Xem mẫu

TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 8 - Thaùng 2/2012


GIỌNG ĐIỆU CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975

BÙI BÍCH HẠNH(*)

TÓM TẮT
Thơ ca là tiếng nói khởi nguồn từ nhu cầu giãi bày của tâm hồn nghệ sĩ. Giọng điệu
chính là một phương thức bộc lộ rõ nhất những trạng thái cảm xúc của cái tôi trữ tình. Với
những biểu hiện đa dạng của cái tôi trữ tình, giọng điệu thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975
cũng mang nhiều sắc thái, cung bậc. Đội ngũ sáng tác trẻ đã cùng hoà giọng, tạo nên nền
thơ mang âm hưởng của một thời đại hào hùng. Khát vọng giải đáp những vấn đề nóng
bỏng của hiện thực chiến tranh, khám phá bản chất cuộc sống đã tác động đến giọng điệu
chung của cả nền thơ bấy giờ. Thế hệ nhà thơ trẻ có những bức chân dung tự hoạ với một
sắc giọng mang tầm vóc thời đại mới, tạo nên bản sắc sáng tạo riêng của thơ trẻ Việt Nam
1965 - 1975 trong nền thơ hiện đại.

ABSTRACT
Poetry is the voice of artists, which is created from the needs of expressing their
feelings. Tone is the mode which most clearly shows the emotional status of the lyrical ego.
With the multiform expressions of the lyrical ego, the tone of the Vietnamese youth poetry
of 1965 – 1975 carries many aspects and tones. Expressing the same voice, the young
poets at that time together created the poetical background of a magnanimous age.
Aspiration for answering the pressing problems of war reality and the discovery of the
nature of life affected the common tone of the poetry at that time. The generation of young
poets had their self-portraits with a tone of the new age’s stature, which created the
creativity of the Vietnamese youth poetry of 1965 – 1975 in modern poetry.

(*)
Với tâm thế cả thế hệ dàn hàng gánh thúc bách của thời đại và cũng chính từ nhu
đất nước trên vai, một lớp nhà thơ đã in dấu cầu tự thân bức bách. Với đội ngũ nhà thơ
đậm nét vào hành trình thơ của thế hệ đi trẻ, còn giao hưởng nào hơn giao hưởng
trước còn dang dở. Họ dấn thân vào cuộc Trường Sơn (Phạm Tiến Duật). Họ hướng
đời sáng tác với nguyện ước làm thơ ghi lấy vọng về những âm thanh thật, những mảng
cuộc đời mình (Hữu Thỉnh). Đó là lớp nhà màu thật, thậm chí những mảng màu tang
thơ đối mặt với chiến tranh và nếm trải bi tóc của chiến tranh. Chính thơ trẻ 1965 -
kịch chiến tranh - đội ngũ các nhà thơ trẻ. 1975 đã hoàn tất diện mạo thơ cách mạng
Họ đến với thơ bằng trái tim tự nguyện của Việt Nam 1945 - 1975, với giọng điệu hoà
lớp tuổi hai mươi, ba mươi xanh màu áo phối vào bản hùng ca của cả nền thơ mà
lính (Thanh Thảo). Trưởng thành từ sự vẫn giữ được những sắc giọng riêng tây
giằng xé mất mát trong chiến tranh, các cây không trộn lẫn. Các nhà thơ trẻ đã tiếp bước
bút trẻ mang vào thơ chất liệu bộn bề của chặng đường thơ cách mạng lớp trước, với
hiện thực. Họ đến với thơ ca như một sự những bản sắc thơ giàu cá tính sáng tạo và
những hồn thơ làm xáo động một thời. Nền
(*)
ThS, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng
BÙI BÍCH HẠNH


thơ 1965 – 1975 là nơi quy tụ đông đảo đội nhau” [3,74-75].
ngũ sáng tác trẻ sung sức, từ những vùng 1. GIỌNG HÀO SẢNG, NGỢI CA
miền khác nhau của Tổ quốc. Nếu thơ trẻ Là một yếu tố của thi pháp, giọng điệu
miền Bắc đã khắc dấu sắc cạnh vào nền thơ vừa có khả năng khu biệt sự độc đáo của
hiện đại, thơ vùng giải phóng cũng tạo từng phong cách vừa thể hiện tư tưởng
được nhiều phong cách riêng thì thơ thành nghệ sĩ. Giọng điệu chịu sự chi phối của
thị miền Nam cũng tạo dựng được những điểm nhìn nghệ thuật. Bởi điểm nhìn - cái
cá tính sáng tạo đáng ghi nhận. Tất cả sự nhìn nghệ thuật “thể hiện chiều sâu tư
góp mặt đó đã mang đến cho thơ trẻ 1965 - tưởng và sự nhạy bén của nghệ sĩ”. Vì thế,
1975 sự đa dạng của diện mạo cái tôi trữ thơ trẻ thể hiện sự phong phú của giọng
tình, vốn là một trong những phương diện điệu ứng với sự đa dạng điểm nhìn của chủ
quan trọng hình thành tiếng nói trữ tình của thể trữ tình. Khi cái tôi hướng đến cái nhìn
thơ ca. ngợi ca, tự hào trước chân dung đất nước
Giọng điệu trong văn học thể hiện qua và con người, giọng thơ hào sảng mang
lời văn nghệ thuật thấm đẫm cảm xúc, thái đậm chất sử thi. Đó là giọng thơ ngập tràn
độ của chủ thể trữ tình trước hiện thực cảm xúc của một tâm hồn phơi phới đang
cuộc sống. “Không thể có giọng điệu nếu mở lòng bắt nhịp thời đại. Với cái tôi
không có những rung động sâu sắc, những hướng nhìn về tầm vóc đáng tự hào của đất
nỗi đau, những xót xa trước thân phận con nước, giọng ngợi ca, hào sảng trở thành
người” [2,34]. Là phạm trù thẩm mĩ của “chủ âm”.
văn học, giọng điệu trong thơ trữ tình thấm Thơ ca kháng chiến vốn đã mang sắc
đẫm tính chủ quan và mang đậm cá tính giọng trân trọng, tự hào lịch sử oanh liệt.
sáng tạo của người nghệ sĩ. Chính vì vậy, Khi nhìn vào những đau xót trong quá khứ,
khám phá giọng điệu trữ tình là cách đi sâu thấm hiểu cái giá của máu và nước mắt cha
vào thế giới cái tôi trữ tình trong thơ trẻ ông, nghệ sĩ đã thể hiện sắc giọng hàm ơn.
1965 – 1975. Giọng điệu chính là “bản tự Đến thế hệ thơ trẻ, Nguyễn Khoa Điềm
thuật của tâm trạng”. Hữu Thỉnh từng dõng cũng cất dựng một hình tượng đất nước
dạc: Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời qua lăng kính ngưỡng vọng. Giọng thơ
mình. Bằng Việt cũng hùng hồn cùng tuyên không giấu nổi niềm tha thiết, tự hào về
ngôn: Cả thế hệ dàn hàng gánh đất nước hình tượng đất nước có từ trong truyền
trên vai. Lâm Thị Mỹ Dạ thể hiện chất thống: Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi
giọng vừa tự hào vừa đau xót trong một đâu ta cũng thấy/ Những cuộc đời đã hoá
tiếng lòng đồng điệu. Xuân Quỳnh lại ám núi sông ta… (Đất Nước – Trích trường ca
ảnh cùng những đam mê, tận tụy trong “Mặt đường khát vọng”). Nhà thơ mang
từng sắc giọng yêu thương. Trần Quang chất giọng tin yêu, trân trọng, hân hoan khi
Long da diết trong từng trăn trở. Ngô Kha nghĩ về cội nguồn của dân tộc: Ôi những
lại mang sắc giọng ám ảnh va siết về dòng sông bắt nước từ đâu/ Mà khi về Đất
những bi kịch chiến tranh… “Từ cảm hứng Nước mình thì bắt lên câu hát/ Người đến
chủ đạo đến giọng điệu thi ca, nhà thơ luôn hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác/ Gợi
cần phải hiện diện. Chính cái khác nhau trăm màu trên trăm dáng sông xuôi. Lưu
của những cái tôi trữ tình góp phần quyết Quang Vũ miên man trong miền cảm xúc
định tạo nên những tiếng nói thơ ca khác của người lính vừa vào quân ngũ, với niềm
GIỌNG ĐIỆU CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975


tự hào rạng rỡ. Tác giả đưa thơ vào vùng mưa… (Tiểu đội bộ binh trên chốt mùa
hân hoan, rạo rực. Giọng điệu thơ căng ra mưa - Nguyễn Đức Mậu). Đối mặt với nỗi
trong niềm vui lí tưởng cách mạng và lí đau dân tộc bị đọa đày lăng nhục, các nhà
tưởng cuộc đời: Con đường quê hương, thơ trẻ không đi ra khỏi mạch cảm hứng
con đường yêu thương/ Nối với vạn nẻo chung – rửa sạch nỗi đau hận thù. Giọng
đường đất nước/ Náo nức ngày đêm xe thơ như uất nghẹn, có lúc như vỡ ra trong
xuôi ngược/ Đi ra tiền tuyến xa gần âm hưởng căm hờn. Trong cái tôi dấn thân
(Những con đường). Với Phạm Ngọc Cảnh, và quả quyết hành động là sắc giọng của uy
giọng điệu hừng hực khí thế của tuổi trẻ gửi quyền, thách thức: Nào thép gai, ta xé thép
vào cả tình yêu dành cho đất Mẹ. Bao trùm gai!/ Nào xe Mĩ, ta đốt bùng xe Mĩ!/ Hồ sơ
cả tập thơ “Ngọn lửa dòng sông” là sắc quân sự học đường thì ta quăng vào lửa/
giọng của niềm hứng khởi, tự hào. Gần như Ảnh Thiệu, Ních - xơn ta vạch mặt, bôi vôi!
tác phẩm nào cũng được phả vào giọng hào (Xuống đường – trích trường ca “Mặt
sảng của thời đại chống Mĩ. Nghĩ về quá đường khát vọng”).
khứ của cha ông, giọng thơ rộn ràng trong Khi thể hiện lòng căm phẫn tột cùng
điệu hát; nhịp điệu câu thơ như dồn dập, thể đối với kẻ thù, thơ trẻ dấy lên giọng điệu
hiện cảm xúc không thể kiềm nén trước của những tình cảm hân hoan mãnh liệt về
tinh thần lạc quan đẹp đẽ của truyền thống một tương lai rạng ngời của dân tộc. Theo
cha ông: Nghìn đời cha ông/ Lưng bầm vai quan niệm của đội ngũ thơ trẻ, đặc biệt là
rát/ Một lưỡi cuốc cùn/ Một dây khố nát/ các cây bút trong lòng đô thị miền Nam,
Đạp lên gai rừng/ Vừa đi vừa hát/ Máu thơ ca là tiếng hát say sưa với niềm tự hào,
trộn đất bùn/ Gieo từng nắm hạt (Bài ca kiêu hãnh. Càng đau đớn, hi sinh, càng bội
pháo thủ). phần căm thù thì sắc giọng ấy càng thường
Giọng điệu trữ tình là biểu hiện rõ nét trực trong những trái tim rát bỏng căm thù:
nhất thế giới tâm hồn của người sáng tạo. Định mệnh con người không ở trong tay
Trong cái nhìn sử thi, không chỉ có nguồn thượng đế/ Tiền nhân dạy ta làm chủ đời
cảm hứng ca ngợi, cổ vũ mà xuất phát từ mình/ Trong gió heo may mùa thu thế kỉ/
tinh thần dân tộc, từ niềm kiêu hãnh về quê Có ai ngờ dân tộc đã vùng lên? (Mùa thu,
hương đất nước…, thơ trẻ 1965 – 1975 còn trên đường về - Đông Trình).
ngập tràn chất giọng sục sôi căm thù: Trận 2. GIỌNG NỒNG ẤM, TIN YÊU
gió lốc xoáy vào lòng khẩu đội/ Nín lặng, Chính cái tôi trữ tình ắp đầy khát vọng
cúi đầu, nghiến chặt hàm răng/ Một vòng đã tạo nên sắc giọng tin yêu đằm thắm
người – quấn một vòng tang! (Viên đạn trong thơ trẻ. Dẫu ngợi ca mang hơi hướng
căm thù – Phạm Ngọc Cảnh). Giọng căm của một thời đại cả đất nước lên đường ra
hờn khi đã lên đến cao trào, người đọc bắt trận, song người nghệ sĩ còn chuyển mạch
gặp trong thơ trẻ sắc giọng của sự quả cảm hứng hào sảng của một thời đại âm
quyết. Tiếng nói đầy khí thế khắc cả vào vang vào những niềm tin giản dị - đằm
những cung bậc thúc giục, vang dội của thắm mà cũng rất đỗi mãnh liệt. Đây chính
tinh thần thế hệ: Mưa gầm lên tưởng cuốn là sắc giọng tạo dựng được từ điểm nhìn sử
cả cây rừng/ Mây xám, mưa tuôn, kẻ thù: thi. Khi những cảm hứng hô hào, cổ vũ,
mưa lửa/ Trăm trận đánh đồi xanh thành thậm chí lòng căm giận đã lên đến đỉnh
đồi đỏ/ Thành màu cờ cháy rực suốt mùa điểm, con người thơ chạm vào những
BÙI BÍCH HẠNH


không gian của yêu tin, hứa hẹn. Giọng thơ Ngay cả tâm tưởng của con người khi
vì thế chuyển sang một gam khác, thể hiện hướng về khoảng kí ức ngày xưa cũng ấm
cái tôi đầy ắp niềm tin vào sự đổi đời của áp trong cái nhìn tin yêu. Giọng nồng ấm
dân tộc và sự thay đổi thân phận con yêu thương, dịu dàng tình mẫu tử trong thế
người: Đất đai cỗi cằn thì người sẽ nở hoa/ giới hồi tưởng của Hoàng Nhuận Cầm ắp
Hoa của đất, người trồng cây dựng cửa/ đầy những điều yên lành, xao động tâm tư.
Khi ta đến gõ lên từng cánh cửa/ Thì tin Tứ thơ mở ra một câu chuyện đẹp về hình
yêu ngay thẳng đón ta vào/ Ta nghẹn ngào, tượng người mẹ có tình yêu với cái chấm
Đất Nước Việt Nam ơi. (Đất Nước – nôi hiền thật bé, ở đó, giọng dịu ngọt là
Nguyễn Khoa Điềm). Thế giới nghệ thuật gam chủ đạo:
thơ Nguyễn Đức Mậu cũng bàng bạc giọng Cái chao nôi đủ thành con sóng bể
yêu tin, lời thơ như ngân nga trong nguồn Mẹ đã nghiêng nôi - chấm vào giữa
cảm xúc dâng trào về hình ảnh ngày vui trời xanh
chiến thắng, một ngày mai đất nước là Chấm theo cả những khát khao đẹp nhất
những bài ca: Cây phong lan giữa vùng Con ngước nhìn lên trời cao xanh
bom đạn, mơ ngày mai đôi bờ mở hội, ngút mắt
những khuôn mặt dáng người hồ hởi, cây Mẹ hiện ra như mây trời trong khúc
đàn vang vọng mãi âm thanh… hát đầu tiên
Trong tư duy thơ trẻ, điểm đến cuối (Má và mẹ)
cùng của những tình cảm quê hương, niềm Từ cảm hứng lạc quan, các cây bút còn
hướng vọng lớn lao nhất của con người tạo nên một cung bậc giọng điệu khác, làm
thời chiến là khát vọng đoàn tụ, viên thành. nên nét duyên cho thơ trẻ giai đoạn này.
Vì thế, trải trên khắp các tác phẩm thơ ca là Cái tôi trữ tình trong cái nhìn trẻ trung,
niềm tin. Trước sự tan rã, thảm bại của kẻ tươi tắn đã tạo nên giọng thơ tinh nghịch,
thù, giọng điệu yêu tin càng có chỗ để neo dí dỏm. Nguyễn Duy khám phá cái mái
đậu, chắp cánh cho hồn thi sĩ thăng hoa, về tăng của mình là một bầu trời vuông. Với
với bến đỗ của quan niệm nghệ thuật về một hồn thơ xao động, Hoàng Nhuận Cầm
cuộc sống, chiến tranh – không thế lực nào, cũng lắng lòng mình bắt gặp âm thanh của
không điều gì có thể xóa đi niềm tin của tiếng chim; thật lạ, thanh âm trở nên có
con người. Thơ trẻ bấy giờ mang sắc giọng dáng, có hình và có cả cái xôn xao của tâm
của lí tưởng sống vốn ăn sâu vào tâm thức hồn người lính: Mũ tai bèo khẽ nghiêng
của con người đã phải trả giá quá đắt cho nghiêng/ Nghe lăn lăn những tiếng chim
những tháng ngày tang tóc: Đạn bom giặc xuống hầm. Nguyễn Đức Mậu lại có cả
hãy trả lên đầu giặc/ Người Việt Nam hãy ngăn yêu thương cho mảnh trời riêng;
về với Việt Nam/ Đây bát cơm mẹ già đang giọng thơ thoảng niềm vui ngạc nhiên
đợi chờ con/ Đây đồng ruộng mênh mông trước những điều giản dị trong chiến
dang vòng tay đón/ Êm ấm làm sao, nghĩa trường: Người nằm nghiêng súng cũng nằm
đồng bào rộng lớn/ Tha thiết làm sao tiếng nghiêng/ Người ngồi ngủ, súng ôm ghì
gọi quê hương/ Khoác súng lên vai, kèn trước mặt (Đơn vị ngủ rừng theo đội hình
trỗi lên đường/ Một đời mới khai sinh đánh giặc). Chính sự gắn bó cùng đời sống
mùa xuân mới (Bài ca khởi nghĩa - Trần chiến trận với cái nhìn của người trong
Quang Long). cuộc mà chất giọng lạc quan pha chút dí
GIỌNG ĐIỆU CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975


dỏm nhẹ nhàng như thế đã tự nhiên đi vào chiến/ Thấy trời xanh xao xuyến ở trên
thơ trẻ. đầu/ Ta vẫn thầm hái hoa tặng nhau (Bài
Không chỉ có niềm tin vào tương lai thơ tình yêu - Dương Hương Ly).
của cuộc chiến đấu, ngày mai của dân tộc Hầu hết vườn thơ tình yêu giai đoạn
hay khoảng kí ức của đời người mới là 1965 – 1975 ngào ngạt sắc hương của lời
mạch cảm hứng chủ đạo tạo nên sắc giọng tin yêu đằm thắm mà cũng không kém
yêu tin, khát vọng trong thơ trẻ Việt Nam phần da diết, không chỉ hứa hẹn mà còn là
1965 – 1975 mà nét trong trẻo, đằm thắm trao gửi yêu tin. Hướng về tình cảm lớn lao
trong những mối tình thời chống Mĩ cũng của dân tộc, những con người yêu nhau
nhen lên trong thế giới nghệ thuật thơ trẻ trong thời khốc liệt vẫn gieo vào nhau niềm
những âm sắc của giọng điệu nồng ấm, tin giản dị đến nao lòng. Ấp ủ trong những
khao khát. Tình yêu trong giai đoạn này trái tim yêu đằm thắm vẫn là khát vọng và
cũng thanh thoát, dịu nhẹ như không gian niềm tin cháy bỏng về một ngày mai gặp
chiều, trong giọng thơ đằm thắm: Chiều mặt. Dẫu muôn trùng cách trở song sự chờ
xuống cánh chim bay/ Như nụ cười thoáng đợi của họ vẫn là điểm đến của tình yêu:
gặp/ Như vầng trăng mới mọc/ Như mối Cơn dông là đôi mắt em cười/ Chiều lạ
tình mới yêu (Chiều - Lưu Quang Vũ). Hay quá, chiều ơi lay động mãi/ Giá lại phải
có khi chất giọng trong trẻo, da diết của băng qua trăm ngả đường phá hoại/ Thì
Lưu Quang Vũ lại bắt nhịp cho tác giả thổ hẳn chỗ cuối cùng, anh gặp vẫn là em
lộ những tâm sự kín đáo: Giấc mơ lạ về (Những đoạn thơ tình viết giữa hai cuộc
theo cơn gió lạ/ Cơn gió quen thầm thĩ giấc chiến tranh phá hoại - Bằng Việt).
mơ quen/ Cầm tay nhau run rẩy cả trời Với cái tôi trữ tình đa đoan, lật trở
đêm/ Trong mắt ướt một vì sao thoáng hiện nhiều nỗi niềm riêng tư thì giọng điệu bi
(Mùa gió). Chất giọng trong vườn thơ tình quan, giằng xé có khi chi phối hồn thơ
yêu của thời cả nước lên đường nhìn chung song không phải là nỗi buồn ám ảnh một
ấm áp, nồng nàn. Nỗi nhớ cũng phả nét đời. Đó chỉ là chặng đổ vỡ lòng tin tạm
thanh khiết, giản dị đến yên lòng: Nhớ em thời để về sau, lạc quan lại bừng sáng trong
khi đang sang sông/ Nghe em là sóng bập giọng điệu đậm chất suy tư. Khi đời tư đã
bùng đưa chân (Nhớ - Nguyễn Duy). lành lặn, giọng xốn xang hạnh phúc ngỡ òa
Dù trong hoàn cảnh chiến tranh, chia lên nức nở: Bỗng một ngày em tới em ơi/
cắt có khi là vĩnh viễn song hầu hết cái tôi Anh gặp biển khơi gặp nhà ga bóng mát/
trữ tình trong thơ trẻ chống Mĩ sống cùng Anh thấy chân trời tuổi thơ bát ngát/ Em
thế giới tình yêu với những cung bậc trong dạy anh nhìn cái thật của đời/ Hiểu bao
trẻo, đằm thắm, dịu nhẹ. Giọng thơ tình vì điều lòng anh vẫn non tươi/ Chẳng còn là
thế là hoà âm của những âm điệu dịu dàng, đám mây rách rưới/ Từ nay có nhau từ nay
thanh thoát. Với cái nhìn về tình yêu thuở không còn bóng tối (Những ngày chưa có
đầu trong sáng, lãng mạn, Dương Hương em… - Lưu Quang Vũ). Khi hạnh phúc tái
Ly – nhà thơ đại diện cho đội ngũ trên tiền sinh, giọng thơ ấm áp trong lời tâm niệm
tuyến lớn miền Nam – đã phối giọng trong hàm ơn cuộc sống: Chúng ta đi bên nhau
trẻo, khỏe khoắn vào những lời tình tứ: trên mặt đất/ Dẫu chỉ riêng điều đó là có
Một tiếng chim ngân/ Một làn gió biển/ thật/ Đủ cho anh mãi mãi biết ơn đời (Em -
Một sớm mai xuân trước cửa hầm dã Lưu Quang Vũ).
BÙI BÍCH HẠNH


3. GIỌNG NGHIỆM SUY, CHẤT VẤN trời đổ mưa/ tôi thấy người chị/ tay cầm
Mang tâm thế tự nghiệm, cái tôi trữ cây nhang/ với vầng mây cô đơn trải làm
tình trong thơ trẻ 1965 – 1975 luôn dằn vặt khăn chế/ tôi thấy người lính trẻ/ chĩa súng
và không nguôi đi tìm lời giải đáp về nhiều dài trên mặt nước/ với giòng sông/ tôi thấy
vấn đề bức thiết của đời sống chiến tranh, đứa bé mồ côi/ ngước nhìn ảnh cha/ với
nhất là vấn đề thân phận dân tộc, số phận tương lai trên chiến địa (Mùa đông chiến
con người, cái còn lại đằng sau những vinh tranh ở Huế - Ngô Kha). Những nghiệm
quang, mất – còn… Chính vì thế, bên cạnh suy về bức tranh xót đau của cuộc sống đạn
những sắc điệu hoan ca, lạc quan, đẫm yêu lửa có khi còn phối vào trong thơ trẻ âm
tin, thơ trẻ còn dành một khoảng ngẫm suy điệu của niềm bi quan, tuyệt vọng. Trở đi
trong sắc giọng suy tưởng, chất vấn. Ở đó, trở lại trong hồn thơ là nỗi ám ảnh về cái
cái tôi trữ tình trải nghiệm cùng những điều chết, về sự ra đi, về những âm thanh tức
lớn lao gắn chặt với sinh mệnh dân tộc, đến tưởi của con người. Đây là giọng điệu thể
những điều tưởng rất đời thường. hiện rất rõ cái tôi nếm trải đến tận cùng
Chiến tranh trong nhãn quan của thế hệ hiện thực đổ vỡ của chiến tranh. Giọng thơ
thơ trẻ đâu chỉ là đường ra trận mùa này chùng xuống nhưng cũng thao thiết với
đẹp lắm (Phạm Tiến Duật), không chỉ là niềm đau thấm thía. Giọng bi quan trải trên
chiến công thành điệp khúc suốt mùa thu hàng loạt hình tượng thơ đầy ám gợi: Bây
(Hoàng Nhuận Cầm) mà đó còn là tổn thất, giờ con sống đây/ Bên những người đã
thương tật, di chứng. Dù trong dòng chung chết/ Bên những người đang chết/ Cuộc
của thơ chống Mĩ, những ngẫm suy như thế sống mù lòa giữa mặt trời đen/ con mang
không phải là tư tưởng chủ đạo song đó là máng thấy mình còn sống/ Khi ngồi âm
sắc diện rất thật của cái tôi trữ tình. Trong thầm đếm nhịp trái tim/ Và con đếm nhịp
tư duy thơ trẻ miền Nam, hằn sâu vào cuộc trái tim/ Trong cơn hấp hối (Thưa mẹ, trái
sống là nỗi buồn chiến tranh. Cảnh tượng tim - Trần Quang Long).
chới với của con người bị bỏ lại phía sau Thơ trẻ dường như có một sự chuyển
những trận càn đã trở thành niềm đau dai đổi chất giọng trong trẻo hồn hậu sang bè
dẳng, đâu đâu cũng là dấu vết của thương trầm của giọng buồn. Dấu ấn đời tư có khi
tổn chiến tranh. Giọng điệu hẫng hụt gieo hằn vào thơ viết về dân tộc sự xót xa, hoài
vào những dòng thơ tự do với biên độ câu nghi… trong tuyệt vọng. Đó là giọng điệu
thơ dài ngắn đan xen càng tạo nên chất chất vấn trong niềm thổn thức của cái tôi
trầm buồn, day trở: giữa lòng quê/ cuộc trữ tình: Đến bao giờ Người mới được nghỉ
chiến bỏ quên người/ xe lăn đi/ đất mở ngơi/ Trong nắng ấm và tiếng cười trẻ
rộng cơn đau/ đường gai chạy qua đồng nhỏ?/ Đến bao giờ đến bao giờ nữa/ Việt
máu chảy (Hành trình - Ngô Kha). Nam ơi? (Việt Nam ơi - Lưu Quang Vũ).
Sự thật của cuộc chiến là những vành Trong hoàn cảnh chống chọi với những
khăn tang, những “vòng trắng”. Trong lòng cơn sốt rừng già, không ít người lính trong
đô thị miền Nam, với cái tôi thơ trẻ, sự thật thời chống Mĩ đã ra đi và bỏ lại đằng sau
nghiệt ngã về chiến tranh là những gì họ những lời đính hẹn dở dang, những mỏi
phải chứng kiến hàng ngày, là hình ảnh tội mòn trông đợi. Cái tôi ngẫm ngợi về sự ra
nghiệp của những con người hoảng hốt đi đột ngột của người lính trẻ, giọng thơ
trong nỗi đau vĩnh viễn mất người thân: khi buồn thương, tiếc hẫng: Gió đi giật cục
GIỌNG ĐIỆU CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975


bàng hoàng/ Mây đỉnh núi chít khăn tang kiếm suốt đời không tới đích (Di chúc tình
ngang trời/ Bao người yêu đã chết rồi/ Còn yêu – Lưu Quang Vũ). Khi cuộc sống là
đau chưa nói được lời yêu nhau (Người những ngày hứng chịu cái nghèo cay cực,
đang yêu - Nguyễn Duy). khi tiếng máy bay uy hiếp lưng trời, con
Nỗi đau mất mát không chỉ là câu người rơi vào cảm giác tủi phận trong tình
chuyện bi kịch chiến tranh mà đó còn là yêu. Nhà thơ không giấu nổi giọng cay
những thương tổn tinh thần, vì thế, có thể đắng xót lòng khi choáng hết tâm can là ám
thấy suy tư, trải nghiệm là chất giọng thể ảnh áo cơm:
hiện chiều sâu tư tưởng của đội ngũ thơ trẻ. Có tình yêu nào không cần cơm áo?
Thường xuất hiện trong thơ những câu hỏi Em ơi…
tu từ vừa như chất vấn vừa là tự vấn. Nhất Em đã thấy sáng nay từng mảng cuộc đời
là ở mảng đời riêng tư, giọng thơ đầy dằn Buộc vào nhau bằng những manh áo
vặt qua câu hỏi mang màu sắc hoài nghi, mỏng
trăn trở: Em nơi đâu? bao năm tháng qua Những bát cơm không đủ níu lòng
rồi/ Người ta bảo rằng em đã chết/ Người Đi giữa trời
ta bảo quên đi đừng phí sức/ Hãy chấp Rét mướt
nhận những vách tường có sẵn/ Em làm gì (Đi giữa rừng súng máy - Trần Phá Nhạc)
có thật mà mong (Thơ tình viết về một Sự thể hiện cái tôi trăn trở về số phận
người đàn bà không có tên III - Lưu Quang con người trong chiến tranh đã hình thành
Vũ). Có lúc đối mặt với không gian tròng trong thơ trẻ chất đằm sâu, trầm buồn; đậm
trành, hiểm trở, cái tôi như rơi vào vô tâm sự cá nhân mà giàu sức ám ảnh; nồng
vọng; giọng thơ buồn chao chát: Đây cửa nàn mà rất thâm trầm trên nền cảm xúc và
sông, nơi anh ra biển/ Nơi anh về. Mong suy tưởng.
anh được bình yên/ Được bình yên trở lại 4. GIỌNG ÂU LO, DỰ CẢM
cùng em/ Nhưng anh chỉ trở về trong Đến với thế giới riêng tư trong thơ trẻ
những ngày bão tố (Một vùng cửa sông - 1965 - 1975, người đọc không khỏi thảng
Xuân Quỳnh). Khi nỗi cô đơn và hụt hẫng thốt bởi vẫn phải đối diện với những góc
đã tột cùng thì con người mang vào thơ khuất bi kịch. Như đã khẳng định, đây
chất giọng tự trào. Nhưng chủ thể càng tỏ hoàn toàn không phải là trạng thái tinh thần
ra bất cần, giọng thơ lại càng cay đắng: chủ đạo của cái tôi thơ trẻ giai đoạn này,
Anh như thằng bờm/ Chẳng thiết trâu bò song chính sự xuất hiện của cái tôi chông
chẳng thiết lim/ Chỉ nhận nắm xôi cười chênh trong cảm giác tất cả như sắp không
ngặt nghẽo (Ngã tư tháng chạp - Lưu còn, sẽ mất trong thơ trẻ đã hình thành
Quang Vũ). Trong suốt hành trình rong thanh âm dự cảm xót đau.
ruổi giữa nhân gian, người nghệ sĩ vẫn Trong các nhà thơ nữ, phải nói Xuân
khắc khoải với những ước vọng không Quỳnh đã đi đến cùng những tiên cảm về
thỏa. Cái tôi đành gửi câu hỏi còn bỏ ngỏ hạnh phúc trần thế. Ngay trong chặng sống
về bản ngã đích thực của con người vào “di hạnh phúc, bình yên nhất, thơ chị cũng
chúc tình yêu”. Giọng thơ rơi vào nỗi rung lên những sắc giọng phấp phỏng,
mong mỏi kiếm tìm, đầy chất nghiệm sinh: chênh chao: Mùa thu nay sao bão mưa
Lẽ sống và lẽ chết của anh/ Ta đi mãi về nhiều/ Những cửa sổ con tàu chẳng đóng/
nhau tìm mãi bản thân mình/ Cuộc tìm Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm/ Em
BÙI BÍCH HẠNH


lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh (Tự hát). điều quá mỏng manh trong hành trình con
Cái tôi rơi vào trạng thái trơ trọi giữa người kiếm tìm hạnh phúc. Hay có thể
không gian đầy bão gió, không gian hoang khẳng định giọng điệu dự cảm, tiên liệu
lạnh. Giọng thơ chính là tiếng hớt hải của chính là âm bản của thăng trầm trong cuộc
chủ thể đi tìm mình trong cõi lòng sâu hút đời người nghệ sĩ đa đoan này. Đến với thế
của tình yêu. Bởi mang trái tim quá sức vì giới nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ, người
chăm chút yêu thương, bởi khát khao thâu đọc hẳn đến được vùng cảm xúc không
hết cõi nhớ cõi yêu về với thiên chức của bình lặng với giọng thảng thốt trong dự
người phụ nữ và cũng bởi mang trái tim đa cảm chia xa, giọng hối hả trước bao dự
đoan, thơ Xuân Quỳnh ăm ắp thanh âm dự định còn dang dở: Riêng lòng anh anh
cảm cách ngăn. Nhiều khi, người thơ không quên đâu/ Chỉ sợ trời mưa đổi mùa
không thể đặt hết niềm tin vào người mình theo gió/ Cây lá với người kia thay đổi cả/
yêu. Trong tôi là giọng đan cài mâu thuẫn. Em không còn màu mắt xưa (Anh chỉ sợ rồi
Nhớ mong rồi chất vấn, tự nhủ rồi lại tự trời sẽ mưa).
vấn: Dẫu nhớ em xa quá không gian/ Chớ Trong thế giới nghệ thuật thơ trẻ, thiên
thương em một mình vất vả/ Em ở đây bạn nhiên là đối tượng đồng hành với nhiều ẩn
bè đông đủ cả/ Anh đi con đường này ức của con người và đó cũng là khoảng
không anh? (Viết trên đường 20). Ngẫm không gian thành hình những dự cảm của
nghiệm trước cái chênh vênh của tình yêu người nghệ sĩ. Hồn thơ Nguyễn Duy cũng
diệu vợi, giọng thơ Xuân Quỳnh thao thiết từng khắc khoải trước cái phẳng lặng của
với nghìn nỗi lo âu: Anh, con đường xa ngày mai, giọng thơ thảng thốt trong nỗi
ngái/ Anh, bức vẽ không màu/ Anh, nghìn niềm khát gió: Trái đất sẽ ra sao khi một
nỗi lo âu/ Anh, dòng thơ nổi gió…/ Mà em ngày nào kia không còn gió nữa (Gửi từ
người đời thường/ Biết là anh có ở (Anh). vùng gió Phan Rang). Sống trong hiện thực
Có lẽ bản chất của tình yêu là khao máu và súng luôn là nỗi đe doạ kinh hoàng,
khát vươn đến sự hoàn thiện, vì thế trong những tưởng các nhà thơ trẻ trong lòng đô
những câu chuyện tình tứ giản dị, sáng thị miền Nam chỉ có thể trải mình trong cái
trong, người phụ nữ vẫn không giấu được tôi căm hận, oán thán; những tưởng xâm
cảm thức e ngại, thậm chí không hài lòng chiếm hết hồn thơ họ chỉ là những niềm
khi được người yêu bày tỏ lời khen. Điều đau chung đã ngấm lịm vào da thịt. Vậy
tưởng nghịch lí trong hồn thơ Lâm Thị Mỹ mà trong tiếng lòng chung đó, người nghệ
Dạ cũng trở nên có lí. Có lí một cách sĩ vẫn dành một góc nhỏ để trải nghiệm về
duyên dáng, nũng nịu. Cái tôi cứ thành thật trạng thái cô độc của hiện tại và xót xa hơn
trong giọng ưu tư, lo lắng: Em sợ lời khen là tiên liệu về một khoảng thời gian định
của anh/ Như sợ chiều về, hắt tối/ Nhiều mệnh. Giọng thơ chùng xuống, đẫm buồn
khi ngồi buồn một mình/ Trách anh sao mà song cái tôi vẫn gắng gượng trong sắc
nông nổi (Anh đừng khen em). giọng da diết nhớ. Giọng giằng xé của cái
Qua nhiều lần vay trả để có lại yêu tôi cô độc như lạc đi trong nước mắt của
thương, sau nhiều đổ vỡ, phải nói trong thơ chia li: Bây giờ những buổi chiều còn lại
trẻ Việt Nam 1965 – 1975, Lưu Quang Vũ một mình/ em có biết chăng đời tôi rồi sẽ
là nhà thơ đã để lại nhiều nhất những cung có một sớm mai nào/ ra đi không ngày trở
âm dự cảm, lo âu, phấp phỏng về những lại/ tôi vẫn nhớ em khi đêm tối về/ âm thầm
GIỌNG ĐIỆU CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975


khóc trong chiếu chăn/ những giọt lệ vàng tôi trữ tình, vốn được xem là biểu hiện sắc
thánh thiện như nước mắt chim khuyên nét của chân dung tinh thần thơ trẻ Việt
(Những buổi chiều một mình - Thái Ngọc Nam giai đoạn này.
San). Lê Văn Ngăn - cây bút của phong
trào học sinh sinh viên thành thị miền Nam
- cũng mang sắc giọng dự cảm chia xa
trong tình yêu. Trong hồn thơ của một
người đang rơi vào tuyệt vọng, mây trời u
ám là không gian của mòn mỏi đợi chờ:
Anh sẽ lui về thành thị cũ/ soi mắt em trong
tấm gương mờ/ ngó qua mái ngói mây trời
đục/ biết đến đêm này khuya có mưa (Bên
hồ Thuỷ Ngữ).
***
Tương ứng với từng biểu hiện của cái
tôi trữ tình, các nhà thơ trẻ lựa chọn những
hình thức biểu hiện phù hợp với thế giới
quan, nhân sinh quan và phong cách sáng
tạo của tác giả và thời đại. Sự lựa chọn thể
loại, sự sáng tạo nên những hiệu ứng thẩm
mĩ khá dụng công cho chất liệu ngôn ngữ
và đặc biệt là sự thể hiện nhiều cung bậc
giọng điệu đã đưa thế hệ thơ trẻ khám phá
sâu vào bản chất của cái tôi trữ tình giai
đoạn này. Thực tế chiến trường ác liệt và
không khí chiến đấu của những năm chống
Mĩ, cứu nước đã tạo điều kiện cho thơ trẻ
bắt nhịp với cảm hứng dân tộc. Trong dàn
hoà ca ấy, thơ trẻ đã xuất hiện nhiều nhiều
sắc giọng đa dạng, hợp thành giọng điệu
đặc trưng của nền thơ 1965 – 1975. Trong
đó, sắc giọng nghiệm suy, chất vấn, dự
cảm, âu lo đã tạo nên dấu ấn của một số
phong cách thơ và có phần đậm hơn trong
sáng tác của các nhà thơ trẻ thành thị miền
Nam. Song dù là giọng ngợi ca hào sảng,
giọng tin yêu đằm thắm, giọng suy tưởng
trầm buồn hay giọng tiên cảm xót xa thì bật
lên trên hết vẫn là chất đắm đuối trong
những hồn thơ mặn mà với hiện thực đời
sống. Giọng điệu trong thơ trẻ 1965 – 1975
góp phần khắc sâu hơn sự đa diện của cái
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945-1995 (Nhìn từ phương diện sự vận
động của cái tôi trữ tình), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
2. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội.
3. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
4. Roman Jakobson (2001), “Chủ âm”, Nghệ thuật như là thủ pháp, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
5. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
nguon tai.lieu . vn