Xem mẫu

Bài tập 1 trang 86 SGK Lịch sử 9

Sưu tầm một số thơ ca tố cáo tội ác của thực dân Pháp và quân phiệt Nhật đối với nhân dân ta thời kì này.

Hướng dẫn giải bài 1 trang 86 SGK Lịch sử 9

Đói:

Năm Ất Dậu tháng ba còn nhớ mãi 

Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương! 

Những thây ma thất thểu ngoài đường 

Rồi ngã gục không đứng lên vì… đói! 

Đói tự Bắc Giang, đói về Hà Nội 

Đói ở Thái Bình, đói tới Gia Lâm 

Khắp đường xa những xác đói rên nằm 

Trong nắng lửa trong bụi lầm co quắp 

Giữa đống trẻ chỉ còn đôi hố mắt 

Đọng chút hồn sắp tắt của thây ma; 

Những cánh tay gầy quờ quạng khua khua 

Như muốn bắt những gì vô ảnh, 

Dưới mái tóc rối bù và kết bánh 

Một làn da đen sạm bọc xương đầu 

Răng nhe ra như những chiếc đầu lâu 

Má hóp lại, răng hằn sâu gớm ghiếc 

Già, trẻ, gái, trai không còn phân biệt 

Họ giống nhau như là những thây ma 

Như những bộ xương còn dính chút da 

Chưa chết đã bốc xa mùi tử khí! 

Mùi nhạt nhẽo nặng nề kỳ dị 

Một mùi tanh, lộn mửa thoảng mà kinh 

(Mùi tanh hôi ám ảnh mãi bên mình 

Khiến cả tháng ăn không còn ngon bữa!) 

Những thây đó cứ xỉu dần tắt thở, 

Nằm cong queo mắt mở trừng trừng 

Trong con ngươi còn đọng lệ rưng rưng 

Miệng méo xệch nhưng khóc còn dang dở 

Có thây chết ba hôm còn nằm đó 

Ruồi tám phương bâu lại khóc vo vo 

Rồi ven đường đôi nhát cuốc hững hờ 

Đắp đệm với những nấm mồ nông dối 

Đói tự Bắc Giang, đói về Hà Nội 

Đói ở Thái Bình, đói tới Gia Lâm 

Rải ven đường những nấm mộ âm thầm 

Được đánh dấu bằng ruồi xanh, cỏ tốt 

Có nấm mộ quá nông, trơ hài cốt 

Mùi tanh hôi nồng nặc khắp không gian 

Sau vài trận mưa nước xối chan chan 

Ôi! thịt rửa xương tàn phơi rải rác! 

Tại Hà Nội cũng như bao tỉnh khác 

Những thây ma ngày lếch đến càng đông 

Đem ruồi theo cùng hơi hớm tanh nồng 

Rồi ngã gục khắp đầu đường cuối ngõ 

Thường sớm sớm cửa mỗi nhà hé mở 

Rụt rè xem có xác chết nào chăng! 

Từng chiếc xe bò bánh rít khô khan 

Mỗi sáng dạo khắp nẻo đường nhặt xác, 

Đó đây thò khô đét một bàn chân 

Hay cánh tay gầy tím ngắt teo răn 

Giơ chới với như níu làn không khí 

Như cầu cứu, như vẫy người chú ý 

Có hơi thở tàn thoi thóp chưa thôi, 

Có tiếng của mình, tiếng nấc những tròng ngươi 

Nhìn đẫm lệ người chôn người chưa chết! 

Bốn ngoại ô mở ra từng dãy huyệt 

Được lấp đầy bằng xác chết thường xuyên 

Ruồi như mây bay rợp cả một miền 

Chết! Chết! Chết! Hai triệu người đã chết! 

Họ là những người quê non nước Việt 

Sống cần lao bên ruộng lúa đồng khoai 

Lúa xanh rờn nhờ họ đổ mồ hôi 

Năm ấy, thuở Nhật Tây cùng đô hộ 

Chúng thi nhau cướp của dân ta 

Hết lúa rồi, hết sạch cả khoai ngô 

Hết củ chuối, hết nhẵn khô cả sắn! 

Ngày giáp hạt không còn chi gặm nhấm 

Đói cháy lòng đành nhá cả mo cau, 

Nhai cả bèo và nuốt cỏ khô dầu! 

Đói! Đói! Đói! Người nhao lên vì đói! 

Đói tự Bắc Giang, đói về Hà Nội 

Đói ở Thái Bình, đói tới Gia Lâm 

Tạm biệt quê hương lê gót âm thầm 

Trên rải rác mỗi nẻo đường đất nước 

Từng gia đình dắt díu nhau lê bước 

Đi lang thang mong sống tạm qua ngày 

Đợi lúa lên hương, bông trĩu đầu cây 

Hơn tháng nữa, sẽ hồi sinh, sẽ sống 

Nhưng đau đớn hỡi ơi là ảo mộng! 

Họ ra đi hi vọng có ngày về 

Nhưng chẳng bao giờ về nữa hỡi người quê 

Dần ngã gục khắp đầu đường xó chợ 

Cùng lúc ấy trên đường rộn rã 

Từng đoàn xe rộn rã thóc vàng tươi 

Thóc của dân đen thóc của những người 

Họ đang chết đói vì thực dân cướp thóc 

Thóc chúng cướp phần vung xài huy hoắc, 

Phần chúng đem đổ nát trong kho 

Ô đau thương chưa từng thấy bao giờ 

Trong lịch sử chưa bao giờ từng có 

Hai triệu người vì thực dân lìa bỏ 

Nước thân yêu, oan uổng chết đau thương 

Trong lúc đầy đồng bát ngát ở quê hương 

Lúa mơn mởn đang ra đồng trổ trái 

Lúa trĩu hạt vàng tươi say gấp bội 

Ngạt ngào hương thơm báo hiệu ấm no vui 

Nhưng người đi không về nữa than ôi! 

Lúa chín gục, chẳng còn ai gặt hái! 

Ta nhớ mãi cái thời kỳ đen tối 

Quên làm sao tội lỗi kẻ xâm lăng! 

Những con người không còn khóc được 

Quên làm sao mối thù hận không cùng! 

Quên sao được hai triệu người chết đói! 

Năm Ất Dậu tháng ba còn nhớ mãi 

Giống lạc hồng cực trãi lắm đau thương! 

Những thây ma thất thểu ngoài đường 

Rồi ngã gục không đứng lên vì… đói! 

Đói tự Bắc Giang, đói về Hà Nội 

Đói ở Thái Bình, đói tới Gia Lâm. 

(Bàng Bá Lân 5/1957)


Bài tập 2 trang 86 SGK Lịch sử 9

Hãy nêu nguyên nhân bùng nổ và ý nghĩa của hai cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì và binh biến Đô Lương.

 

Hướng dẫn giải bài 2 trang 86 SGK Lịch sử 9

Khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940) 

  • Nguyên nhân 
    • Ngày 22/9/1940, Nhật đánh vào Lạng Sơn, Pháp thua và rút lui qua Châu Bắc Sơn. Nhân cơ hội đó, Đảng bộ địa phương đã lãnh đạo nhân dân Bắc Sơn khởi nghĩa. 
  • Ý nghĩa 
    • Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng đã để lại nhiều bài học về khởi nghĩa vũ trang cho Đảng. Đặc biệt, trong cuộc khởi nghĩa, đội du kích Bắc Sơn được thành lập – Đây là lực lượng vũ trang cách mạng đầu tiên của ta. 

Khởi nghĩa Nam kỳ (23/ 11/ 1940) 

  • Nguyên nhân 
    • Tháng 11/1940, quân phiệt Xiêm đã khiêu khích và gây xung đột dọc đường biên giới Lào và Campuchia. Thực dân Pháp đã đưa binh lính người Việt và người Cao Miên sang làm bia đỡ đạn chết thay cho chúng. Sự việc này làm cho nhân dân Nam kỳ rất bất bình. 
    • Trước hoàn cảnh đó, Đảng bộ Nam kỳ đã quyết định chuẩn bị phát động khởi nghĩa và cử đại diện ra xin chỉ thị của Trung ương. Trung ương quyết định đình chỉ cuộc khởi nghĩa. 
  • Ý nghĩa: Chứng tỏ tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân Nam Bộ, sẵn sàng đứng lên chiến đấu chống quân thù . 

Cuộc binh biến Đô Lương (13/1/1941) 

  • Nguyên nhân 
    • Pháp bắt binh lính người Việt ở Nghệ An sang Lào đánh nhau với quân Xiêm. Trước sự tác động mạnh mẽ của các cuộc khởi nghĩa trong năm 1940, những binh lính người Việt trong quân đội Pháp ở đây đã bí mật chuẩn bị nổi dậy chống lại quân đội Pháp. 
    • Thể hiện tinh thần yêu nước của binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp

Ý nghĩa và bài học của ba sự kiện trên:

  • Ba cuộc khởi nghĩa trên thất bại là do kẻ thù còn quá mạnh, lực lượng cách mạng chưa được tổ chức và chuẩn bị đầy đủ. 
  • Tuy vậy, ba cuộc khởi nghĩa vẫn có ý nghĩa to lớn: 
  • Nêu cao tinh thần anh dũng, bất khuất của dân tộc Việt Nam. 
  • Đó là tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương. 
  • Để lại cho Đảng những bài học kinh nghiệm quý báu về chuẩn bị lực lượng và xác định thời cơ cách mạng, phục vụ cho việc lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tháng Tám sau này.

Để tham khảo toàn bộ nội dung các em có thể đăng nhập vào tailieu.vn để tải về máy. Ngoài ra, các em có thể xem cách giải bài tập trước và bài tập tiếp theo dưới đây:

>> Bài trước: Hướng dẫn giải bài 1,2 trang 80 SGK Lịch sử 9 

>> Bài tiếp theo: Hướng dẫn giải bài 1,2 trang 91 SGK Lịch sử 9 

nguon tai.lieu . vn