Xem mẫu

  1. 1 Hoạt động sản xuất điện từ năng lượng tái tạo ở Việt Nam I. Khái niệm về năng lượng tái tạo  Trong cách nói thông thường, năng lượng tái tạo được hiểu là những nguồn   năng lượng hay những phương pháp khai thác năng lượng mà nếu đo bằng các  chuẩn mực của con người thì là vô hạn. Vô hạn có hai nghĩa: Hoặc là năng   lượng tồn tại nhiều đến mức mà không thể  trở  thành cạn kiệt vì sự  sử  dụng  của con người (thí dụ  như năng lượng Mặt Trời) hoặc là năng lượng tự  tái tạo  trong thời gian ngắn và liên tục (thí dụ như năng lượng sinh khối) trong các quy  trình còn diễn tiến trong một thời gian dài trên Trái Đất. II. Phân loại năng lượng tái tạo Việc sản xuất năng lượng điện tử  tái tạo chủ  yếu từ  các nguồn năng lượng  như: năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng đại dương, năng lượng   địa nhiệt,... Năng lượng Mặt Trời     Năng lượng Mặt Trời  thu được trên Trái Đất là năng lượng của dòng bức xạ  điện từ xuất phát từ Mặt Trời đến Trái Đất. Chúng ta sẽ tiếp tục nhận được  dòng năng lượng này cho đến khi phản ứng hạt nhân trên Mặt Trời hết nhiên  liệu, vào khoảng 5 tỷ năm nữa.  Năng lượng Mặt Trời cũng được hấp thụ  bởi thủy quyển Trái Đất và khí  quyển Trái Đất để  sinh ra các hiện tượng khí tượng học chứa các dạng dự  trữ năng lượng có thể khai thác được Năng lượng địa nhiệt  Năng lượng địa nhiệt là năng lượng được tách ra từ  nhiệt trong lòng Trái  Đất. Năng lượng này có nguồn gốc từ sự hình thành ban đầu của hành tinh,   từ hoạt động phân hủy phóng xạ của các khoáng vật, và từ năng lượng mặt  trời được hấp thụ tại bề mặt Trái Đất.  Năng lượng thủy triều
  2. 2   Trường hấp dẫn  không đều trên bề mặt Trái Đất gây ra bởi Mặt Trăng, cộng  với   trường lực   quán   tính   ly   tâm không   đều   tạo   nên   bề   mặt hình  elipsoit của thủy quyển Trái Đất(và  ở  mức độ  yếu hơn, của khí quyển Trái  Đất và thạch quyển Trái Đất). Hình elipsoit này cố  định so với đường nối  Mặt Trăng và Trái Đất, trong khi Trái Đất tự  quay quanh nó, dẫn đến mực  nước biển trên một điểm của bề mặt Trái Đất dâng lên hạ xuống trong ngày,   tạo ra hiện tượng thủy triều.  Sự nâng hạ của nước biển có thể làm chuyển động các máy phát điện trong  các nhà máy điện thủy triều. Về lâu dài, hiện tượng thủy triều sẽ giảm dần   mức độ, do tiêu thụ  dần động năng tự  quay của Trái Đất, cho đến lúc Trái  Đất luôn hướng một mặt về  phía Mặt Trăng. Thời gian kéo dài của hiện  tượng thủy triều cũng nhỏ hơn so với tuổi thọ của Mặt Trời. Thủy điện  Thuỷ điện là nguồn điện có được từ năng lượng nước. Đa số năng lượng  thuỷ điện có được từ thế năng của nước được tích tại các đập nước làm  quay một tuốc bin nướcvà máy phát điện. Kiểu ít được biết đến hơn là  sử  dụng năng lượng động lực của nước hay các nguồn nước không bị  tích bằng các đập nước như năng lượng thuỷ  triều. Thuỷ  điện là nguồn  năng lượng tái tạo.  Thuỷ điện chiếm 20% lượng điện của thế giới. Na Uy sản xuất toàn bộ  lượng điện của mình bằng sức nước, trong khi Iceland sản xuất tới 83%  nhu cầu của họ (2004), Áosản xuất 67% số điện quốc gia bằng sức nước  (hơn 70% nhu cầu của họ). Canada là nước sản xuất điện từ năng lượng   nước lớn nhất thế  giới và lượng điện này chiếm hơn 70% tổng lượng   sản xuất của họ.  Ngoài một số  nước có nhiều tiềm năng thuỷ  điện, năng lực nước cũng  thường được dùng để đáp ứng cho giờ cao điểm bởi vì có thể tích trữ nó  vào   giờ   thấp   điểm   (trên   thực   tế   các   hồ   chứa   thuỷ   điện   bằng   bơm   – pumped­storage hydroelectric reservoir ­ thỉnh thoảng được dùng để tích  trữ điện được sản xuất bởi các nhà máy nhiệt điện để dành sử dụng vào 
  3. 3 giờ  cao điểm). Thuỷ  điện không phải là một sự  lựa chọn chủ  chốt tại  các nước phát triển bởi vì đa số  các địa điểm chính tại các nước đó có  tiềm năng khai thác thuỷ  điện theo cách đó đã bị  khai thác rồi hay không  thể khai thác được vì các lý do khác như môi trường. Năng lượng gió  Năng   lượng   gió   là động   năng của   không   khí   di   chuyển   trong   bầu khí  quyển Trái   Đất. Năng lượng gió là một hình thức gián tiếp của năng  lượng mặt trời. Năng lượng gió được con người khai thác từ các tuốc bin  gió.  Trong số 20 thị trường lớn nhất trên thế giới, chỉ riêng châu Âu đã có 13  nước với Đức là nước dẫn đầu về công suất của các nhà máy dùng năng  lượng gió với khoảng cách xa so với các nước còn lại. Tại Đức, Đan  Mạch và Tây Ban Nha việc phát triển năng lượng gió liên tục trong nhiều   năm qua được nâng đỡ  bằng quyết tâm chính trị. Nhờ  vào đó mà một  ngành công nghiệp mới đã phát triển tại 3 quốc gia này. Năm 2007 thế  giới đã xây mới được khoảng 20073 MW điện, trong đó Mỹ  với 5244  MW, Tây Ban Nha 3522MW, Trung Quốc 3449 MW, 1730 MW  ở  Ấn Độ  và 1667 ở Đức, nâng công suất định mức của các nhà máy sản xuất điện  từ gió lên 94.112 MW. Sinh khối  Sinh khối là dạng vật liệu sinh học từ sự  sống, hay gần đây là sinh  vật sống, đa số là các cây trồng hay vật liệu có nguồn gốc từ thực vật.  Được xem là nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng sinh khối có thể  dùng trực tiếp, gián tiếp một lần hay chuyển thành dạng năng lượng  khác   như nhiên   liệu   sinh   học.   Sinh   khối   có   thể   chuyển   thành năng  lượng theo ba cách: chuyển đổi nhiệt, chuyển đổi hóa học, và chuyển  đổi sinh hóa. Nhiên liệu sinh học  Nhiên liệu sinh học là loại nhiên liệu được hình thành từ các hợp chất  có nguồn gốc động thực vật như  nhiên liệu chế  xuất từ chất béo của 
  4. 4 động thực vật, sản phẩm thải trong công nghiệp (mùn cưa, sản phẩm  gỗ thải...),...  Trước kia, nhiên liệu sinh học hoàn toàn không được chú trọng. Hầu   như  đây chỉ  là một loại nhiên liệu thay thế  phụ, tận dụng  ở  quy mô   nhỏ. Tuy nhiên, sau khi xuất hiện tình trạng khủng hoảng nhiên liệu ở  quy mô toàn cầu cũng như  ý thức bảo vệ  môi trường lên cao, nhiên   liệu sinh học bắt đầu được chú ý phát triển ở quy mô lớn hơn. III. Thực trạng sản xuất điện tư năng lượng tái tạo ở Việt Nam 1. Thủy điện nhỏ Thủy điện nhỏ (TĐN) được đánh giá là dạng năng lượng tái tạo khả thi nhất về  mặt kinh tế ­ tài chính. Căn cứ  vào các báo cáo đánh giá gần đây nhất, thì hiện  nay nước ta có trên 1.000 địa điểm đã được xác định có tiềm năng phát triển  TĐN, quy mô từ 100 kW tới 30 MW (với thế giới chỉ tới 10 MW), với tổng công  suất đặt trên 7.000 MW (đứng đầu các nước ASEAN), các vị  trí này tập trung   chủ yếu ở vùng núi phía Bắc, Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Hiện nay, có khá nhiều doanh nghiệp tư  nhân đã đầu tư  và vận hành hiệu quả  kinh tế  cao các trạm thủy điện nhỏ  tại một số  tỉnh như: Hà Giang, Lào Cai,   Nghệ An, Hà Tĩnh, Gia Lai… TĐN vẫn được coi là nguồn NLTT, hiện cung cấp 19% sản lượng điện của toàn  cầu. Công nghệ  TĐN cũng bao gồm tua bin thủy lực, máy phát điện như  thủy  điện vừa và lớn, nhưng thường chỉ sử dụng lưu lượng dòng chảy (run­of­river)  trên các nhánh sông nhỏ, hoặc suối để phát điện không cần đập và hồ chứa. 2. Năng lượng gió Nguồn điện gió sử  dụng luồng không khí (gió) đập vào cánh tua bin làm quay  máy phát điện. Nguồn điện gió cũng là nguồn điện xoay chiều như  thủy điện,   nhiệt điện. Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới chỉ ra rằng, Việt Nam là nước có tiềm năng   gió lớn nhất trong 4 nước khu vực, với hơn 39% tổng diện tích của Việt Nam 
  5. 5 được ước tính là có tốc độ gió trung bình hàng năm lớn hơn 6m/s, ở độ cao 65m,  tương đương với tổng công suất 512 GW. Đặc biệt, hơn 8% diện tích Việt Nam  được xếp hạng có tiềm năng gió rất tốt (tốc độ gió ở độ cao 65m 7 ­ 8 m/giây),  có thể tạo ra hơn 110 GW. Tiềm năng gió của Việt Nam ở độ cao 65m: Tốc   độ   gió   trung  Trung bình Tương đối cao Thấp  9m/s bình 6­7m/s 7­8m/s Diện tích (km2) 197.242 100.367 25.679 2.178 111 Tỷ lệ diện tích (%) 60,6 30,8 7,9 0,7 >0 Tiềm năng (MW) ­ 401.444 102.716 8.748 482 Vùng ven biển phía Nam nước ta có diện tích rộng khoảng 112.000 km2, còn khu   vực có độ  sâu từ  30m đến 60m, với diện tích rộng khoảng 142.000 km2 là khu  vực có tiềm năng phát triển điện gió biển rất tốt. Đặc biệt, khu vực biển có độ  sâu 0­30m từ Bình Thuận đến Cà Mau, rộng khoảng 44.000 km2. Theo số liệu gió tại Phú Quý, Côn Đảo thì vùng này đạt tốc độ gió trung bình ở  độ  cao 100m, đạt hơn 5­8m/s. Hiện nay, trang trại gió biển đầu tiên với công   suất gần 100 MW đã hoạt động và đang nghiên cứu triển khai các giai đoạn tới   năm 2025, lên tới 1.000 MW (tức gấp 10 lần). Cụ thể, các trang trại tua bin gió tại đảo Phú Quý và Bạc Liêu đã hoạt động tốt  và mang lại hiệu quả kinh tế cao, cơ hội thu hồi vốn khoảng hơn 10 năm, so với  tuổi thọ  tua bin 20 năm. Trang trại gió biển Khai Long (Cà Mau) xây dựng từ  tháng 1/2016, với công suất giai đoạn 1 là 100 MW. Trang trại gió biển hiện  đóng góp ngân sách cho các địa phương với nguồn thu  ổn định, như  tỉnh Bạc  Liêu (với 99 MW) đạt 76 tỷ đồng/năm, khi hoàn thành trang trại gió 400 MW sẽ  lên tới gần 300 tỷ  mỗi năm. Tỉnh Cà Mau, với 300 MW cũng sẽ  thu được hơn  200 tỷ/năm.
  6. 6 Theo thông tin từ  Bộ  Công Thương, mới đây, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam   (PVN) cùng với các nhà đầu tư từ Singapore, Liên bang Nga đã khởi động dự án   gió Kê Gà, trên biển Bình Thuận, với công suất 3.400 MW. Về diện tích chiếm đất, một máy phát điện gió công suất 2 MW chiếm diện tích   0,6 ha. Các máy phát điện phải đặt cách xa nhau khoảng 7 lần đường kính cánh   quạt của nó (ví dụ, với cánh quạt đường kính 80 m thì phải đặt cách nhau 560   m). 3. Năng lượng mặt trời Nguồn điện mặt trời (ĐMT) là cơ  cấu biến năng lượng từ  ánh sáng mặt trời  thành dòng điện một chiều, vì vậy, để  đấu nối nguồn ĐMT vào hệ  thống điện  xoay chiều tần số 50 hz cần phải lắp thêm các bộ nghịch lưu (invertor) để biến   dòng điện một chiều thành xoay chiều. Việt Nam có tiềm năng về nguồn năng lượng mặt trời, có thể khai thác cho các  sử dụng như: đun nước nóng, phát điện và các ứng dụng khác như sấy, nấu ăn... Với tổng số giờ nắng cao lên đến trên 2.500 giờ/năm, tổng lượng bức xạ trung   bình hàng năm vào khoảng 230­250 kcal/cm2 theo hướng tăng dần về phía Nam   là cơ sở tốt cho phát triển các công nghệ năng lượng mặt trời. Theo kết quả nghiên cứu đánh giá sơ bộ của Chương trình Trợ giúp năng lượng   MOIT/GIZ thì tổng tiềm năng kinh tế của các dự án điện mặt trời trên mặt đất,   nối lưới tại Việt Nam khoảng 20 Gigawatt (GW), trên mái nhà (rooftop) từ  2  đến 5 GW. Theo Quy hoạch điện VII (hiệu chỉnh) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt  thì công suất điện mặt trời đến của nước ta sẽ là 800 MW vào năm 2020; 4.000   MW vào 2025 và 12.000 MW vào năm 2030. Tuy nhiên, trong xu thế chi phí đầu  tư và tài chính cho các dự án điện mặt trời đang ngày càng giảm, theo thông báo  từ Bộ Công Thương, tính đến cuối năm 2018, các nhà đầu tư đã đăng ký tới hơn  11.000 MW điện mặt trời, chủ yếu tại các tỉnh phía Nam. Theo nguồn tin của Tạp chí Năng lượng Việt Nam, tỉnh Ninh Thuận đã chấp   thuận chủ  trương khảo sát cho 48 dự  án điện mặt trời, trong đó có 18 dự  án   được cấp quyết định chủ  trương đầu tư. Riêng Tập đoàn Thiên Tân, theo báo  
  7. 7 Nhật Nikkei (05/02/2018), đã có 5 dự  án tại tỉnh Ninh Thuận, từ  nay cho đến   năm 2020, với tổng trị giá gần 2 tỷ USD. Còn tập đoàn TTC đề ra kế hoạch xây   20 dự  án điện mặt trời, cho đến năm 2020, tại tỉnh Tây Ninh (324 MW), Bình   Thuận (300 MW), Ninh Thuận (300 MW)… Nhược điểm lớn của nguồn điện mặt trời là diện tích chiếm dụng đất, với 1,8  đến 2,0 ha cho 1 MW và do sự phụ thuộc nhiều vào thời tiết và vị trí lắp đặt của   các tấm pin mặt trời, cùng với việc phải lắp thêm thiết bị nghịch lưu nên khi dự  án được đấu nối vào hệ  thống điện quốc gia, độ  tin cậy và chất lượng điện  năng của hệ  thống sẽ  bị  suy giảm. Vì vậy, để  đảm bảo độ  tin cậy cung cấp   điện và chất lượng điện năng, hệ  thống cần được đầu tư  tăng cường nguồn   công suất dự phòng. 4. Năng lượng sinh khối Là một nước nông nghiệp, Việt Nam có tiềm năng rất lớn về nguồn năng lượng   sinh khối (NLSK). Các loại sinh khối chính là: gỗ  năng lượng, phế  thải ­ phụ  phẩm từ cây trồng, chất thải chăn nuôi, rác thải ở đô thị và các chất thải hữu cơ  khác. Nguồn NLSK có thể sử dụng bằng cách đốt trực tiếp, hoặc tạo thành viên  nhiên liệu sinh khối. Khả năng khai thác bền vững nguồn sinh khối cho sản xuất năng lượng ở Việt   Nam đạt khoảng 150 triệu tấn mỗi năm. Một số dạng sinh khối có thể khai thác  được ngay về  mặt kỹ  thuật cho sản xuất điện, hoặc áp dụng công nghệ  đồng  phát năng lượng (sản xuất cả điện và nhiệt) đó là: trấu ở Đồng bằng Sông Cửu  Long, bã mía dư thừa  ở các nhà máy đường, rác thải sinh hoạt ở các đô thị  lớn,   chất thải chăn nuôi từ các trang trại gia súc, hộ gia đình và chất thải hữu cơ khác  từ chế biến nông ­ lâm ­ hải sản. Hiện nay, một số nhà máy đường đã sử  dụng   bã   mía   để   phát   điện,   nhưng   chỉ   bán   được   với   giá   hơn   800   đồng/kWh   (4   cent/kWh). Cuối năm 2013, Bộ Công Thương đã trình Chính phủ xem xét cơ chế hỗ trợ sản   xuất điện từ  năng lượng sinh khối. Theo đó, mức giá cao nhất mà ngành điện   mua lại điện được sản xuất từ nguồn nguyên liệu sinh khối lần lượt là 1.200 ­  2.100 đồng/kWh. Mức giá như  đề  xuất trên sẽ  góp phần tạo động lực cho việc 
  8. 8 phát triển nguồn điện từ nguồn nguyên liệu sinh khối ở nước ta. Việc xây dựng  các nhà máy điện đốt rác thải cũng đang được quan tâm với mục tiêu giảm thiểu   ô nhiễm môi trường, đặc biệt tại các thành phố, đô thị  lớn. Hiện nay, tại nước  ta đã có một số  dự  án điện đốt rác đã đi vào hoạt động, hoặc đang được triển   khai xây dựng tại thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Hà Nam… 5. Năng lượng địa nhiệt Theo các chuyên gia địa chất, công nghệ  để  khai thác nguồn năng lượng địa  nhiệt không quá phức tạp. Cứ xuống sâu 33m thì nhiệt độ  trong lòng đất tăng 1   độ  C.  Ở  độ  sâu 60km, nhiệt độ  có thể  đạt tới 1.800 độ  C. Muốn khai thác địa  nhiệt  ở  vùng 200 độ  C, chỉ  cần khoan các giếng sâu 3 ­ 5km, rồi đưa nước  xuống, nhiệt độ trong lòng đất sẽ làm nước sôi lên, hơi nước theo ống dẫn làm  quay tua bin và máy phát điện. Mặc dù nguồn địa nhiệt chưa được điều tra và tính toán kỹ. Tuy nhiên, với số  liệu điều tra và đánh giá gần đây nhất cho thấy tiềm năng điện địa nhiệt trên đất   liền tại Việt Nam có thể khai thác khoảng 300 MW. Để  khuyến khích phát triển NLTT, năm 2017, Chính phủ  đã quy định giá mua  điện từ các dự án NLTT (theo giá feed in tariff ­FIT). Dưới đây là bảng tổng hợp  về cơ chế hỗ trợ hiện tại cho các dạng NLTT: Công nghệ Loại biểu giá Giá bán điện 598   –   663VND/kWh   (theo   thời   gian,   vùng,  mùa) Giá   chi   phí   tránh  Thủy điện nhỏ Sản xuất điện được công bố hàng302 ­320 VND/kWh (l   ượng  điện dư  so với  năm hợp đồng) 2158 VND/kW (giá công suất) 8,5 USc/kWh (on shore) và 9,8 USc/kWh (off  Điện gió Sản xuất điện Giá FIT 20 năm shore)
  9. 9 Điện   mặt   trời  Sản xuất điện Giá FIT 20 năm 9,35 USc/kWh nối lưới 5,8 USc/kWh Đồng phát Giá FIT 20 năm 7,5551USc/kWh (Bắc) Sinh khối Sản xuất điện Giá FIT 20 năm 7,3458 USc/kWh (Trung) 7,4846 USc/kWh (Nam) Đốt trực tiếp Giá FIT 20 năm 10,5 USc/kWh Rác thải Chôn   lấp   sản   xuất  Giá FIT 20 năm 7,28 USc/kWh khí IV. Một số  khó khăn và giải pháp trong hoạt động sản xuất điện từ  năng lượng tái tạo 1. Khó khăn Nguồn năng lượng mặt trời: Là nguồn năng lượng phong phú, xanh, sạch,   thân thiện với môi trường, nó có thể áp dụng  ở  bất cứ  nơi nào miễn nơi đó  có ánh sáng mặt trời. Chi phí thực hiện nguồn năng lượng này đang được  giảm nhanh chóng và dự kiến sẽ tiếp tục giảm trong những năm tiếp theo do  đó nó thực sự là một năng lượng tương lai đầy hứa hẹn cho cả khả năng phát   triển kinh tế và môi trường bền vững. Tuy nhiên nó bị giới hạn là phụ thuộc  vào thời tiết trong ngày và chỉ  hoạt động vào ban ngày, để  tạo được nguồn   điện lớn cần phải có một khu vực rộng lớn để đặt các tấm pin mặt trời, các   tấm pin này cũng rất dễ hư hỏng… Nguồn năng lượng gió: Là nguồn năng lượng thân thiện với môi trường xung  quanh, tua bin gió chiếm ít không gian hơn nên vùng đất xung quanh sẽ được  sử  dụng cho nhiều mục đích ­ ví dụ  cho nông nghiệp. Nó là một nguồn tài  nguyên tuyệt vời để  tạo ra năng lượng tại các địa điểm từ  xa như  các vùng  miền núi, nông thôn và hải đảo. Khi kết hợp với năng lượng mặt trời, nguồn 
  10. 10 năng lượng này sẽ  tạo được một lượng điện  ổn định và đáng tin cậy. Tuy  nhiên, yếu tố  gió không đáng tin cậy, lượng điện sản xuất ra rất thấp, hoạt   động của nó gây ra tiếng ồn, chi phí đầu tư lớn. Năng lượng thủy điện, là một nguồn năng lượng sạch, tạo được một nguồn  điện rất lớn cho nhu cầu an ninh năng lượng, góp phần phòng chống lũ cho   vùng hạ lưu, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội vùng núi, vùng dân tộc thiểu   số. Tuy vậy, việc khai thác thủy điện sẽ  làm mất rừng, mất diện tích đất  canh tác, làm thay đổi chế  độ  thủy văn, dòng chảy các lưu vực sông, mất   nguồn nước ngọt cho sinh hoạt và sản xuất, ảnh hưởng đến hệ sinh thái trên  sông,   tình   trạng   tái   định   cư   đối   với   những   người   dân   buộc   phải   di   dời   nhường đất lại cho công trình … Năng lượng sinh học: Là một nguồn năng lượng được tạo ra từ  các nguồn   như gỗ, các sản phẩm nông nghiệp và rác thải động thực vật. Việc phát triển  các loại cây trồng để tạo năng lượng sinh học có tác dụng làm giảm mức độ  carbon dioxide và tạo ra lượng oxy đáng kể  cho môi trường, giúp làm giảm   sự  nóng lên của trái đất. Quá trình tạo năng lượng sinh học từ  chất thải sẽ  loại bỏ đi các bãi chôn xử lý rác, giúp chúng ta tạo ra được nguồn năng lượng  có ích từ những rác thải. Tuy nhiên chi phí xây dựng của công trình là rất cao,  một số người không thích sử  dụng khí sinh học được sản xuất từ chất thải,   nhà máy khí sinh học tạo ra mùi khó chịu  cho môi trường chung quanh…. Năng lượng đại dương (Ocean energy): Có hai dạng năng lượng, năng lượng  nhiệt và năng lượng cơ học. Năng lượng cơ học được tạo ra từ thủy triều và   sóng, năng lượng nhiệt hoạt động dựa trên sự chênh lệch nhiệt độ giữa vùng  nước lạnh sâu và vùng nước  ấm trên mặt biển để  chạy một động cơ  sản  xuất ra điện. Đây là một dạng năng lượng sạch và tiềm năng rất lớn, Tuy   nhiên, chi phí hoạt động rất cao, và việc xây dựng  ảnh hưởng đến hệ sinh  thái biển. 2. Giải pháp Đặc thù của NLTT là sự  phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự  nhiên (nước,   nắng, gió, vị  trí địa lý…), công nghệ  và giá thành sản xuất. Do đó để  thúc  đẩy phát triển NLTT, Việt Nam cần có các chính sách hỗ  trợ  trên các mặt  sau: ­  Cơ chế hạn ngạch (định mức chỉ tiêu): Chính phủ qui định bắt buộc các   đơn vị sản xuất (hoặc tiêu thụ) phải đảm bảo một phần lượng điện sản 
  11. 11 xuất/tiêu thụ  từ  nguồn NLTT, nếu không sẽ  phải chịu phạt theo định  mức đặt ra theo tỷ lệ. Cơ chế này có ưu điểm là sẽ tạo ra một thị trường   cạnh tranh giữa các công nghệ  NLTT, nhờ  đó làm giảm giá thành sản  xuất NLTT. Cơ  chế  này giúp Chính phủ  chỉ  qui định hạn ngạch nhằm  đạt mục tiêu định ra cho NLTT, còn giá thành sẽ do thị trường cạnh tranh  tự  quyết định. Giá phạt được tính toán và đưa ra như  giới hạn trần cho   tổng chi phí ảnh hưởng tới người tiêu dùng. Nhược điểm của cơ chế này  là đơn vị  sản xuất sẽ  phải chịu những rủi ro và chi phí lớn ngoài khả  năng kiểm soát. ­    Cơ chế giá cố định: Chính phủ định mức giá cho mỗi kWh sản xuất ra   từ NLTT, định mức giá có thể khác nhau cho từng công nghệ NLTT khác  nhau. Thông thường là định mức giá này cao hơn giá điện sản xuất từ các  dạng NL hoá thạch, do đó sẽ  khuyến khích và đảm bảo lợi ích kinh tế  cho NLTT. Chính phủ  tài trợ  cho cơ  chế  giá cố  định từ  nguồn vốn nhà   nước hoặc buộc các đơn vị  sản xuất, truyền tải phải mua hết điện từ  nguồn NLTT. Tuy nhiên áp dụng cơ chế này, Chính phủ  không thể  biết  trước sẽ có bao nhiêu dự án NLTT được đầu tư, do đó không biết trước  được tổng chi phí cho cơ chế này trong ngắn hạn cũng như dài hạn ­   Cơ chế đấu thầu: Chính phủ sẽ đề ra các tiêu chí đấu thầu cạnh tranh,   có thể riêng cho từng loại công nghệ NLTT. Danh sách các dự án NLTT   sẽ  được lựa chọn từ  thấp đến cao cho đến khi thoả  mãn mục tiêu phát  triển đặt ra cho từng loại NLTT và được công bố. Sau đó Chính phủ,  hoặc cơ quan quản lý được uỷ quyền sẽ buộc các đơn vị sản xuất điện  bao tiêu sản lượng từ các dự án trúng thầu (có hỗ trợ bù giá). ­   Cơ  chế  cấp chứng chỉ: Với cơ  chế  này có thể  là chứng chỉ  sản xuất,   hoặc chứng chỉ  đầu tư, hoạt động theo nguyên tắc cho phép các đơn vị  đầu tư  vào NLTT được miễn thuế  sản xuất cho mỗi kWh, hoặc khấu   trừ vào các dự án đầu tư khác. Cơ chế này có ưu điểm là đảm bảo sự ổn  định cao, đặc biệt khi cơ  chế  này được dùng kết hợp với các cơ  chế  khác để tăng hiệu quả. Tuy nhiên, sự ổn định này phải được nghi rõ trên   văn bản về thời hạn cấp chứng chỉ. Hạn chế nữa là cơ chế này thiên về  ủng hộ  các đơn vị  lớn, có tiềm năng và nhiều dự  án đầu tư  để  dễ  dàng  khấu trừ thuế vào đó.  Kết luận
  12. 12  Với thực tế  nhu cầu năng lượng ngày càng tăng lên mà nguồn năng lượng  truyền thống ngày một cạn kiệt, Việt Nam với lợi thế là một trong những nước   nằm trong dãi phân bổ ánh nắng mặt trời nhiều nhất trong năm trên bản đồ bức   xạ  của thế  giới, với bờ  biển dài hơn 3.000km và  lượng  gió  tại  nhiều  vùng   miền   rất   dồi   dào, chúng ta cần nghiên cứu, tiếp   cận những công nghệ  mới  hơn, hiện đại hơn để  loại bỏ  được những nhược điểm của nguồn năng lượng   tái tạo và đưa chúng trở thành nguồn cung cấp năng lượng chính trong tương lai.
nguon tai.lieu . vn