Xem mẫu

  1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐÔ LA HÓA 1.1 Khái niệm Đô la hoá có thể hiểu một cách thông thường là trong một nền kinh tế khi ngoại tệ được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng bản tệ trong toàn bộ hoặc một số chức năng tiền tệ, nền kinh tế đó bị coi là đô la hoá toàn bộ hoặc một phần. Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô la hoá cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối tiền tệ mở rộng (M2); bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, và tiền gửi ngoại tệ 1.2.Phân loại đô la hóa Đô la hoá được phân ra làm 3 loại: đô la hoá không chính thức (unofficial Dollarization), đô la hoá bán chính thức (semiofficial dollarization), và đô la hoá chính thức (official dollarization). 1.2.1 Đô la hoá không chính thức là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận. Đô la hoá không chính thức có thể bao gồm các loại sau: • Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài. • Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài. • Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước. • Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi. 1.2.2 Đô la hoá bán chính thức là những nước có hệ thống lưu hành chính thức hai đồng tiền. Ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp, và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày. Các nước này vẫn duy trì một ngân hàng trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ. 1.2.3 Đô la hoá chính thức (hay còn gọi là đô la hoá hoàn toàn) xẩy ra khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân, mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ yếu và thường chỉ là những đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Thông thường các nước chỉ áp dụng đô la hoá chính thức sau khi đã thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế. Đô la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hoặc hai đồng ngoại tệ được lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên, các nước đô la hoá chính thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ làm đồng tiền hợp pháp. 3. Những tác động của đô la hoá Tình trạng "đô la hoá" nền kinh tế có tác động tích cực và tác động tiêu cực. a. Những tác động tích cực: - Đô la hóa tạo một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ lạm phát cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Do có một lượng lớn đô la Mỹ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát và là phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính thức. Bên cạnh đó, USD là đồng tiền đáng tin cậy nhất thế giới. Bất kỳ nước nào chấp nhận đô la hóa cũng sẽ chấp nhận chính sách tiền tệ của FED ( Cục dự trữ liên bang Mỹ). Nhờ đó, sẽ giảm thiểu các rủi ro về khả năng mất giá tiền tệ. Ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy trì được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng thời ngân sách
  2. nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn. Một lượng ngoại tệ lớn được gửi vào các Ngân hàng sẽ tạo thành nguồn vốn lớn để cho vay và đầu tư vào nền kinh tế, hạn chế việc đi vay nước ngoài. Song trong điều kiện cho vay bằng ngoại tệ của Ngân hàng gặp khó khăn, thì với lãi suất trên thị trường quốc tế cao, các ngân hàng trong nước đem gửi ở nước ngoài. Người dân cũng sẽ được hưởng từ lãi suất hơn là cất giữ trong nhà và các ngân hàng cũng có thu nhập về nghiệp vụ tiền gửi và có lợi ích. Quốc gia cũng có thêm nguồn dự trữ ngoại tệ. Với đô la hóa, các ngân hàng có một lượng ngoại tệ lớn sẽ có điều kiện mở rộng hoạt động của mình, nhất là hoạt động đối ngoại. Hơn nữa sự tồn tại các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ tại các ngân hàng trong nước sẽ tạo công cụ hội nhập thị trường trong nước với thị trường khu vực, thị trường thế giới, giảm thiểu các chi phí giao dịch tài chính quốc tế. Đô la hóa giúp hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hoá chính thức, các chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh. Với nền kinh tế đô la hóa sẽ giúp thu hút đầu tư nước ngoài do các nhà đầu tư biết rõ giá trị tài sản quy ra tiền của họ sẽ gặp ít rủi ro. Đô la hóa có thể là yếu tố thu hút khách du lịch bởi việc mua bán và trao đổi ngoại tệ dễ dàng. Các nước thực hiện đô la hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô la hoá có thể được chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách giảm xuống và thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư. Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phí chính thức. Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để chuyển các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính thức (thị trường hợp pháp). b. Những tác động tiêu cực: Một nền kinh tế bị đô la hóa cao càng dễ bị tổn thương và nhạy cảm hơn với những thay đổi liên quan đến đồng đô la, cũng như các cú sốc kinh tế như sự dao động của giá dầu. Ngành xuất khẩu sẽ chịu tác động trực tiếp. Do đó, đô la hóa sẽ ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô. Với một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn thì việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ bị mất tính độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế. Đô la hóa làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ : • Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và kịp thời. • Làm cho đồng nội tệ nhạy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả. • Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ, làm cho cầu của đồng đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá. Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, thì quốc gia bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái. • Ở trong các nước đô la hoá không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định. Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây
  3. ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng. Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hoá cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ. Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ. Trong trường hợp đô la hoá chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi đó sẽ do nước Mỹ quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một nước phát triển như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những chính sách tiền tệ khác nhau. Nước thực hiện đô la hóa sẽ đánh mất ưu quyền tiền tệ của mình. Về cơ bản, ưu quyền tiền tệ là lợi nhuận thu được từ phát hành tiền. Đây là một hoạt động kinh tế rất có lãi vì chi phì in tiền, phát hành tiền thấp hơn rất nhiều so với giá trị hàng hóa mà giấy bạc phát hành thu mua được. Chính phủ Mỹ thu được 25 tỉ USD mỗi năm từ ưu quyền tiền tệ. Và khi người dân các nước khác giữ tờ đô la trong tay, họ đang góp phần làm giàu cho Bộ tài chính Mỹ. Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát triển chưa bị đô la hoá hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song công chúng vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này. Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng được đối với đô la Mỹ. Đối với các nước đô la hoá hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của Ngân hàng Trung ương đã bị mất. Tất nhiên, Ngân hàng Trung ương các nước này có thể đề nghị FED hỗ trợ tài chính khẩn cấp. Nhưng trong lịch sử tiền tệ thế giới, FEG chưa hề có sự giúp đỡ hệ thống ngân hàng của nước thực hiện đô la hóa chính thức khi họ gặp cơn nguy khốn. Thực trạng đô la hóa trên thế giới Theo đánh giá của IMF năm 1998, 19 nước có mức độ đô la hoá cao với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/M2 lớn hơn 30%, bao gồm các nước: Argentina, Azerbaijian, Belarus, Bolivia, Cambodia, Costa Rica, Croatia, Georgia, Guinea - Bissau, Laos, Latvia, Mozambique, Nicaragua, Peru, Sao Tome, Principe, Tajikistan, Turkey và Uruguay. 35 nước có mức độ đô la hoá vừa phải với tỷ lệ tiền gửi/M2 khoảng 16,4%, bao gồm các nước: Albania, Armenia, Bulgaria, Cộng hoà Czech, Dominica, Honduras, Hungary, Jamaica, Jordan, Lithuania, Macedonia, Malawi, Mexico, Moldova, Mongolia, Pakistan, Philippines, Poland, Romania, Russia, Sierra Leone, Cộng hoà Slovak, Trinidad, Tobago, Uganda, Ukraine, Uzbekistan, Việt Nam, Yemen và Zambia. Theo nghiên cứu của Hệ thống dự trữ Liên bang Mỹ, hiện tại người nước ngoài nắm giữ từ 55 đến 70% tổng số đô la Mỹ đang lưu hành trên thế giới. Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số đồng tiền của các quốc gia khác cũng được quốc tế hoá như: bảng Anh, mác Đức, yên Nhật, Franc Thuỵ Sỹ, euro của EU... nhưng vị thế của các đồng tiền này trong giao lưu quốc tế không lớn; chỉ có đô la Mỹ là chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim ngạch giao dịch thương mại thế giới). Cho nên người ta thường gọi hiện tượng ngoại tệ hoá là "đô la hoá". Chống tham nhũng để giảm "đô la hóa"11:17' 16/12/2005 (GMT+7) (VietNamNet)- Rất khó có thể thực hiện một nghiên cứu để xác định chính xác ở đâu trong nền kinh tế sử dụng tiền mặt bằng ngoại tệ nhiều nhất. Nhưng ở Việt Nam, ngoài kinh tế ngầm không thể kiểm soát như các nước khác thì tiền mặt bằng ngoại tệ được sử dụng để
  4. "bỏ phong bì" là một con số đáng kể. Do đó, giảm tham nhũng đôi khi lại là một giải pháp hữu hiệu nhất để hạn chế tình trạng "đô la hoá" của nền kinh tế. "Đồng đô la đang chiếm lĩnh một vị trí đáng kể trong các phương tiện thanh toán và làm cho tình trạng đô la hoá ngày một trầm trọng hơn". Nguồn: TTO Gửi bằng tiền đồng lợi hơn Vào đầu năm 2001, nếu có 1 đồng Việt Nam (VNĐ) đem gửi ngân hàng với lãi suất khoảng 8%/năm thì đến thời điểm hiện, sẽ có được 1,47 đồng. Nhưng nếu đem số tiền này đi mua đô la Mỹ (USD), sau đó gửi vào ngân hàng với lãi suất bình quân 3%/năm cộng với phần tăng giá của đồng đô la so với đồng tiền Việt Nam trong 5 năm qua khoảng 9% thì số tiền nhận được chỉ là 1,26 đồng. Làm một phép tính ngược lại, vào đầu năm 2001, nếu có 1 USD đem gửi ngân hàng, sau 5 năm chỉ nhận được 1,16 USD, nhưng nếu đổi ra VNĐ đem gửi ngân hàng, thì con số này là 1,35 USD. Từ hai ví dụ trên cho thấy, trong 5 năm qua, gửi tiết kiệm bằng tiền đồng có lợi hơn rất nhiều so với gửi bằng đồng đô la. Tuy nhiên, vào ngày 31/12/2000, số dư tiền gửi bằng ngoại tệ chỉ vào khoảng 4,5 tỷ USD, chiếm 23,7% tổng phương tiện thanh toán của toàn nền kinh tế, nhưng đến ngày 31/12/2004, số dư tiền gửi bằng ngoại tệ đã hơn 7 tỷ USD (hiện nay khoảng 8 tỷ), chiếm 23,9% tổng phương tiện thanh toán. Điều này có nghĩa là trong 5 năm qua, mức độ đô la hoá của nền kinh tế có xu hướng tăng lên. Đó là chưa kể xu hướng sử dụng tiền mặt bằng ngoại tệ cũng ngày một phổ biến hơn. Nếu tính được số tiền mặt bằng ngoại tệ (chủ yếu là USD) đang lưu hành trong nền kinh tế thì mức độ đô la hoá còn trầm trọng hơn nhiều. Công chúng thích giữ ngoại tệ trong túi
  5. Chống tình trạng đô-la hóa, VN cần phải quyết liệt hơn Để chống lại việc “đô-la hóa”, ngay từ Tại sao người ta vẫn thích gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ, bây giờ Việt Nam phải quyết liệt hơn thích giữ ngoại tệ trong túi? Phải chăng công chúng là trong việc tái cấu trúc 4 ngân hàng quốc những người duy ý chí hay không thể tính toán thiệt hơn doanh lớn. 40 ngân hàng thương mại trong việc giữ nội tệ hay ngoại tệ? phải được sắp xếp lại còn 34. Chắc chắn, ở đây không có vấn đề duy ý chí hay chưa biết Ngoài ra còn phải hợp tác nhiều hơn nữa tính toán thiệt hơn. Mà nguyên nhân chính là do những cú với các ngân hàng nước ngoài. Và cũng sốc về tiền tệ trong khoảng 20 năm qua. Cụ thể là việc không được quên bảo hiểm, đó chính là phá giá VNĐ vào những năm sau 1985 và những năm nguồn tài chính dài hạn. Trong tình hình 1997-1998. Sau hai đợt phá giá này, những người giữ tiền tài chính hiện nay nên chú ý đến sự phát đồng cảm thấy bị thiệt hại rất lớn so với việc giữ bằng triển của các nguồn vốn. Thêm nữa, đồng ngoại tệ. đừng quá sa đà vào việc cổ phần mà nên phát triển thị trường trái phiếu bằng cách triển khai phát hành nhiều hơn nữa để Thêm vào đó là hiện tượng lạm phát phi mã trong những thu hút ngoại tệ tiền mặt. năm cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 càng góp phần làm cho VNĐ mất giá quá nhanh và làm cho người Về chính sách, các ngân hàng Nhà nước giữ tiền cảm thấy bị thiệt thòi nhiều hơn nữa. phải giảm số USD dự trữ và thay thế chúng bằng những đồng tiền khác mạnh Rõ ràng, những cú sốc liên tục xảy ra đã làm cho người ta hơn, như là đồng euro chẳng hạn và một cảm thấy rủi ro rất lớn khi chuyển từ ngoại tệ sang VND. ngày nào đó có thể sẽ là nhân dân tệ. Đồng thời, phải đa dạng hóa các nguồn Hơn thế nữa, gần đây, sau một thời gian ổn định, chỉ số đầu tư. Một trong những giải pháp căn giá có dấu hiệu gia tăng bất thường càng khiến mọi người cơ để đối phó với tình trạng “đô-la hóa” thêm ngần ngại hơn trong việc chuyển từ ngoại tệ sang nền kinh tế là đa dạng hóa trao đổi VNĐ. thương mại từ nước ngoài vào Việt Nam. Đây là minh chứng cho thấy lòng tin của công chúng vào GS. TS. Alain Chevalier, Trường Quản chính sách kiểm soát lạm phát, quản lý tỷ giá của Nhà trị châu Âu (ESCP-EAP, Pháp) (Theo nước chưa cao. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Đức Người lao động). Thúy, mới đây đã phải thừa nhận với giới truyền thông rằng "Chẳng quốc gia nào lại muốn có đồng tiền thứ hai cũng được dùng như đồng tiền của mình, thậm chí có khi còn lấn lướt. Có nghĩa là anh không đủ hiệu lực trong thực thi chính sách tiền tệ." Đó là khía cạnh tiền gửi tiết kiệm. Khía cạnh thích sử dụng đồng USD thì dễ giải thích hơn nhiều. Nếu trong một chuyến công cán, một người cần chi tiêu khoảng 30 triệu đồng, thì người đó cần phải mang theo 60 tờ 500.000 hoặc 300 tờ 100.000. Nhưng nếu mang bằng USD chỉ cần khoảng 20 tờ 100 đô, nếu bằng ơ rô chỉ cần 3 tờ 500 EUR. Rất là tiện lợi, ở đâu cũng chấp nhận, cũng có thể đổi được. Hơn thế nữa, một vài trăm triệu, nếu dùng tiền đồng thì phong bì nào cho vừa. Nhưng, đối với ngoại tệ, chỉ cần một chiếc phong bì nhỏ nhỏ xinh xinh là đủ. Vừa gọn gàng, vừa lịch sự mà cũng không bị coi là nhà quê. Ngoài ra, trong hơn 30 tỷ USD nhập khẩu hàng năm, lượng hàng tiêu dùng chiếm một tỷ trọng rất lớn. Do khi mua hàng từ nước ngoài phải trả bằng ngoại tệ, nên khi bán, mặc dù có thể trả bằng tiền đồng, nhưng giá vẫn được yết bằng USD để tránh rủi ro tỷ giá. Và, nếu ai đã từng một lần ghé qua các trung tâm đào tạo có yếu tố nước ngoài thì học phí cũng đều phải tính bằng USD. Chính những điều này đã tạo ra tâm lý cho rằng việc mua bán được thực hiện bằng USD chứ không phải tiền đồng. Chừng đó nguyên nhân thôi cũng đủ để đồng đô la chiếm lĩnh một vị trí đáng kể trong các phương tiện thanh toán và làm cho tình trạng đô la hoá ngày một trầm trọng hơn. Giảm đô la hóa bằng cách chống tham nhũng Hai nhóm giải pháp cơ bản cần quan tâm đó là làm sao để công chúng chuyển từ tiền gửi bằng ngoại tệ sang VNĐ và cần phải giảm dần thói quen sử dụng tiền mặt bằng ngoại tệ. Đối với nhóm giải pháp thứ nhất, việc tạo lòng tin về một mức lạm phát ổn định và một tỷ giá ngoại hối linh hoạt là điều vô cùng quan trọng. Nếu không, với những biến động phập phù của lạm phát, sự
  6. kiểm soát tỷ giá tạo ra khoảng cách giữa thị trường chính thức và thị trường chợ đen hiện nay sẽ làm cho công chúng luôn lo sở rủi ro về tỷ giá và lạm phát cao. Khi đó rất khó thuyết phục để công chúng chuyển từ ngoại tệ sang VNĐ. Đối với nhóm giải pháp thứ hai, ngoài việc xây dựng một hệ thống ngân hàng, hệ thống đại lý đổi ngoại tệ rộng khắp, mang lại sự tiện lợi cho công chúng, áp dụng những biện pháp hành chính mạnh đối với những nơi vi phạm quy định yết giá... một giải pháp quan trọng khác là cần giảm lượng cầu về ngoại tệ. Rất khó có thể thực hiện một nghiên cứu để xác định chính xác ở đâu trong nền kinh tế sử dụng tiền mặt bằng ngoại tệ nhiều nhất. Nhưng ở Việt Nam, ngoài kinh tế ngầm không thể kiểm soát như các nước khác thì tiền mặt bằng ngoại tệ được sử dụng để "bỏ phong bì" là một con số đáng kể. Do đó, giảm tham nhũng đôi khi lại là một giải pháp hữu hiệu nhất để hạn chế tình trạng đô la hoá của nền kinh tế. • Thảo Nguyên 1.Những tác động tích cực và tiêu cực của hiện tượng đô la hóa? Cho biết mối quan hệ giữa các chức năng tài chính và tiền tệ. (Chương 2) Đôla hóa là quá trình một nước bỏ hoàn toàn đồng nội tệ và thay vào đó sử dụng đồng tiền của nước khác ổn định hơn làm phương tiện thanh toán. Khái niệm đôla hóa thường gắn với đồng đôla, nhưng chúng cũng đúng với các ngoại tệ mạnh khác như đồng Euro, Yen, cũng gọi là đôla hóa. Đôla hóa chính thức xảy ra khi Chính phủ quyết định sử dụng một ngoại tệ cho tất cả các giao dịch kể cả giao dịch của Chính phủ lẫn giao dịch tư nhân. Trong trường hợp này đồng nội tệ sẽ biến mất, đôla Mỹ sẽ trở thành đồng tiền pháp định, và NHTW chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa. Toàn bộ chính sách tiền tệ hoàn toàn phụ thuộc vào Cục dự trữ liên bang Mỹ - FED. Đôla hóa phi chính thức còn được gọi là "đồng tiền thay thế" và hiện tượng này rất phổ biến ở các nước đang phát triển. Hiện tượng đôla hóa phi chính thức xảy ra khi đồng nội tệ mất giá mạnh và vì vậy người dân chuyển sang sử dụng và phụ thuộc vào đồng đôla trong các giao dịch mua bán và tiết kiệm cá nhân. Trong hầu hết các trường hợp, đôla hóa xảy ra là do những phản ứng trong các bất ổn kinh tế vĩ mô dẫn tới lạm phát tăng cao, lãi suất nội tệ tăng cao (kể cả lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực). Hậu quả là các doanh nghiệp chuyển sang vay đôla với lãi suất thấp hơn. Ngoài ra, do tình trạng bất ổn của đồng nội tệ, các nhà đầu tư chuyển sang đầu tư vào địa ốc và sử dụng đôla trong các giao dịch này. Kết quả là phần lớn nền kinh tế sẽ chuyển sang dùng đôla. Những tác động của hiện tượng đô la hoá Tình trạng "đô la hoá" nền kinh tế có tác động tích cực và tác động tiêu cực. a. Những tác động tích cực: - Giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ lạm phát cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. - Tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn.
  7. - Tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội nhập quốc tế - Hạ thấp chi phí giao dịch. - Thúc đẩy thương mại và đầu tư - Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức (thị trường hợp pháp) và phí chính thức (thị trường bất hợp pháp). b. Những tác động tiêu cực: - Ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô. - Làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ - Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ - Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Mối quan hệ giữa chức năng tài chính và tiền tệ ( bổ sung câu 1) “Tài chính” là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội, nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế này phát sinh trong phân phối các nguồn tài chính thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội. Tài chính là sự vận động của tiền tệ chỉ với 2 chức năng là phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ và với đặc tính riêng của tài chính trong phân phối là luôn gắn với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định.
nguon tai.lieu . vn