Xem mẫu

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU BAN ĐẦU GIẢI PHẪU CẤP MÁU  
VẠT DA CÂN MẠCH XUYÊN ĐÙI TRƯỚC TRONG  
Trần Thị Nga*, Nguyễn Anh Tuấn**, Hồ Nguyễn Anh Tuấn***, Nguyễn Mạnh Đôn***, Vũ Hữu Thịnh**, 
Trần Ngọc Lĩnh** 

TÓM TẮT 
Mở  đầu: Giải phẫu cấp máu của vạt trước trong đùi hiện nay còn gây tranh cãi. Nghiên cứu này nhằm 
mục tiêu xác định các mẫu mạch xuyên cho vạt và giải phẫu cấp máu của vạt đùi trước trong. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả bằng việc phẫu tích trên thi hài được xử lý bằng formalin tại 
khoa Giải Phẫu Trường ĐH YD TP HCM. Ba mươi đùi được phẫu tích (trên 6 xác nữ và 9 xác nam).Vị trí, 
đường đi, nguyên ủy của các mạch xuyên được xác định, đồng thời chiều dài, đường kính của chúng được đo 
đạc. 
Kết quả: Theo dữ liệu thu thập được trong nghiên cứu này, các nhánh xuyên cho vạt trước trong đùi chủ 
yếu tập trung ở 1/3 giữa đùi (47,7%). Phần lớn các mạch xuyên cơ – da (76,1%), có nguyên ủy từ ĐM đùi 
nông (80,7%). Chiều dài cuống mạch trung bình 6,82cm, đường kính cuống mạch trung bình 1,81 mm. 
Kết luận: (1) Đặc điểm giải phẫu cấp máu của vạt đùi trước trong rất thay đổi (nguyên ủy, đường đi, vị trí 
nhánh xuyên). Nguyên ủy nhánh xuyên tách ra từ các ĐM vùng đùi trước: ĐMĐ, ĐM ĐN, ĐM MĐN, vòng 
nối trên gối. Vị trí NX: mỗi đùi có ít nhất 2 NX cho vùng đùi trước trong, trong đó ít nhất 1 NX ở vùng 1/3 
giữa đùi. Các NX nhiều nhất ở vùng 1/3 giữa đùi. Đường đi: xuyên vách hoặc xuyên cơ‐ da. Xuyên vách hay 
gặp ở vùng 1/3 trên đùi. (2) Khả năng sử dụng trên LS: Luôn có ít nhất một mạch xuyên đủ lớn và đủ dài để 
thiết kế một vạt tự do. 
Từ khóa: vạt mạch xuyên da cân, vạt đùi trước trong, vạt mạch xuyên đùi trong 

ABSTRACT 
FASCIO‐CUTANOUS ANTEROMEDIALTHIGH PERFORATOR FLAP:  
AN ANATOMICAL STUDY IN FIRST STEP 
Tran Thi Nga, Nguyen Anh Tuan, Ho Nguyen Anh Tuan, Nguyen Manh Don, Vu Huu Thinh,  
Tran Ngoc Linh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 339 ‐ 343 
Introduction: The vascular anatomy of the anteromedial thigh flap has not been well defined. The purpose of 
this study was to determine the perforator patterns and vascular anatomy of the flap. 
Patients and methods: An anatomic cadaver study was perfomed at the Department of Anatomy, Ho Chi 
Minh  City  Medicine  and  Pharmacy  University.  Thirty  cadaver  limbs  (6  female  and  9  male).  We  take  the 
measurements of location, course and origin, length and diameter of the perforator. 
Results: According the data found in our study, these perforators can predominantly be found in the middle 
third  of  the  anteromedial  thigh  region  (47.7%).  Most  perforators  are  musculocutanous  (76.1%),  supplied  by 
superficial femoral artery (80.7%). The avearage of length pedicle is 6.82 cm,and the average of diameter pedicle is 
1.81 mm. 
Conclusion:  (1)  Vascular  anatomy  of  the  anteromedial  thigh  flap  is  variable  (regarding  origin,  course, 
* Bộ môn Tạo hình Thẩm mỹ, Đại học Y Dược TP HCM 
* Khoa – Bộ môn Tạo hình Thẩm mỹ, Đại học Y Dược TP HCM 
*** Bộ môn Giải phẫu, Trường ĐH Y Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: ThS. BS Trần Thị Nga
ĐT: 0908894568
Email: ngachir@yahoo.com 

Tạo Hình Thẩm Mỹ 

339

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

location  of  the  perforators).  •  Sources  of  perforators  are  from  femoral  artery,  superficial  femoral  artery,  lateral 
circumflex  femoris  artery  or  genicular  anastomosis.•  Location  of  perforators:  there  always  exists  at  least  two 
perforators in each thigh, at least one perforator of which is located at the middle one‐third of the medial thigh.• 
Course of perforators: go through musculocutanous or septocutanous. The septocutanous perforator is often in 
the  upper  one‐third  of  the  medial  thigh.  (2)  Clinical  application  capabilities:  there  always  exists  at  least  one 
perforator which is large and long enough to create a free flap. 
Keyword: perforator based fasciocutaneous flap, anteromedial thigh flap, medial thigh perforator‐based flaps 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong vài thập kỷ gần đây, rất nhiều các vạt 
mạch  xuyên  được  phát  hiện  và  sử  dụng  thông 
dụng trong lâm sàng như vạt DIEP, ALT, TAP… 
Vạt  AMT  là  vạt  da‐cân  dựa  trên  mạch  xuyên 
vùng đùi trước trong, được Song và cộng sự mô 
tả lần đầu tiên vào năm 1984(8). Tuy nhiên từ đó 
tới  nay,  các  báo  cáo  về  vạt  AMT  (vạt  đùi  trước 
trong) rất ít và cho kết quả không thống nhất về 
giải phẫu cấp máu. 
Ban đầu Song mô tả vạt AMT được cấp máu 
bởi  nhánh  xuyên  tách  ra  từ  một  nhánh  mạch 
máu không tên xuất phát từ các động mạch mũ 
đùi  ngoài(8).  Theo  Koshima  và  cs,  các  mạch 
xuyên cấp máu cho vạt AMT tách ra từ cácđộng 
mạchcơ  cấp  máu  cho  cơ  may  và  cơ  thon,  các 
nhánh cơ này đi ra trực tiếp từ động mạch đùi(3). 
Ao và cs lại cho rằng nhánh mạch cấp máu cho 
vạt  AMT  có  thể  tách  ra  từ  bất  kỳ  vị  trí  nào  từ 
động  mạch  đùi,  động  mạch  mũ  đùi  ngoài, 
nhánh  xuống  trong  hoặc  ngoài  của  mũ  đùi 
ngoài, nhánh không tên, hay từ một nhánh động 
mạchnhỏ đi vào cơ cấp máu cho cơ thẳng đùi(1). 
Theo nghiên cứu của Shimizu, các nhánh xuyên 
da cho vạt AMT không hằng định, chỉ xuất hiện 
ở  46%  các  trường  hợp(6).  Ngược  lại,  Thomas 
Schoeller lại cho rằng có một cuống mạch hằng 
định  đi  vào  vạt  AMT  ngay  tại  vị  trí  giao  nhau 
giữa  bờ  trong  cơ  thẳng  đùi  và  cơ  may(6).  Theo 
báo cáo của Chung‐Ho Feng và cs (2009): mạch 
xuyên của vạt đùi trong hằng định, xuất phát từ 
động mạch đùi nông(2). 
Để  làm  rõ  ràng  giải  phẫu  cấp  máu  của  vạt 
đùi trước trong, chúng tôi thực hiện đề tài “Bước 
đầu nghiên cứu giải phẫu cấp máu của vạt mạch 
xuyên da cân đùi trước trong” với mục tiêu: 

340

‐ Mô tả đặc điểm giải phẫu cấp máu của vạt 
đùi trước trong. 
‐ Nhận xét khả năng sử dụng trên lâm sàng 
của vạt đùi trước trong. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng 
Nghiên  cứu  được  thực  hiện  tại  khoa  Giải 
phẫu  Trường  Đại  học  Y  Dược  TP  HCM  trong 
thời  gian  từ  1/10/2010  đến  1/12/2012.  Mẫu 
nghiên  cứu  gồm  30  tiêu  bản  đùi  của  15  xác  đã 
được xử lý formol (6 nữ, 9 nam). 

Phương pháp 
Kẻ  đường  thẳng  nối  điểm  giữa  dây  chằng 
bẹn  đến  điểm  giữa  xương  bánh  chè.  Đường  kẻ 
này  chia  vùng  đùi  trước  làm  2  phần:  đùi  trước 
ngoài và đùi trước trong. Vùng đùi trong được 
giới  hạn  bởi:  phía  trên  bởi  nếp  lằn  bẹn,  phía 
dưới bởi đường ngang cách bờ trên xương bánh 
chè ba khoát ngón tay, phía ngoài bởi đường kẻ 
nói  trên,  phía  trong  bởi  đường  nối  từ  ngành 
dưới mu đến lồi cầu trong xương đùi. 
Vạt nhánh xuyên đùi trước trong là vạt dựa 
trên  nhánh  xuyên  nằm  trong  vùng  đùi  trước 
trong. Như vậy ranh giới của vạt có thể nằm lấn 
sang vùng đùi trước ngoài nhưng nhánh xuyên 
cho  vạt  phải  nằm  trong  giới  hạn  của  vùng  đùi 
trước trong. 
Từ  đường  rạch  da  trên  đường  chuẩn,  phẫu 
tích qua lớp cân sâu. Bóc tách từ ngoài vào trong 
tìm  các  mạch  xuyên  đi  vào  da.  Lần  theo  các 
nhánh  xuyên,  bộc  lộ  nhánh  xuyên  cho  đến  tận 
cuống mạch chính, nơi tách ra mạch xuyên. Ghi 
nhận  các  thông  số  về:  nguyên  ủy  mạch  xuyên, 
đường  kính  (ĐK)  mạch  xuyên  tại  nguyên  ủy, 
chiều  dài  cuống  mạch,  liên  quan  đường  đi  của 

Chuyên Đề Ngoại Khoa 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 

Nghiên cứu Y học

mạch xuyên và của cuống mạch chính. 
Các  số  liệu  thuthập  được  được  xử  lý,  tính 
toán theo công thức như sau: 
P=K/n*100. 
Trong đó K là số đạt hiệu quả nghiên cứu. 
n: tổng số nghiên cứu. 
Tính  số  trung  bình  (X)  và  độ  lệch  chuẩn 
(SD). 

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Phân bố các nhánh xuyên 
Kết  quả  khảo  sát  của  chúng  tôi  cho  thấy 
có109 nhánh xuyên cho vạt AMT được tìm thấy 
trên  30  tiêu  bản  đùi.  100%  các  tiêu  bản  đều  có 
nhánh xuyên cho vạt AMT. Số nhánh xuyên cho 
vạt AMT ở mỗi đùi trung bình là: 3,6±1,2 (nhánh 
xuyên).  Nhiều  nhất  là  6  nhánh,  thấp  nhất  là  2 
nhánh xuyên. 
Theo  kết  quả  nghiên  cứu  về  vạt  AMT  trên 
xác của tác giả P. Hupkens(3) thực hiện trên 9 xác, 
số  nhánh xuyên trung bình ở  vùng  trước  trong 
đùi  là  11,3±2,9  (nhánh  xuyên).  Kết  quả  này  cao 
hơn  nhiều  so  với  kết  quả  của  chúng  tôi.  Tuy 
nhiên  giới  hạn  vùng  đùi  trước  trong  trong 
nghiên  cứu  của  P.Hupkens  là  vùng  nằm  trong 
đường  nối  gai  chậu  trước  trên  đến  điểm  giữa 
xương  bánh  chè,  do  vậy  vùng  nghiên  cứu  của 
P.Hupkens  rộng  hơn  so  với  nghiên  cứu  của 
chúng tôi. 
Theo  tác  giả  Chung‐Ho  Feng(2),  luôn  có  1 
mạch  xuyên  hằng  định  ở  xung  quanh  điểm  C. 
Điểm C là điểm giao nhau của 2 đường A và B, 
trong đó A là đường kẻ nối gai chậu trước trên 
và lồi cầu trong xương đùi, B là đường nối điểm 
giữa  dây  chằng  bẹn  tới  điểm  giữa  xương  bánh 
chè. Tác giả thiết kế vạt đùi trong dựa trên mạch 
xuyên ở xung quanh điểm C này. Theo tác giả, 
vạt đùi trong là vạt dựa trên nhánh xuyên vách 
hoặc xuyên cơ‐da tách ra từ ĐM đùi nông. Tuy 
nhiên tác giả không nói rõ nếu mạch xuyên nằm 
ở nửa ngoài đường A và B thì có gọi là vạt đùi 
trong hay không. 

Tạo Hình Thẩm Mỹ 

 
Hình 1: Thiết kế vạt AMT theo tác giả Chung‐Ho 
Feng(3) 
Cách  chia  vùng  đùi  trong  nghiên  cứu  của 
chúng tôi gần giống với của tác giả Peirong Yu(9). 
Tác  giả  dùng  đường  rạch  nằm  trong  và  song 
song với đường AP (là đường nối gai chậu trước 
trên  tới  bờ  trên  ngoài  xương  bánh  chè),  cách 
đường này 1‐2 cm. Ở vùng giữa đùi, đường này 
gần  trùng  với  đường  nối  điểm  giữa  dây  chằng 
bẹn và điểm giữa xương bánh chè. 
Tác giả Peirong Yu khảo sát trên 100 mẫu và 
báo  cáo  rằng  có  21  trường  hợp  không  có  mạch 
xuyên cho vùng đùi trước trong. Tuy nhiên, đây 
là  khảo  sát  trên  lâm  sàng  qua  đường  rạch  1/3 
giữa đùi và siêu âm handdoppler nên khó có thể 
khảo sát được toàn bộ vùng đùi. 
Bảng 1: Phân bố các nhánh xuyên 
Vị trí nhánh
xuyên
1/3 trên
1/3 giữa
1/3 dưới

Tần suất (%) Số lượng (Tỷ Max –Min
lệ%)
15 (50%)
17 (15,6%)
2–0
30 (100%)
52 (47,7%)
4–1
26 (86,7%)
40 (36,7%)
2–0

Trên  mỗi  đùi  luôn  có  ít  nhất  một  nhánh 
xuyên. Các nhánh xuyên tập trung ở vùng 1/3 
giữa đùi (47,7%). Nhánh xuyên xuất hiện ở 1/3 
giữa  đùi  trong  100%  các  trường  hợp  được 
khảo sát.  
Theo  tác  giả  P.Hupkens  thì  trên  mỗi  phần 
ba  đùi  có  ít  nhất  2  nhánh  xuyên(3).Tuy  nhiên 

341

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014

như trên đã trình bày, giới hạn vùng đùi trước 
trong  trong  NC  của  P.Hupkens  rộng  hơn  của 
chúng tôi. 

đùi  trước  ngoài  (vạt  ALT)(8).  Trong  30  tiêu  bản 
của  chúng  tôi,  chỉ  có  4  tiêu  bản  có  đặc  điểm 
giống mô tả kinh điển này. 

Nguyên  ủy,  đường  đi,  liên  quan  của  các 
nhánh xuyên 

Bảng 2: Nguyên ủy các nhánh xuyên 

Nguyên ủy, đường đi của nhánh xuyên 
Phần lớn các trường hợp, nhánh xuyên có 
nguồn  gốc  từĐM  ĐN  (80,7%),  hay  gặp  nhất 
là  ĐMĐN  tách  ra  các  nhánh  nuôi  cơ  rộng 
trong, các mạch máu này nối với nhau trong 
cơ rồi từ đó cho các nhánh xuyên cơ‐da vùng 
đùi trước trong. 
Chỉ có 3 trường hợp mạch xuyên xuất phát 
từ  ĐMĐ,  trong  đó  có  2  trường  hợp  các  nhánh 
xuyên  phân  bố  ở  vùng  1/3  trên  đùi,  1  trường 
hợp  cho  nhánh  xuyên  ở  1/3  giữa  đùi.  Có  6 
trường  hợp  mạch  xuyên  tách  ra  từ  ĐM  MĐN. 
Một trường hợp ngay sau khi tách ra từ ĐMĐS, 
ĐMMĐN  cho  nhánh  xuyên  ra  vùng  đùi  trước 
trong.  Một  trường  hợp  nhánh  xuống  của 
ĐMMĐN  cho  nhánh  ra  vùng  đùi  trước  trong, 
sau đó mới đi tiếp để cấp máu cho vạt đùi trước 
ngoài. Bốn trường hợp còn lại nhánh xuống của 
ĐM MĐN cho nhánh xuyên  cấp  máu  vạt  ALT, 
sau đó mới xuyên cân vùng đùi trước trong. 

Nguyên ủy
ĐM ĐMĐ: 3
ĐM ĐN: 88
ĐM ĐS: 0
ĐM MĐN: 6
Khác (vòng nối quanh gối): 12
Tổng số: 109

Tỷ lệ
2,8%
80,7%
0%
5,5%
11,0%
100%

Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  chỉ  có 
4trường hợp trong  số  30  tiêu  bản  đùi  (13,3%), 
nhánh  xuống  của  ĐM  MĐN  tách  ra  nhánh 
xuyên cho vạt ALT, sau đó đi tiếp cấp máu cho 
vạt AMT. Chiếm 80,7% các trường hợp nhánh 
xuyên  cho  vạt  AMT  tách  ra  từ  ĐM  đùi  nông. 
Các  nhánh  xuyên  tách  ra  từ  ĐM  gối  xuống 
chiếm tỷ lệ 11,0%. 
Báo  cáo  của  tác  giả  Chi‐Cheng  Liang(5)  sử 
dụng  17  vạt  AMT  tự  do  trên  lâm  sàng,  thấy  8 
trường hợp AMT được nuôi bởi nhánh của ĐM 
ĐN, 4 trường hợp từ ĐM không tên không xác 
định được nguyên ủy, 3 trường hợp từ ĐMĐ và 
2 trường hợp từ ĐM MĐN.  
Ao  và  cs(1)  cũng  cho  rằng,  các  nhánh  xuyên 
da  cho  vạt  AMT  có  thể  tách  ra  từ  bất  kỳ  mạch 
máu  nào:  ĐMĐ,  ĐMMĐN,  nhánh  trong  hoặc 
ngoài của nhánh xuống hay từ ĐM cơ thẳng đùi. 

Liên quan của nhánh xuyên 
Các nhánh xuyên cơ‐da chiếm 76,1%, nhánh 
xuyên vách chỉ có 23,9%. 
Vùng 1/3 trên đùi trước trong, nhánh xuyên 
vách hay gặp hơn so với xuyên cơ –da, tuy nhiên 
ở vùng 1/3 giữa và 1/3 dưới đùi, nhánh xuyên cơ 
– da chiếm ưu thế. 
 
Hình 2: Mạch xuyên tách từ ĐMMĐN 
Kết  quả  nói  trên  khá  mâu  thuẫn  với  mô  tả 
ban đầu về giải phẫu cấp máu cho vạt AMT. Ban 
đầu Song mô tả vạt AMT được cấp máu bởi một 
nhánh  không  tên  tách  ra  từ  nhánh  xuống  của 
ĐM MĐN sau khi đã cho nhánh xuyên cho vạt 

342

Bảng 3: Phân bố nhánh xuyên cơ‐da và xuyên vách 
theo từng vùng 
Nhánh xuyên cơ –da
1/3 trên: 6
1/3 giữa: 41
1/3 dưới: 36
Tổng số: 83

7,2%
49,4%
43,4%
100%

Chuyên Đề Ngoại Khoa 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 
Xuyên vách
1/3 trên: 11
1/3 giữa: 11
1/3 dưới: 4
Tổng số: 26

Nghiên cứu Y học

trong  vùng  đùi  trước:  ĐMĐ,  ĐM  ĐN,  ĐM 
MĐN, ĐM Gối xuống 

42,3%
42,3%
15,4%
100%

Chiều dài nhánh xuyên 

Các mạch xuyên có chiều dài từ 2 đến 20 cm, 
trung bình 6,82± 3,43 (cm). 
Theo  nghiên  cứu  của  P.Hupkens:  chiều  dài 
mạch xuyên trung bình: 10,1±4,4 (cm). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi thì chiều dài 
mạch  xuyên  rất  dao  động.  Những  mạch  xuyên 
ngắn  thường  ở  vùng  1/3  trên  đùi,  tách  ra  trực 
tiếp từ ĐM ĐN. Tuy nhiên  những  mạch  xuyên 
này lại có đường kính lớn trên 1,5mm. 
Theo  quan  điểm  của  Yu,  nhánh  xuyên  cho 
vạt  ALT  có  2  nguồn,  từ  ĐM  xuyên  cơ  rộng 
trong(các  nhánh  này  có  thể  lần  tới  ĐM  MĐN) 
các nhánh tách ra từ ĐMĐ. Các mạch xuyên có 
nguồn  gốc  từ  ĐM  MĐN  dài  7  đến  15cm,  có 
đường kính tương đương với nhánh xuyên của 
vạt  ALT.  Còn  các  mạch  xuyên  tách  ra  từ  ĐMĐ 
thường  ngắn,  3‐5  cm  và  có  đường  kính  nhỏ  1 
đến 1,5 mm(9). 

‐  Vị  trí  NX:  mỗi  đùi  có  ít  nhất  2  NX  cho 
vùng đùi trước trong, trong đó ít nhất 1 NX ở 
vùng 1/3 giữa đùi. Các NX nhiều nhất ở vùng 
1/3 giữa đùi. 
‐  Đường  đi:  xuyên  vách  hoặc  xuyên  cơ‐  da. 
Xuyên vách hay gặp ở vùng 1/3 trên đùi.  
2  ‐  Khả  năng  sử  dụng  trên  LS:  Luôn  có  ít 
nhất một mạch xuyên đủ lớn và đủ dài để thiết 
kế một vạt tự do. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

4.

Như vậy kết quả của chúng tôi không tương 
đồng với kết quả của tác giả Yu. Tuy tác giả có 
cỡ mẫu lớn nhưng đây là khảo sát tên lâm sàng 
nên có thể bỏ qua một số vùng.  

6.

ĐK mạch xuyên 

7.

Đường kính mạch xuyên phân bố từ 0,8 đến 
3,5mm, trung bình 1,81±0,49 (mm). 
Kết quả gần giống kết quả của P. Hupkens .
Đường  kính  trung  bình  của  mạch  xuyên  là 
1,8±0,9 (mm). 

5.

8.

(3)  

KẾT LUẬN 
1 ‐ Đặc điểm giải phẫu cấp máu của vạt đùi 
trước  trong  rất  thay  đổi  (nguyên  ủy,  đường  đi, 
vị trí nhánh xuyên).  
‐ Nguyên ủy nhánh xuyên tách ra từ các ĐM 

9.

Ao  M,  Uno  K,  Maeta  M,  Nakagawa  F,  Saito  R,  Nagase  Y 
(1999).  De‐epithelialised  anterior  (anterolateral  and 
anteromedial)  thigh  flaps  for  dead  space  filling  and  contour 
correction  in  head  and  neck  reconstruction.  Br  J  Plast 
Surg;52:261267. 
Feng CH, Yang JY, Chuang SS, Huang CY, Hsiao YC, Lai CY 
(2010). Free medial thigh perforator flap for reconstruction of 
the  dynamic  and  static  complex  burn  scar  contracture. 
Burns.36(4):565‐71. 
Hupkens  P,  et  al  (2010).  Anteromedial  thigh  flaps:  an 
anatomical  study  to  localize  and  classify  anteromedial  thigh 
perforators. Microsurgery; 30(1): 43–9. 
Koshima  I,  Hosoda  M,  Inagawa  K,  Moriguchi  T,  Orita  Y 
(1996).  Free  medial  thigh  perforator‐based  flaps:  New 
definition  of  the  pedicle  vessels  and  versatile  application. 
Annals of Plastic surgery, Vol 37, No 5: 507‐515. 
Liang CC, Jeng SF, Yang JC, Chen YC, Hsieh CH (2013). Use 
of  Anteromedial  Thigh  Flaps  as  an  Alternative  to 
Anterolateral  Thigh  Flaps  for  Reconstruction  of  Head  and 
Neck Defects in Cancer Patients. Ann Plast Surg. 71(4):375‐9. 
Schoeller T, et al (2004). Free anteromedial thigh flap: clinical 
application and review of literature. Microsurgery, 24(1): 43‐8. 
Shimizu  T,  Fisher  DR,  Carmichael  SW,  Bite  U  (1997).  An 
anatomic  com‐parison  of  septocutaneous  free  flaps  from  the 
thigh region. Ann Plast Surg, 38(6):604–610. 
Song YG, Chen GZ, Song YL (1984). The free thigh flap: a new 
free  flap  concept  based  on  the  septocutaneous  artery.  Br  J 
Plast Surg, 37(2):149–59. 
Yu P, Selber J (2011). Perforator patterns of the anteromedial 
thigh flap. Plast. Reconstr. Surg, 128(3): 151‐157. 
 

Ngày nhận bài báo: 14/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 22/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 

 

 

Tạo Hình Thẩm Mỹ 

343

nguon tai.lieu . vn