Xem mẫu

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

KHẢO SÁT CÁC THỨ‐TÝP (SUBTYPE)  
TRÊN BỆNH NHÂN NHIỄM HIV TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
Huỳnh Minh Tuấn*,**, Nguyễn Kim Huyền*, Phạm Hùng Vân**, Nguyễn Thanh Bảo** 

TÓM TẮT 
Mở đầu: Cho đến nay, khả năng đột biến của siêu vi HIV‐1 tạo nên sự đa dạng sinh học nhằm tránh thoát 
hệ miễn dịch của ký chủ và đề kháng lại các thuốc kháng siêu vi vẫn là một thách thức trong việc điều trị căn 
bệnh thế kỷ này. Nhiều nghiên cứu cho thấy có sự  phân bố  khác nhau  theo  địa  lý  của  khoảng  11  thứ  týp  và 
khoảng 48 thể‐tái‐tổ‐hợp(CRF) của HIV‐1 khắp thế giới, và có sự khác biệt đáng kể về khả năng lây truyền cũng 
như diễn tiến bệnh. Tại Việt Nam vẫn còn ít số liệu công bố trong lĩnh vực này.  
Mục  tiêu: Xác định thứ týp HIV‐1 đang lưu hành tại thành phố Hồ Chí Minh trong những năm 2010‐
2011. 
Phương pháp: Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp mô tả, tiền cứu, thực hiện tại Bệnh Viện Bệnh 
Nhiệt Đới TP. Hồ Chí Minh từ 1/2010 đến 12/2011. Cỡ mẫu: 200. Tiêu chuẩn chọn mẫu: người bệnh được chẩn 
đoán  xác  định  nhiễm  HIV‐1  theo  tiêu  chuẩn  chẩn  đoán  của  Bộ  Y  Tế  2009  (3),  chưa  từng  được  điều  trị  thuốc 
kháng siêu vi. Tiến hành ly trích RNA từ huyết tương, tổng hợp cDNA, khuếch đại và giải trình tự nucleotid 
vùng gen envelop. Sau đó, dùng phần mềm Mega 5.05 phân tích trình tự và xây dựng cây quan hệ tiến hóa. 
Kết quả: Trong 200 mẫu, có 185 mẫu (chiếm 92,5%) đã thành công trong việc khuếch đại, giải trình tự. Kết 
quả cụ thể cho thấy: 175 mẫu (chiếm 94,59%) thuộc thể‐tái‐tổ‐hợp CRF01_AE; 5 mẫu (chiếm 2,7%) thuộc thứ 
týp B; và 3 mẫu (chiếm 1,6%) thuộc thể‐tái‐tổ‐hợp CRF01_AE_B. 
Kết luận: Nghiên cứu đã góp phần khẳng định thể‐tái‐tổ‐hợp CRF01_AE của siêu vi HIV‐1 lưu hành chủ 
yếu ở thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó vẫn có sự lưu hành của thứ týp B và đã bắt đầu có sự xuất hiện của 
thể‐tái‐tổ‐hợp CRF01_AE_B. 
Từ khóa: HIV‐1, thứ týp, CRF01_AE 

ABSTRACT 
HIV‐1 SUBTYPE DIVERSITY IN NAÏVE PATIENT IN HO CHI MINH CITY 
Huynh Minh Tuan, Nguyen Kim Huyen, Pham Hung Van, Nguyen Thanh Bao  
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 378 ‐ 383 
Background:  To  date,  the  diversity  of  HIV‐1  mutations  for  avoiding  host  immune  system  and  resisting 
against  antiviral  drugs  remains  the  giant  challenge  to  human  being  for  successful  treatment  in  this  century. 
Many studies show different geographic distributions of about 11 subtypes and 48 circulating recombinant forms 
(CRFs) of HIV‐1, and big differences of transmission ability as well as disease progression. There is not much 
data of this issue in Vietnam. 
Objective: Determine the subtype of HIV‐1 inHo Chi Minh City during 2010‐2011. 
Methods:  This  study  was  designed  descriptively  and  prospectively,  performed  at  HCMC  Hospital  for 
Tropical Diseases from 1/2010 to 12/2011. Sample size: 200. Criteria for screening: naïve patients were diagnosed 
with  HIV  infection  following  Vietnam  Ministry  of  Health  2009  Guidelines  for  diagnosing  and  treatment 
HIV/AIDS(3).  Total  whole  blood  samples  were  extracted  RNA  from  plasma,  synthesized  cDNA,  amplified  and 
*Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn Bệnh viện Đại học Y Dược Tp. HCM 
** Bộ môn Vi sinh – Khoa Y – Đại học Y Dược Tp. HCM 

 

 

Tác giả liên lạc: ThS Huỳnh Minh Tuấn ĐT: 0909349918 Email: huynhtuan@yds.edu.vn. 

378

Chuyên Đề Nội Khoa 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

sequenced envelop gene. Then, we used software Mega 5.05 to analyze sequences and build phylogenetic tree. 
Results:  Among  200  collected  samples,  the  results  show  that  185  (92.5%)  samples  were  amplified  and 
sequenced sucessfully. There are 175 individuals (94.59%) belong to CRF01_AE; 5 individuals (2.7%) belong to 
subtype B; and 3 individuals (1.6%) belong to CRF01_AE_B. 
Conclusion: Our study shows the major subtype in HCMC is CRF01_AE. Moreover, there is also subtype 
B and CRF01_AE_B. 
Keywords: HIV‐1, subtype, CRF01_AE 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đã  hơn  30  năm  kể  từ  ngày  hội  chứng  suy 
giảm  miễn  dịch  mắc  phải  (AIDS  =  Acquired 
Immunodeficiency  Syndrome)  được  mô  tả  trên 
y  văn,  và  cũng  gần  bằng  ngần  ấy  thời  gian  tác 
nhân  gây  bệnh  được  xác  định  là  siêu  vi  HIV 
(Human  Immunodeficiency  Virus),  con  người 
vẫn chưa có được một loại thuốc nào có thể điều 
trị tận gốc căn bệnh thế kỷ này. Lý do lớn nhất 
có lẽ là do siêu vi HIV sở hữu nhiều cơ chế bảo 
vệ  khả  năng  tấn  công  vào  và  tồn  tại  được  bên 
trong tế bào ký chủ, và khả năng tránh thoát hệ 
miễn dịch cũng như là các loại thuốc kháng siêu 
vi.  Cơ  chế  được  nhắc  đến  nhiều  nhất  và  cũng 
được  ghi  nhận  là  thách  thức  lớn  nhất  cho  con 
người  trong  việc  chế  tạo  thuốc  điều  trị  là  khả 
năng đột biến di truyền của siêu vi, tạo nên một 
quần  thể  đa  dạng  bên  trong  một  người  bệnh 
nhiễm  HIV‐1,  và  do  vậy  có  thể  đáp  ứng  được, 
tồn tại được trước sự tấn công của hệ miễn dịch 
ký chủ và các thuốc kháng siêu vi. 
Siêu vi HIV‐1 gây nhiễm bệnh ở người được 
phân  thành  3  nhóm:  M  (Major),  O  (Outlier),  và 
N  (nonmajor,  nonoutlier).  Trong  nhóm  M,  siêu 
vi  được  phân  chia  thành  các  thứ  týp  (subtype) 
được định danh bằng các chữ cái; và dưới‐thứ‐
týp  (sub‐subtype)  được  định  danh  bằng  các  số. 
Cho đến hiện nay đã xác định được A1, A2, A3, 
A4, B, C, D, F1, F2, G, H, J, K. Khác biệt di truyền 
giữa các cá thể siêu vi cùng một thứ týp khoảng 
15‐20%,  khác  thứ  týp  có  thể  lên  đến  25‐30%(7). 
Ngoài  ra,  hiện  tượng  tái  tổ  hợp  giữa  các  cá  thể 
siêu vi khác thứ týp trong cùng một cơ thể người 
bệnh tạo ra một biến thể siêu vi mới cũng có khả 
năng  lây  truyền  từ  người  sang  người  và  gây 
bệnh,  gọi  là  thể‐tái‐tổ‐hợp  (CRF  =  Circulating 

Nhiễm

Recombinant  Form),  ví  dụ  thể‐tái‐tổ‐hợp 
CRF01_AE được ghi nhận lưu hành ở Thái Lan 
từ năm 1998(6). 
Thứ týp khác nhau đã được ghi nhận có liên 
quan mật thiết đến quá trình lây lan và diễn tiến 
bệnh,  ví  dụ  siêu  vi  R5  (sử  dụng  đồng  thụ  thể 
CCR5) có khả năng lây lan mạnh, trong khi siêu 
vi X4 (sử dụng đồng thụ thể CXCR4) lại thường 
gắn với diễn tiến bệnh nhanh và nặng(8), hầu hết 
các siêu vi thuộc các thứ týp khác nhau sử dụng 
hai đồng thụ thể nói trên, riêng thứ týp D có ái 
tính với cả hai, trong thứ týp C, quần thể siêu vi 
X4 thấp hơp nếu so với thứ týp B(5). Một nghiên 
cứu cho thấy khả năng lây truyền mẹ‐con ở thứ 
týp  C  cũng  mạnh  hơn  so  với  thứ  týp  B(15),  và 
tương  tự  như  vậy  đối  với  khả  năng  lây  truyền 
qua  đường  tình  dục  khác  giới  giữa  C  với  A  và 
D(10). Một nghiên cứu ở Thái Lan cũng cho thấy 
khả  năng  lây  truyền  mạnh  mẽ  của  thể 
CRF01_AE so với thứ týp B(9). 
Đối  với  diễn  tiến  bệnh,  từ  rất  sớm  vào 
những năm 90 của thế kỷ trước, nghiên cứu của 
Kanki(11) đã cho thấy diễn tiến bệnh rất nhanh ở 
những phụ nữ nhiễm thứ týp C, D, G nếu so với 
A.  Một  nghiên  cứu  khác  trên  đoàn  thể  khoảng 
1000 người Thái nhiễm thể CRF01_AE cho thấy 
thời  gian  sống  còn  trung  bình  ngắn  hơn  so  với 
đoàn thể người phương Tây nhiễm HIV(14). Một 
nghiên cứu khác trên người bệnh Uganda cũng 
cho thấy diễn tiến bệnh nhanh hơn, tỷ lệ tử vong 
cao  hơn  đối  với  thứ  týp  D  so  với  A(13).  Và  gần 
đây,  kết  quả  một  nghiên  cứu  trên  người  bệnh 
Kenya  cũng  cho  thấy  tỷ  lệ  tử  vong  cao  hơn,  số 
lượng tế bào CD4 sụt giảm nhanh hơn ở những 
người bệnh nhiễm thứ týp D so với A và C(1). 
Một  trong  những  yếu  tố  chủ  chốt  tạo  nên 
tính đa dạng sinh học của siêu vi HIV‐1 nằm ở 

379

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

chỗ  men  sao  chép  ngược  (RT=Reverse 
Transcriptase) của siêu vi thiếu khả năng sửa sai 
(proofreading)  trong  quá  trình  sao  chép,  dẫn 
đến một tỷ lệ đột biến rất cao (3,4x10‐5 mỗi cặp 
nucleotide mỗi chu kỳ sao chép). Nếu ước lượng 
chiều dài toàn bộ chuỗi RNA của siêu vi HIV‐1 
là 10.000 nucleotide, tốc độ sao chép khoảng 10 
tỷ virion một ngày, thì cứ mỗi ngày trôi qua sẽ 
có  hàng  triệu  biến  thể  siêu  vi  mới  được  tạo  ra 
bên trong cơ thể một người bệnh(2). 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 

Theo các nghiên cứu đã công bố(6,14), phân bố 
thứ týp của siêu vi HIV‐1 như sau: 

khám  ngoại  trú  của  Bệnh  viện  Bệnh  Nhiệt  Đới 

Thứ týp
A

Vùng lưu hành
Kenya
Bắc Mỹ, Trung Mỹ, phía bờ tây
B
Nam Mỹ, Tây Âu, Úc Châu
Ấn Độ, Châu Phi (các nước vùng
C
sừng châu Phi và Đông, Nam Phi)
D
Châu Phi (Sudan, Uganda…)
B và CRF01_AE
Đông Nam Châu Á
CRF02_AG và các thể- Châu Phi (vùng Địa Trung Hải như
tái-tổ-hợp khác
Ai Cập, Algieri, Libya…)
A, B, và các thể tái-tổNga, Đông Âu
hợp giữa A và B
B và các thể tái-tổ-hợp
Nam Mỹ (Brasil, Argentina,
giữa B và F
Bolivia…)
B, C, và các thể tái-tổTrung Quốc và các nước Trung Á
hợp giữa B và C
F, G, H, J, K, CRF01 và
Châu Phi (Congo, Angola,
các thể-tái-tổ-hợp khác
Gabon…)

Tại Việt Nam, số liệu nghiên cứu về vấn đề 
này  còn  tương  đối  ít,  một  số  nghiên  cứu  của 
các tác giả đi trước vào các năm 2004(12), 2010(16) 
và  2012(4)  cho  kết  quả  thứ  týp  lưu  hành  ở  các 
vùng  khảo  sát  thuộc  miền  Bắc  Việt  Nam  là 
CRF01_AE  và  E  (là  danh  pháp  cũ  của 
CRF01_AE).  Còn  ở  miền  Nam  thì  một  vài 
nghiên  cứu  cũng  cho  thấy  thứ  thể‐tái‐tổ‐hợp 
CRF01_AE  lưu  hành  chủ  yếu(17,18,).  Do  vậy, 
chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm mục 
đích khảo sát các thứ  týp lưu hành chủ yếu ở 
miền Nam, thông qua  những  người  bệnh  đến 
khám và điều trị tại Bệnh Viện Bệnh Nhiệt Đới 
TP.  Hồ  Chí  Minh,  là  tuyến  điều  trị  cao  nhất 
bệnh nhiễm HIV/AIDS tại miền Nam. 

Nghiên  cứu  được  thiết  kế  theo  phương 
pháp mô tả, tiền cứu, thực hiện tại Bệnh Viện 
Bệnh  Nhiệt  Đới  TP.  Hồ  Chí  Minh  từ  1/2010 
đến 12/2011. 

Đối tượng 
Tổng  cộng  nhóm  nghiên  cứu  chúng  tôi  đã 
thu  thập  được  200  mẫu  máu  toàn  phần  người 
bệnh  HIV‐1  đến  khám  và  điều  trị  tại  phòng 
TP.HCM.  Mẫu  được  lấy  theo  phương  pháp 
ngẫu  nhiên  liên  tục  cho  đến  khi  kết  thúc.  Tiêu 
chuẩn chọn mẫu vào nghiên cứu là người bệnh 
được chẩn đoán xác định nhiễm HIV‐1 theo tiêu 
chuẩn chẩn đoán của Bộ Y Tế 2009(3), chưa được 
điều  trị  thuốc  kháng  siêu  vi  trước  đó,  trưởng 
thành  (≥  18  tuổi  tính  đến  thời  điểm  tham  gia 
nghiên  cứu)  và  đồng  ý  tham  gia  nghiên  cứu; 
không phân biệt tuổi, giới, tiền sử lây truyền, và 
giai đoạn tiến triển của bệnh. 

Ly trích huyết tương 
Mẫu máu toàn phần (8‐10ml) được cho vào 
ống  chống  đông  EDTAK3  (Nam  Khoa  Biotek, 
HCMC,  Vietnam),  được  vận  chuyển  từ  Bệnh 
Viện  Bệnh  Nhiệt  Đới  TP.  Hồ  Chí  Minh  về  Đại 
Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh trong thùng xốp 
kín có đá khô không quá hai (02)  giờ  kể  từ  khi 
lấy mẫu, và được ly tách huyết tương ngay. 
Mẫu  máu  được  ly  tách  huyết  tương  bằng 
phương pháp ly tâm với tốc độ 5000vòng/phút, 
trong  10  phút  ở  nhịêt  độ  4oC.  Huyết  tương  ly 
tách  được  khoảng  3‐4ml,  được  aliquot  vào  các 
ống Effpendof 1,5ml và lưu ở ‐70°C đến khi thực 
hiện bước tiếp theo. 

Ly trích RNA siêu vi HIV‐1 
Rã đông tự nhiên huyết tương đã lưu ở trên, 
ly  trích  RNA  bằng  cách  sử  dụng  150µl  huyết 
tương  và  bộ  kit  RNAPrep  (Nam  Khoa  Biotek, 
HCMC, Vietnam). Nguyên tắc của bộ kit này là 
sử  dụng  hợp  chất  phenol‐chloroform  làm  biến 

380

Chuyên Đề Nội Khoa 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

tính  protein  và  dùng  ethanol  để  làm  tủa  RNA 

Giải trình tự gen env 

của siêu vi HIV‐1. 

Sản phẩm từ  bước tinh  sạch  ở  trên  sẽ  được 
thực  hiện  giải  trình  tự  cả  2  mạch  bằng  bộ  kit 
BigDye  Terminator  Cycle  Sequencing  v3.1 
(Applied  Biosystems,  Foster  CA,  USA)  với  mồi 
“xuôi” và “ngược” là Env7 và ED33, sau khi tất 
cả sản phẩm PCR được đánh dấu huỳnh quang, 
sẽ  được  “cô  đặc”  lại  và  huyền  phù  trong  20µl 
formamid để được phân tích trình tự nucleotide 
bằng máy giải trình tự tự động ABI Prism 3130xl 
(Applied Biosystems, Foster CA, USA). 

Tổng hợp cDNA từ RNA được ly trích ở trên 
Sản  phẩm  RNA  ly  trích  ở  bước  trên  được  sử 
dụng để tổng hợp thành cDNA bằng bộ kit cDNA 
Synthesis  (Nam  Khoa  Biotek,  HCMC,  Vietnam). 
Chu kỳ nhiệt được sử dụng là: 25oC trong 5 phút, 
42oC trong 30 phút, 85oC trong 5 phút. 

Khuếch đại vùng gen env của HIV‐1 bằng 
phương  pháp  “nested”  PCR  và  tinh  sạch 
sản phẩm sau khuếch đại 
Sử dụng “Mồi ngoài” gồm: 
Env  31:  5’‐CAGTACAATGTACACATGG‐3’ 
(6955 to 6973) 
Env  8:  5’‐ATGGGAGGGGCATACATTG‐3’ 
(7522 to 7540) 
(ANRS công bố năm 2008) 
Với  chu  kỳ  nhiệt:  95  oC  trong  5  phút;  40 
chu kỳ gồm 94 oC trong 30 giây, 50 oC trong 30 
giây  và  72  oC  trong  1  phút;  sau  cùng  là  72  oC 
trong 10 phút 
Sử  dụng  “Mồi  trong”  gồm:  (đoạn khuếch đại 
có kích thước 374bp) 
Env  7:  5’‐AATGGCAGTCTAGCAGAAG‐3’ 
(7008 to 7026) 
ED33:  5’‐TTACAGTAGAAAAATTCCCCTC‐
3’ (7360 to 7381) 
(ANRS công bố năm 2008) 
Với  chu  kỳ  nhiệt:  95  oC  trong  5  phút;  40 
chu kỳ gồm 94 oC trong 30 giây, 55 oC trong 30 
giây  và  72 oC  trong  40  giây;  sau  cùng  là  72 oC 
trong 5 phút 
Khi  đã  thực  hiện  khuếch  đại  vùng  gen  env, 
chúng tôi cho sản phẩm PCR  chạy  điện  di  trên 
gel agarose 2% nhuộm ethidium bromide để xác 
định  sản  phẩm  chính  là  gen  env  (dựa  vào  kích 
thước đoạn khuếch đại). 
Tinh sạch toàn bộ sản phẩm PCR bằng bộ kit 
Purification (Qiagen, Hilden, Germany). 

Nhiễm

Tinh sạch trình tự và phân tích cây quan hệ 
tiến hóa 
Trình  tự  nucleotide  “thô”  sau  khi  giải  sẽ 
được  “tinh  sạch”  bằng  phần  mềm  Mega  5.05. 
Chúng tôi xây dựng bộ chủng tham khảo và so 
sánh  chúng  với  trình  tự  nucleotide  các  mẫu 
tham  khảo  bằng  chức  năng  BLAST  của  cả  2 
chương  trình  Stanford  Sequence  Analysis 
(http://hivdb.Stanford.edu/)  và  NCBI  HIV 
Subtyping  Tool  (http://www.ncbi.nlm.nih.gov/). 
Kết quả của việc so sánh này là xây dựng được 
cây quan hệ tiến hóa của các mẫu trong nghiên 
cứu  dựa  theo  cách  tính  toán  của  phương  pháp 
neighbour‐joining. 

KẾT QUẢ & BÀN LUẬN 
Trong  200  mẫu  bệnh  phẩm  thu  thập  được, 
nhóm nghiên cứu chúng tôi đã thành công trong 
việc  khuếch  đại,  giải  và  phân  tích  trình  tự  của 
183 mẫu (chiếm 91,5%). 
Kết quả phân tích cụ thể cho thấy: 173 mẫu 
(chiếm 94,53%) thuộc thể‐tái‐tổ‐hợp  CRF01_AE; 
7 mẫu (chiếm 3,83%) thuộc thứ týp B; và 3 mẫu 
(chiếm 
1,64%) 
thuộc 
thể‐tái‐tổ‐hợp 
CRF01_AE_B. Như vậy, kết quả nghiên cứu của 
chúng  tôi  một  mặt  khẳng  định  thêm  vào  kiến 
thức  về  dịch  tễ  học  phân  tử  của  HIV‐1  tại  Việt 
Nam  là  thể‐tái‐tổ‐hợp  CRF01_AE  chủ  yếu  lưu 
hành  ở  nước  ta;  một  mặt  cho  thấy  đã  bắt  đầu 
xuất hiện ngày càng nhiều hơn các thứ týp khác 
và  cả  các  thể‐tái‐tổ‐hợp  CRF  khác  (khi  so  sánh 
với các tác giả khác hoàn toàn chỉ phát hiện thể‐
tái‐tổ‐hợp CRF01_AE)(4,12,16,17,18). Ví dụ nghiên cứu 

381

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

Nghiên cứu Y học 

5
_15 0
HDR _15 8
R 8
H D R _ 1 73
1
HD R__1775
H D R 16 2
HD R__1663
HD R _1 72
HDDR _1 67
H R
_1 7 0
HDDRR_11598
H D R_ 15 80
_ 1 8
H
HDDRR_ _17
H D R
H D
H

0.2

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù 
hợp với các kiến thức từ y văn thế giới cho thấy 
thể‐tái‐tổ‐hợp  CRF01_AE  lưu  hành  chủ  yếu  ở 
vùng Đông Nam Á(6,7,14). 
Ngoài  ra,  chúng  tôi  cũng  đã  xác  định  có  ít 
nhất  3  mẫu  thuộc  thể‐tái‐tổ‐hợp  CRF01_AE_B, 
theo quy ước của thế giới thì kết luận đây là thể 
CRF  chứ  không  phải  là  URF  (Unique 
Recombinant Form). 
Cây quan hệ tiến hóa giữa các thứ týp HIV‐1 
dựa trên trình tự gen env: 

0.4

0.6

0.8

382

20 4
AE
_1 0
R _ 0 027 1
01 A E
D R _ 03 7
RFF01
H D R _ 09 3
C
H D R _ 1
H D R _1 44 3096 CR
H D R _ 1 M 30
H D R HC M
H D N C
H 7V NH118
9 7V _ 55
9 DR _0 03
H DR _0 2
H DR _00 4
H DR _09
H DR 100
H DR_ 116
H DR_ 01
H DR_1 87
H DR_0 2
H R _11
H D R _0 4 4
HD R_056
HD R_103
HD _146
HDR 230
HDR_ 41
HDR_1
HDR_080
HDR_107
HDR_148
HDR_184
HDR_233
HDR_012
HDR_06
3
HDR
HDR _098
HDR _038
HDR _04
HDR _04 9
HDR _05 7
HDR _05 7
HD _ 8
HD R 016
H D R _00
HD R__0171
HD R 0
HD R _0 6 4
HD R _ 99
HD R _0005
H
_ 2
H D R 0 2
H D R _0 73
HDDRR__0875
H
JQ DRR_ _0 076 3
40 _0 07 62
31 82 4
02
.1
_B

_B
.1 _B B
69 7.1
B
2_
07 12 3. 1_B B
E_
1A
86 81 65484. .1_
F0
J N Y 7 5 8 6 1 678
CR
A Y 4 9 8 6 91
A
7_
0
FJ U7R__092 32
E D R 8 52 6
H D H 09
3
H T
05DR__1995
H DR _1
H DR
H

H
9
H D
9 8 8 V N EU
5 4 H D R_
VN B
ND G4 H71 DRR_0 12
17 CR D 86. _1 39 7
CR F R_ 1_ 32
0
H D F 01 A 8 B
HD R01 A E 8
HD R__24 E
HD R 06 2
HD R__06 9
HD R_20155
H D R _1 3 6
8
H D R _05 3
R
HDR _05 9
3
HDR _081
HDR _072
HDR _041
_
HDR_ 046
2
HDR_2 48
3
HDR_12 8
4
HDR_093
HDR_042
HDR_066
HDR_043
HDR_048
HDR_013
HDR_019
HDR_109
HDR_234
3
HDR_13 2
4
HDR_1 37
DR_0 23
H R _1
HD R_008
HD R_181
HD R_089
1
HD R_01 2
H D R _12 1
D R_1252
HD 0
H DR_
H

H
H D
H D R
HDDRR_ _16
H
_ 1
H D R_ 15 49 1
HDDRR_1 1663
HD R _ 9
HD R _11901
H D R _1 56
HD R__1757
HD R _ 1 7 6
HD R_117 5
HD R_1 544
2
H D R_12 9
R
HDR _17 8
1
HDR _131
HDR _130
HDR _114
_
HDR_ 067
1
HDR_0 04
HDR_ 95
HXB2_014
env
HDR_009
HDR_106
HDR_050
HDR_136
HDR_125
HDR_197
HDR_196
HDR_194
7
HDR_18 7
1
HDR_1 92
R_1 99
H D R _1
HD R_090
H D R _108
HD R_105
0
HD R_07 1
H D R _11 5
D R_04 1
H D 05
H DR_ 1026
H DR__00 9
H DR _2202
H DR _2 00
H DR _2 861
H DR _123 E
H DRR_ A 60
H D 01 0 61 9
H R F R _ _0 2
C D R _0
34 HHDDR
0
H
GX
05

0.0

Phòng, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Cần Thơ, công bố 
100%  các  mẫu  nghiên  cứu  thuộc  chủng 
CRF01_AE(16). 

HDR_246
HDR_247
HDR_244
HDR_241
HDR_2
HDR_ 43
HDR_ 185
HDR_ 249
HDR 232
07C _235
97T N.HN0
74
H H6
FJDR_ -107 _CRF
HD05 137 CRF01 01_AE
AE
HD R_3 CRF
ME R 01 01 A
E
HD R _11 0
HD R_LBD 5
H
1 T
H D R_ 45 RC2
H D R _ 03
CR
HDDRR_11474
F0 1
H
AE
HDDRR__1438
1 3
H
HDDRR_ _13 34
H R _ 1 9
DR _ 0 40
_1 1 1 0 7
19 0

năm  2004  của  tác  giả  Kayoko  Kato  và  các  cộng 
sự thực hiện trên những người nghiện chích ma 
túy  ở  miền  Bắc  Việt  Nam  cho  kết  quả  rằng 
chủng HIV thứ týp E (là danh pháp cũ của thể‐
tái‐tổ‐hợp CRF01_AE) là nổi trội ở khu vực này. 
Tạp chí AIDS Research and Human Retroviruses 
vào  năm  2012  công  bố  một  nghiên  cứu  của  tác 
giả  Rozina  Caridha  và  cộng  sự  cho  thấy  100% 
các  mẫu  thu  thập  được  trên  đối  tượng  phụ  nữ 
mang  thai  nhiễm  HIV  từ  2005‐2007  ở  Hà  Nội, 
Hải Phòng đều thuộc thể‐tái‐tổ‐hợp CRF01_AE. 
Trong năm 2010, Tạ Thị Thu Hồng và cộng sự ở 
Viện Vệ sinh dịch tễ trung ương đã khảo sát đột 
biến  kháng  thuốc  trên  đối  tượng  nhiễm  HIV 
chưa  điều  trị  tại  các  tỉnh/thành  Hà  Nội,  Hải 

 

Chuyên Đề Nội Khoa 

nguon tai.lieu . vn