Xem mẫu

  1. Hồn ma trinh nữ (Phần 1) (MegaFun) - Cách nay lâu lắm rồi, ở xóm tôi, người ta hay kể lại một câu chuyện, một chuyện ma. Là chuyện ma, nhưng ẩn chứa đằng sau những tình tiết ghê rợn ly kỳ là một mối tình sâu thẳm. Hồi đó chúng tôi còn nhỏ lắm, đứa lớn nhất trong bọn cũng chỉ tám chín tuổi là cùng. Từ ấy đến nay đã bao nhiêu năm tháng lần lượt trôi qua. Cái xóm nhỏ ngày xưa - với những túp nhà mái ngói đơn sơ, với một khoảnh đất thật rộng có nhiều cây cao toả bóng, nơi đã từng chứng kiến gần như cả một quãng đời thơ ấu cùng bao trò chơi đùa của bọn trẻ nhỏ chúng tôi, với những bụi tre um tùm che giấu nhiều bí mật, đêm đêm tiếng mấy thân tre cọ vào nhau rít lên kẽo kẹt như tiếng ma đưa võng ru con, với cái chuồng ngựa, kề bên là một cái chõng tre rộng mà ở đó đêm đêm Già Bảy hay ngồi, vừa thỉnh thoảng khề khà nhấp một ngụm rượu trắng trong cái chai ba xị, vừa chậm rãi kể cho chúng tôi nghe những chuyện ma quỷ thần tiên, với một cây khế cổ thụ mà trên đó một cô gái đã treo cổ tự tử từ mấy chục năm về trước, đến bấy giờ vẫn còn làm đám con nít và cả những người lớn nhát gan mê tín nghe lòng gờn gợn một nỗi sợ sệt mơ hồ khi đi ngang dưới bóng cây um tùm rậm rạp của nó lúc đêm khuya vắng, với cái giếng nước mà thành giếng xây bằng đá xanh đã phủ đầy rêu xám, mỗi chiều dân trong xóm tụ tập ra đó để gánh nước, để chuyện trò tán tỉnh, cãi cọ, cười đùa...
  2. - Cái xóm nhỏ ấy đã biến mất không còn một chút tăm hơi, thay vào đó là những căn nhà hiện đại lạnh lùng vô cảm. Câu chuyện đó đã có nhiều người kể, mỗi người một kiểu, nhưng chỉ có Già Bảy là người kể hay nhất, và ông cũng chỉ kể một lần duy nhất. Những người khác phần lớn chỉ chú trọng thêu dệt, tô vẽ thêm vào những tình tiết ma quái rùng rợn, nhưng lời kể của họ không có đầu đuôi, không gây xúc động. Chuyện của Già bảy kể thì khác hẳn. Ông già lúc ấy chắc đã bảy mươi hơn, lưng đã hơi khòm, tóc râu đều bạc phơ phơ, nhưng vẫn còn mạnh lắm. Ông sống độc thân không vợ không con, làm nghề đánh xe thổ mộ. Con ngựa của ông chắc cũng già như ông, nhưng đôi khi nổi hứng, ông thắng yên cương rồi cưỡi nó phi nước kiệu vòng quanh khu xóm nhỏ. Con ngựa già tung những bước nom vẫn còn dẻo dai duyên dáng lắm. Còn ông thì tóc râu bay phấp phới, dáng dấp trông hiên ngang như một vị hiệp khách anh hùng. Ông đã kể cho chúng tôi nghe nhiều câu chuyện, nhiều lắm, nhưng nhiều chuyện đã nhạt nhoà trong ký ức của tôi. Ngót ba mươi năm rồi, câu chuyện vẫn còn bám
  3. mãi, đeo đẳng trong trí nhớ vốn không xuất sắc lắm và lộn xộn vô nguyên tắc của tôi là câu chuyện mà tôi vừa nói ở trên. Ngày càng lớn, tôi càng nhận ra vẻ đẹp bi thương tha thiết ẩn nấp dưới những tình tiết hoang đường ma quái khó tin, và cũng nhận ra Già Bảy chính là một nhân vật chính của câu chuyện đó. Bây giờ, xin bạn hãy thả trí tưởng tượng cùng tôi, để hoá thân thành những cô bé, chú bé con con, ngồi trên chiếc chỏng tre lớn quanh một ông già,trong một đêm mùa hạ nhiều gió và nhiều sao sáng. Dưới đất, cách dăm bước chân, là một đống un toả mùi khói hăng nồng ngan ngát. Đám trẻ con ấy sợ sệt ngồi nép sát vào nhau. Chúng đăm đăm nhìn những đốm lửa nhỏ thỉnh thoảng bùng lên trên đống un, lắng nghe giọng kể chuyện trầm trầm của ông già, hoà với tiếng những thân tre kẽo kẹt, tiếng gió lao xao trên những tàng cây, tiếng ếch nhái râm ran trong các vũng nước lầy, tiếng thở phì phò và tiếng gõ móng của con ngựa vào thanh chắn gỗ, lòng hồi hộp, mồ hôi lạnh tuôn ướt lưng áo, vừa sợ mà cũng vừa thích thú đến run người... ... Xóm này, hơn năm mươi năm về trước, mấy cháu à, là một khu rừng mai rậm rạp. Hồi ấy đất đai còn rộng mênh mông, nhà cửa dân cư ở miệt Chợ Lớn, Sài Gòn thì nhiều, còn vùng ngoại ô này, đi rã cẳng mới gặp đôi ba túp nhà tranh xiêu vẹo. Lúc lên đây, qua 1 còn trẻ lắm, chừng mười tám mười chín tuổi. Quê qua ở Cà Mau. Qua từ miệt Năm Căn theo đám thương hồ lên Chợ Lớn là để đi chơi cho biết, nhưng lên đây rồi, qua không thể quay về quê quán cũ được nữa. Số phận chắc đã gắn qua vào cái rừng mai của năm mươi mấy năm trước, giờ là cái xóm nhỏ này cho đến lúc lìa đời... Vậy đó, cái rừng mai này hồi đó không có nhà dân. Thi thoảng, chỉ có dân ở các vùng lân cận đến chặt vài nhánh mai đem về nhà chưng hay lên chợ bán vào dịp Tết. Thú rừng, như nai mễn, chồn cáo, lúc ấy còn nhiều vô kể. Lũ cọp thì đã dạt về
  4. mé rừng Đồng Nai, không còn ở gần đó, vì xe cộ người dân qua lai nhiều, nhộn nhịp. Chúng vốn không thích nơi đông đúc ồn ào. Năm đó có một người trạc trung niên tới dựng một túp lều tranh ở giữa rừng mai để trú ẩn. Ông là một nhà nho, một chí sĩ kháng Pháp gốc người miệt Vĩnh Long bôn đào sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại. Theo lời đồn đại, ổng giỏi lắm mấy cháu à, ổng là người tài kiêm văn võ, thơ phú của ổng đọc lên nghe muốn khóc, muốn xông pha chinh chiến, muốn làm một cái gì đó thật lớn lao. Còn võ nghệ của ổng thì khỏi nói, ổng múa kiếm loang loáng không thấy thân người đâu nữa, cái nhánh cây khế đằng kia, mấy cháu thấy hôn, cao cách mặt đất hơn ba thước, ổng vỗ đùi một cái là phi thân lên đứng trên đó như chơi... Ổng chạy lên vùng Gia Định mai danh ẩn tích, mang theo một cô con gái tuổi chừng đôi tám. Nghe đồn cô ta đẹp lắm. Đẹp mà thanh cao trong trắng dịu hiền, tỷ như nàng Kiều Nguyệt Nga mà qua đã kể cho mấy cháu nghe vậy đó. Hai cha con ở đó lần hồi, cô gái thêu khăn, nhà chí sĩ viết những bức câu đối hay vẽ những bức thư họa mang ra chợ bán kiếm tiền độ nhật. Cũng đồng dạo ấy, có một chàng trai tuổi chừng đôi chín làm lao công bốc vác ở bến Nhà Rồng. Việc làm thì cực khổ mà hay bị mấy thằng cai người Việt và người Pháp đánh đập chửi rủa vô cùng nhục nhã. Một bữa chiều, thằng cai Pháp đánh một người bạn của chàng, người đó đang bệnh nhưng không dám xin nghỉ nên làm việc uể oải. Nó đánh bạn của chàng thê thảm quá, chàng dằn lòng không được nên lượm một khúc cây xáng vô đầu nó. Nó ngã lăn quay bất tỉnh, còn chàng thì bỏ chạy tháo thân. Chàng chạy vô phương hướng, cứ thấy đường ngang ngõ tắt gì là cứ đâm vào, chạy mãi cho đến giữa khuya thì tới rừng mai. Chàng vừa mệt vừa đói, đã tính kiếm một cây nào đó lớn lớn một chút để trèo lên nghỉ đề phòng thú dữ, thì bắt gặp một ánh đèn le lói giữa rừng mai. Chàng lần mò đi tới đó, thì ra chính là túp nhà tranh của hai cha con nhà chí sĩ. Chàng đừng ở ngoài một lúc, lắng
  5. nghe động tịnh. Bên trong chợt có tiếng ngâm thơ sang sảng của nhà chí sĩ. Thơ rằng: Đêm nằm trằn trọc không an Tâm can uất nỗi giang san khốn cùng Một thời vùng vẫy dọc ngang Quét ngang ngọn kiếm bao thằng đầu rơi Hận đời sao nỡ trêu ngươi Để con quốc mãi bên trời lưu vong Đêm nay ta thắp hương lòng Nguyện còn hơi thở vẫn còn chí cao. Chàng trai nghe thấy mấy câu này, biết trong nhà là người có chí khí, yêu nước thương nòi. Chàng không còn e ngại nữa, bèn kêu cửa. Nhà chí sĩ bước ra, hơi kinh ngạc. Chàng bèn kể rõ đầu đuôi hoàn cảnh của mình. Nhà chí sĩ gật đầu mời chàng vào, gọi con gái sắp cơm rượu mời chàng. Từ đêm đó, chàng trai ở lại cùng hai cha con họ. Ngày thì chàng đốn củi mang vào chợ bán hoặc săn mấy con thú nhỏ để làm thức ăn, đêm thì học võ học văn do nhà chí sĩ thân truyền.
nguon tai.lieu . vn