  ống  hậu  hàm  lại  phân  ra  thêm  một  nhánh 
ngang  nữa  (phân  nhánh  cấp  2).  Đường  kính 
ống hậu hàm tại vị trí phân nhánh cấp 2 là lớn 
nhất (2,59 ± 1,06 mm) và khoảng cách từ vị trí 
này đến bề mặt xương vùng hậu hàm là 5,77 ± 
2,04 mm. Đây là đặc điểm cần được lưu ý trên 
lâm sàng bởi ống hậu hàm có đường kính lớn 
như  vậy  (2,59  mm)  sẽ  dễ  bị  tổn  thương  trong 
khi can thiệp ở vùng hậu hàm. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.
2.

3.

4.

5.
6.

7.

8.
9.

Carter  RB,  Keen  EN  (1971).  “The  intramandibular  course  of 
the inferior alveolar nerve”. J Anat, 108(3): p433 – 440. 
Lizio  G,  Pelliccioni  GA,  Ghighi  G,  Fanelli  A,  Marchetti  C 
(2012).  “Radiographic  assessment  of  the  mandibular 
retromolar  canal  using  cone‐beam  computed  tomography”. 
Acta Odontol Scand, 71 (3 – 4): p650 – 655. 
Kawai  T,  Asaumi  R,  Sato  I,  Kumazawa  Y,  Yosue  T  (2012). 
“Observation  of  the  retromolar  foramen  and  canal  of  the 
mandibular:  a  CBCT  and  macroscopic  study”.  Oral  Radiol, 
28: p10 – 14. 
Narayana K, Nayak UA, Ahmed WN, Bhat JG, Devaiah BA 
(2002).  “The  retromolar  foramen  and  canal  in  south  Indian 
dry mandibles”. Eur J Anat, 6(3): p141 – 146. 
Ossenberg  NS  (1987).  “Retromolar  foramen  of  the  human 
mandible”. Am J Phys Anthropol, 72(1): p119 – 129. 
Patil  S,  Matsuda  Y,  Nakajima  K,  Araki  K,  Okano  T  (2013). 
“Retromolar  canals  as  observed  on  cone‐beam  computed 
tomography:  their  incidence,  course,  and  characteristics”. 
Oral and maxillofacial radiology, 115(5): p692 – 699. 
Pyle MA, Jasinevicius TR, Lalumandier JA, Kohrs KJ, Sawyer 
DR  (1999).  “Prevalence  and  implications  of  accessory 
retromolar  foramina  in  clinical  dentistry”.  General  Dent, 
47(5): p500 – 503. 
Priya Y, Manjunath KY (2005). “Retromolar foramen”. Indian 
J Dent Res, 16(1): p15 – 16. 
Von Arx T, Hänni A, Sendi P, Buser D, Bornstein MM (2011). 
“Radiographic study of the mandibular retromolar canal: An 
anatomic structure with clinical importance”. J Endod, 37(12): 
p1630 – 1635. 

 

Ngày nhận bài báo: 22/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo:26/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 

 

370

Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 

nguon tai.lieu . vn