Xem mẫu

  1. Chương 4. BẢO TỒN Ở CẤP QUẦN XÃ Bảo tồn các quần xã sinh vật nguyên vẹn là cách bảo tồn có hiệu quả nhất toàn bộ tính đa dạng sinh học. Có 3 cách bảo tồn quần xã sinh vật, đó là xây dựng các khu bảo tồn, thực hiện các biện pháp bên ngoài các khu bảo tồn và phục hồi các quần xã sinh vật tại các nơi cư trú bị suy thoái. 4.1. Các khu bảo tồn Một trong những bước đi cơ bản quan trọng nhất trong việc bảo tồn các quần xã sinh vật là chính thức thành lập các khu bảo tồn. Có nhiều định nghĩa về các khu bảo tồn, theo IUCN, một khu bảo tồn là: một vùng đất và/hay biển được thiết kế đặc biệt để bảo vệ và duy trì đa dạng sinh học và các nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa, được quản lý qua luật pháp hay các biện pháp hữu hiệu khác. Theo Công ước về Đa dạng sinh học (CBD) thì khu bảo tồn là: một vùng địa lý xác định, được chỉ định hay kiểm soát và quản lý để đạt được những mục tiêu bảo tồn cụ thể. Định nghĩa này được thừa nhận bởi 188 nước và rõ ràng là rất có trọng lượng, tuy nhiên so với định nghĩa của IUCN thì ít có giá trị hơn do không đề cập đến lĩnh vực văn hóa của các khu bảo tồn. Còn theo Chương trình con người và sinh quyển của UNESCO thì khu bảo tồn sinh quyển là: một vùng đất trên cạn, vùng ven biển hay trên biển được công nhận trên bình diện quốc tế trong việc xúc tiến và biểu hiện mối quan hệ cân bằng giữa con người và thiên nhiên. Theo Hiệp định về Bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên Đông Nam Á, Vườn Quốc gia là: khu vực tự nhiên rộng lớn đủ để các hệ sinh thái tự điều chỉnh và khu vực này về căn bản chưa bị con người chiếm cứ hay khai thác. (Stuart Chape, Mark Spalding et al., 2008). Có thể thành lập các khu bảo tồn theo nhiều cách, song có hai phương thức phổ biến nhất, đó là thông qua nhà nước (thường ở cấp trung ương, nhưng đôi khi có thể ở cấp khu vực hay địa phương) và các tổ chức bảo tồn hay cá nhân mua lại các khu đất đó. Các khu bảo tồn còn được hình thành bởi các cộng đồng truyền thống vì họ muốn giữ gìn lối sống của họ. Chính phủ ở nhiều nơi đã thừa nhận quyền sở hữu của các cộng đồng này đối với đất đai. Một khi vùng đất đã được bảo vệ thì cần phải có những quyết định cho phép con người được tác động lên đó ở mức độ nào. IUCN (International Union for the Conservation of Nature and Natural Resources) đã xây dựng một hệ thống phân loại các khu bảo tồn, trong đó định rõ các mức độ sử dụng từ nhỏ đến lớn. (N. Dudley, 2008). 68
  2. Phân hạng của IUCN và WCPA (World Conservation Protected Areas) về các khu bảo tồn và các mục tiêu quản lý như sau: I. Khu bảo vệ nghiêm ngặt (Strict protection) Ia. Khu bảo tồn thiên nhiên nghiêm ngặt (Strict Nature Reserve): các vùng bảo vệ chủ yếu dùng cho mục đích nghiên cứu khoa học và quan trắc; Ib. Khu hoang dã (Wilderness Area): là các vùng rộng lớn, ít bị biến đổi, được bảo vệ và quản lý để bảo tồn các đặc điểm tự nhiên hoang dã; II. Các vườn Quốc gia (National Park): bảo tồn các hệ sinh thái và giải trí; III. Bảo tồn các công trình tự nhiên (Natural Monument): bảo tồn các địa điểm tự nhiên, văn hóa nỗi bật, có giá trị; IV. Các khu quản lý loài và sinh cảnh (Habitat/Species Management Area): quản lý nơi ở và loài thông qua các hoạt động chủ động; V. Bảo vệ cảnh quan trên đất liền và trên biển: (Protected Landscape/seascape): các khu bảo vệ cảnh quan trên đất liền, vùng ven bờ hay trên biển có giá trị thẩm mỹ, văn hóa và sinh thái; VI. Quản lý tài nguyên khu bảo vệ (Managed Resources Protected Area): các khu bảo vệ được quản lý chủ yếu cho việc sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên. (N. Dudley, 2008) Mục tiêu quản lý tổng hợp đối với từng hạng mục được tổng kết như ở bảng 4.1. Bảng 4.1. Các mục tiêu quản lý trong các khu bảo tồn Các mục tiêu quản lý Ia Ib II III IV V VI Nghiên cứu khoa học 1 3 2 2 2 2 3 Bảo vệ thiên nhiên hoang dã 2 1 2 3 3 - 2 Bảo tồn da dạng di truyền và loài 1 2 1 1 1 2 1 Duy trì các dịch vụ môi trường 2 1 1 - 1 2 1 Các đặc điểm văn hoá, thiên nhiên đặc trưng - - 2 1 3 1 3 Du lịch và giải trí - 2 1 1 3 1 3 Giáo dục - - 2 2 2 2 3 Sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên - 3 3 - 2 2 1 Duy trì các thuộc tính văn hoá, truyền thống - - - - - 1 2 Chú thích: 1. Mục tiêu hàng đầu; 2. Mục tiêu thứ yếu; 3. Mục tiêu có thể áp dụng; - không áp dụng. 69
  3. 4.1.1. Các khu bảo tồn hiện có Khái niệm và thực tiễn của việc thiết lập các vùng tự nhiên và bán tự nhiên thành các khu bảo vệ riêng biệt hoặc hạn chế sử dụng, đã có từ rất lâu (bảng 4.2.). Bảng 4.2. Một số cột mốc lịch sử của việc hình thành các khu bảo tồn Thế giới Thời gian Sự kiện 10.000 BC Do nông nghiệp chuyển đổi mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, các cộng đồng địa phương nhận ra được những “vùng thiêng liêng đặc biệt” và bảo vệ chúng khỏi sự sử dụng của con người. 252 BC Hoàng đế Asoka ở Ấn Độ hình thành một khu bảo vệ các loài thú, chim, cá và rừng, có thể coi đây là khu bảo vệ tài nguyên đầu tiên của chính phủ. 1865 Yosemite (California) được quốc Hội Hoa kỳ thành lập, thực sự là mô hình đầu tiên cấp quốc gia về các khu bảo tồn. Yellowstone (1872) Vườn Quốc gia đầu tiên. 1882 El Chico National Park được thành lập, Vườn quốc gia đầu tiên ở Châu Mỹ La tinh. 1925 Angkor Wat, (Cambodia) Vườn quốc gia đầu tiên ở Châu Á. 1948 IUCN được thành lập, là công cụ thúc đẩy việc bảo tồn trên Thế giới. 1961 WWF được thành lập, là tổ chức phi chính phủ, tập hợp các hỗ trợ cho bảo tồn, đặc biệt từ quảng đại quần chúng 1968 Chương trình Con người và Sinh quyển của UNESCO, thiết lập các khu dự trữ sinh học (năm 2007 có 529 khu trong 105 nước, diện tích hơn 5 triệu km2.) 1971 Công ước RAMSAR được thông qua, (năm 2007 có 1.708 điểm, thuộc 157 nước thành viên, chiếm hơn 1,5 triệu km2) 1972 Hội nghị Thượng đỉnh Toàn cầu về Môi trường và Phát triển ở Stockholm, Thụy Điển, dẫn đến việc thành lập UNEP. 1982 Đại hội Các Vườn Quốc gia Thế giới lần thứ 3 tại Bali, Indonesia. Nhấn mạnh tầm quan trọng của các khu bảo tồn là nhân tố thiết yếu trong kế hoạch phát triển quốc gia. Mục tiêu là mỗi biome trên Thế giới phải được bảo tồn 10%. 1987 Tương lai chung của chúng ta (báo cáo Bruntland) báo cáo của ủy ban Liên hiệp Quốc về Phát triển bền vững. Kêu gọi sử dụng 12% diện tích đất cho bảo tồn và ủng hộ các hành động toàn cầu cho bảo tồn đa dạng sinh học. 1991 Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) được thành lập. 1992 Hội nghị Thượng đỉnh Toàn cầu, ở Rio de Janeiro, Brazil. Xuất bản Lịch trình 21 và chuẩn y CBD và Công ước khung về biến đổi khí hậu. 2002 Hội nghị Thượng đỉnh toàn cầu về Phát triển bền vững ở Johannesburg, Nam Phi. 2003 Hội nghị về Các Vườn Quốc gia Thế giới lần thứ V tại Durban, Nam Phi. Tập trung vào lợi ích bên ngoài các khu bảo tồn, nhấn mạnh lại về tầm quan trọng của các khu bảo tồn cho phát triển bền vững 70
  4. Do dân số tiếp tục tăng trưởng và tác động của chúng ta vào các nguồn tài nguyên trên Trái đất ngày càng tăng, không gian sống của chúng ta ngày càng giảm và tài nguyên thì suy thoái. Do vậy, việc bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng được nhận thức đầy đủ. Các khu bảo tồn cận đại đầu tiên được thôi thúc thực hiện bắt nguồn từ những tác động sinh thái rất rõ rệt của chế độ xâm chiếm và thuộc địa phương tây lên châu Phi, châu Mỹ, châu Á, châu Úc và hàng loạt các đảo ở dại dương. Các khu bảo tồn được thiết lập để bảo vệ phần còn sót lại của các hệ sinh thái bản địa đang biến dần thành nông trại, ruộng vườn và thành phố. Vườn Quốc gia Yellowstone được coi là vườn quốc gia chính thức đầu tiên được hình thành vào ngày 1 tháng 3 năm 1872 khi tổng thống Mỹ, Ulysses Grant chỉ định 800.000 ha ở vùng đông bắc Wyoming làm Vườn Quốc gia để bảo tồn và thoát ra khỏi việc định cư hay chiếm hữu. Đến cuối năm 2005, WCPA đã thống kê hơn 114.000 khu bảo tồn, chiếm hơn 19 triệu km2 hay 12,9% diện tích bề mặt Trái đất. Rõ ràng là bảo tồn thiên nhiên đã trở thành một trong những nỗ lực quan trọng nhất của loài người trên hành tinh. Vẫn còn sự chênh lệch đáng kể giữa các khu bảo tồn trên cạn và trên biển. Chỉ có 0,5% các vùng biển Thế giới với diện tích khoảng 1,7 triệu km2 nằm trong các khu bảo tồn. Trong số 191 Quốc gia có khu bảo tồn, 36 quốc gia có khu bảo tồn chiếm 10 - 20% diện tích đất đai, 24 Quốc gia có diện tích các khu bảo tồn lớn hơn 20% diện tích lãnh thổ (Stuart Chape, Mark Spalding et al., 2008). Bảng 4.3. Số lượng và diện tích các khu bảo tồn trên Thế giới đến năm 2005 Hạng Số lượng Tỷ lệ theo số Diện tích Tỷ lệ theo diện lượng (1.000 km2) tích Ia 5.549 4,6 1.048 5,5 Ib 1.371 1,3 1.015.512 5,4 II 4.022 3,8 4.413.142 23,6 III 19.813 19,4 275.432 1,5 IV 27.466 27,1 3.022.515 16,1 V 8.495 6,4 1.056.008 5,6 VI 4.276 4,0 4.377.091 23,3 Chưa phân hạng 43.304 33,4 3.569.820 19,0 Tổng 114.296 100,00 19.381 12,90% (Stuart Chape, Mark Spalding et al., 2008) 71
  5. Đến năm 2010, có trên 148.000 khu bảo tồn trên toàn Thế giới, chiếm 13% diện tích bề mặt Trái đất. Tuy vậy, các khu bảo tồn biển vẫn chỉ chiếm khoảng 7% diện tích nước vùng ven bờ (vùng nước mở rộng ra đến 12 hải lý) và 1,4% diện tích các đại dương. Mục tiêu mới về quy mô của các khu bảo tồn toàn cầu được thiết đặt từ các chính phủ trong Nghị định thư Nayoga, được đàm phán vào tháng 10 năm 2010. Nhiệm vụ là đến năm 2020, có khoảng 17% diện tích đất và nước nội địa cùng với khoảng 10% vùng ven bờ và đại dương là những vùng đặc biệt quan trọng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học và các dịch vụ sinh thái (UNEP, 2011). Các khu bảo tồn nghiêm ngặt (Ia và Ib) chiếm t lệ nhỏ, trong khi đó phân hạng II theo IUCN là các Vườn Quốc gia, mặc dù có số lượng không nhiều nhưng diện tích của các vườn rất lớn, phản ảnh một thực tế là các Vườn Quốc gia có xu hướng chứa đựng một vùng địa lý rộng lớn. Ngược lại, ở phân hạng III và một phần của phân hạng IV, có nhiều khu bảo tồn có kích thước nhỏ (hình 4.1.). Ia Phân hạng của IUCN Ib II III Diện tích IV Số lượng V VI Không phân hạng 0% 5% 10% 15% 20% 25% 30% 35% Hình 4.1. Các khu bảo tồn Thế giới theo IUCN 4.1.2. Các khu bảo tồn cộng đồng Các khu bảo tồn cộng đồng có thể được định nghĩa là "hệ sinh thái tự nhiên và biến đổi bao gồm đa dạng sinh học có ý nghĩa quan trọng, các dịch vụ sinh thái và các giá trị văn hóa” được các cộng đồng bản địa và địa phương liên quan, tự nguyện bảo tồn thông qua các luật tục, phương tiện hữu hiệu khác. Những sáng kiến này rất khác nhau về xuất xứ, mục đích và hình thức, nhưng có ba đặc điểm cần thiết để xác định:  Cộng đồng bản địa và địa phương có liên quan đều có liên quan về các hệ sinh thái nhất định - Nó thường có ý nghĩa quan trọng về văn hóa hay sinh kế;  Quyết định quản lý tự nguyện và nỗ lực của cộng đồng có hiệu quả trong việc bảo tồn môi trường sống, các loài sinh vật, các dịch vụ sinh thái, cùng với các giá trị văn hóa - mặc dù mục tiêu quy định của việc thực hành quản lý có thể không liên quan đến bảo tồn; 72
  6.  Cộng đồng bản địa và địa phương là những người nắm giữ quyền lực trong việc đưa ra quyết định và thực hiện các quyết định trong việc quản lý các hệ sinh thái. Ví dụ về các khu bảo tồn cộng đồng bao gồm: các địa điểm thiêng liêng ví dụ như rừng Kaya ở Đông Phi; quản lý cộng đồng đồng cỏ và rừng, như ở nhiều nơi trên Thế giới; nghề cá khu vực cộng đồng, chẳng hạn như nghề cá rạn san hô do cộng đồng quản lý phổ biến phần lớn miền nam Thái Bình Dương,... Các khu vực bảo tồn của cộng đồng có thể phục vụ nhiều chức năng quan trọng, như kho lưu trữ của các thành phần quan trọng của đa dạng sinh học, các hành lang bảo tồn liên kết các khu bảo tồn và cũng như các địa điểm có tầm quan trọng về văn hóa và kinh tế cho người dân địa phương. Các khu bảo tồn này có thể cung cấp các bài học có giá trị trong quản trị có sự tham gia của quan chức trong các khu bảo tồn, cung cấp các ví dụ về các hệ thống pháp lý nhiều cấp của việc bảo tồn, tích hợp các luật tục với luật định và thường được xây dựng trên hệ thống kiến thức sinh thái tinh vi, những yếu tố có tiềm năng ứng dụng rộng lớn hơn. Tuy nhiên, các khu bảo tồn này phải đối mặt với những thách thức quan trọng để tiếp tục tồn tại và tăng trưởng. Mặc dù có một lịch sử lâu đời, ở nhiều nơi trên Thế giới, các khu vực bảo tồn cộng đồng đang nhanh chóng bị suy thoái, do "phát triển" không thích hợp và "giáo dục" mới đang làm mất đi những hệ thống kiến thức đã từng quản lý các khu bảo tồn. Điều này càng trầm trọng hơn bởi xu hướng thực dân hay hệ thống chính trị tập trung làm suy yếu các thể chế truyền thống bằng giảm đi nhiều trách nhiệm và quyền hạn của cộng đồng. Thiếu công nhận chính thức thường cản trở những nỗ lực của cộng đồng để duy trì các khu bảo tồn, và ở những nơi chương trình khuyến khích được đưa ra, chúng thường thiếu nguồn nhân lực và vật lực. Thay đổi xã hội nhanh chóng có thể làm cho cộng đồng tự cảm thấy gắn bó ít hơn với các giá trị của khu bảo tồn, và có thể ưa thích chuyển đổi chúng thành một vài sử dụng thương mại. Thay đổi xã hội cũng thường dẫn đến sự phân hóa và bất bình đẳng ngày càng tăng trong cộng đồng, làm cho việc quản lý bền vững các khu bảo tồn cộng đồng, càng khó khăn hơn. 4.1.3. Tính hiệu quả của các khu bảo tồn Nếu như các khu bảo tồn chỉ chiếm một t lệ nhỏ trên Trái đất thì hiệu quả bảo tồn các loài của Thế giới được đến đâu? Các ví dụ sau đây sẽ minh họa hiệu quả tiềm tàng của các khu bảo tồn Ě Chính phủ Indonesia có kế hoạch bảo vệ các quần thể của những loài chim và linh trưởng bản địa trong hệ thống các Vườn quốc gia và khu bảo tồn của nước này. Mục tiêu nói trên sẽ đạt được nhờ vào việc tăng diện tích các khu bảo tồn từ 3,5% lên 10% so với tổng diện tích đất đai của cả nước. Ě Tại hầu hết các quốc gia nhiệt đới lớn vùng châu Phi, đa số quần thể của các loài chim bản địa là nằm trong các khu bảo tồn. Ví dụ Zaia có trên 1000 loài chim, 73
  7. thì 89% số loài xuất hiện trong các khu bảo tồn với diện tích chỉ chiếm 3,9% tổng diện tích đất đai của cả nước. Ě Một ví dụ điển hình về vai trò của các khu bảo tồn nhỏ đó là Vườn quốc gia Santa Rosa ở vùng Tây bắc Costa Rica. Vườn này chỉ chiếm 0,2 diện tích của Costa Rica song nó đã chứa tới 55% số lượng các quần thể của 135 loài bướm đêm của nước này. Những ví dụ trên đã cho thấy rõ rằng những khu bảo tồn được lựa chọn cẩn thận thì có thể nuôi dưỡng và che chở cho rất nhiều, nếu không nói là hầu hết, các loài của một quốc gia. 4.1.4. Những giá trị và lợi ích của các khu bảo tồn Ngoài việc góp phần cụ thể vào bảo tồn đa dạng sinh học, các khu bảo tồn còn có một số giá trị và lợi ích khác. Khái niệm về Tổng giá trị kinh tế (TEV) đã được sử dụng rộng rãi để chuyên đổi tất cả giá trị và lợi ích của các khu bảo tồn thành dạng kinh tế dễ hiểu (hình 4.2.). Tổng giá trị kinh tế TEV Giá trị sử dụng Giá trị không sử dụng Sử dụng Sử dụng Giá trị Giá trị Giá trị trực tiếp gián tiếp lựa chọn tồn tại kế thừa Hình 4.2. Các thành phần cơ bản của tổng giá trị kinh tế Mặc dù vậy, để có thể đánh giá lợi ích của các khu bảo tồn dưới dạng kinh tế, thì vẫn còn tồn tại một số vấn đề do có nhiều giá trị khó đánh giá về mặt kinh tế. Các tiếp cận đánh giá cũng cần xem xét khi đánh giá lợi ích các khu bảo tồn. Những sai khác về của cải vật chất giữa các cộng đồng và giữa các quốc gia khác nhau, nên trong khi đánh giá có thể dẫn đến những sai lệch. Các khu bảo tồn có thể là công ăn việc làm duy nhất ở một số vùng hoặc là nguồn cung cấp chất đốt, chất đạm trong bửa ăn hàng ngày của người dân địa phương. Chuyển các giá trị này thành đô la trên thị trường thì có vẻ rất nhỏ, nhưng mất mát các lợi ích này có thể là thảm họa cho người dân. 74
  8. USD/ha 7000 6000 5000 Nguyên trạng 4000 Chuyển đổi 3000 2000 1000 0 Đất ngập nước Rừng nhiệt đới Rừng ngập mặn Rừng nhiệt đới Canada Camerun Thailand Campuchia Hình 4.3. So sánh TEV của việc chuyển đổi mục đích sử dụng ở một số vùng trên Thế giới (Millennium Ecosystem Assessment, 2005) 4.1.4.1. Các giá trị sử dụng và lợi ích trực tiếp  Giải trí du lịch: đôi khi thường được biểu hiện đơn giản bằng khoản thu lệ phí của các khu bảo tồn. Thật ra, quan trọng hơn đó là sự kết hợp ảnh hưởng kinh tế của du lịch khu bảo tồn và kinh tế vùng bao gồm các chi phí di chuyển, ăn ở và các khoản chi tiêu khác. Các giá trị như thế cũng có thể được xem xét dưới dạng công ăn việc làm cho người dân địa phương.  Các sản phẩm thu hoạch: tùy thuộc vào mục tiêu quản lý, thông thường có thể cho phép khai thác bền vững và thu hoạch một số tài nguyên thiên nhiên trong các khu bảo tồn. Ví dụ như trong phân hạng V và VI của IUCN về các khu bảo tồn. Các hoạt động trong các khu bảo tồn này bao gồm chăn thả gia súc, câu cá, săn bắn, sử dụng các sản phẩm phi gỗ, khai thác nước ngọt và các nguồn gene.  Khai thác các nguồn tài nguyên không tái tạo: một vài hoạt động khai thác các nguồn tài nguyên không tái tạo trong các khu bảo tồn, điển hình là dầu mỏ và khoáng sản. Nhìn chung hoạt động này trái với khái niệm “bảo tồn và duy trì” gắn liền với định nghĩa về các khu bảo tồn. Có một số trường hợp mà quá trình khai thác có những tác động hạn chế và vật liệu khai thác có thể là không cần thiết đối với mục tiêu và chức năng của khu bảo tồn. Trong trường hợp như thế, lý lẽ về lợi ích kinh tế của quá trình khai thác có thể biện minh cho hoạt động này. 75
  9.  Nghiên cứu khoa học: các khu bảo tồn thường mang đến những cơ hội tốt nhất để hiểu rõ và giải thích các quá trình sinh thái tự nhiên. Cung cấp các cơ sở dữ liệu tự nhiên để đối chứng với những thay đổi trong các hệ thống môi trường tự nhiên, một vấn đề ngày càng nghiêm trọng trong thời kỳ thay đổi môi trường toàn cầu chưa từng thấy. 4.1.4.2. Giá trị sử dụng gián tiếp và giá trị lựa chọn  Ảnh hưởng khí hậu: các khu bảo tồn có vai trò trong việc duy trì khí hậu, bao gồm cả lượng mưa. Các khu bảo tồn cũng là những điểm rộng rãi, có vai trò trong quan trọng trong việc giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, với vai trò bể chứa carbon.  Cấp nước và chống xói mòn: các khu bảo tồn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lưu vực, bảo đảm việc cung cấp nước cho cộng đồng kế cận và ổn định đất dốc. Sự hiện diện của hệ thực vật tự nhiên, đặc biệt rừng và các vùng đất ngập nước, giảm thiểu được dòng chảy và có vai trò trong điều tiết lũ lụt. Các dịch vụ này bảo đảm cho việc cấp nước đối với các vùng phụ cận, giảm thiểu lũ lụt trong mùa mưa và hạn hán trong mùa khô.  Bảo vệ vùng bờ: bảo vệ các sinh cảnh như rừng ngập mặn, đụn cát, các rạn san hô rộng lớn vai trò trong việc bảo vệ vùng bờ. Duy trì hệ thống rừng ngập mặn có ý nghĩa rất lớn trong việc giảm thiểu tác động của sóng thần, như đã minh chứng trong đợt sóng thần năm 2004 ở Đông Nam Á.  Các ảnh hưởng sinh thái khác: các khu bảo tồn có những lợi ích rõ ràng cho các vùng đất và nước kế cận các khu bảo tồn. Đặc biệt đối với các quần xã sinh vật biển. Tình trạng xuống cấp của đại dương và sự suy thoái của nhiều ngư trường đã tạo nên một nhu cầu cấp thiết cho việc quản lý hiệu quả hơn đối với đa dạng sinh học biển, các quần thể khai thác và sự hưng thịnh chung của biển cả. Việc thiết lập các khu bảo tồn biển rất cần thiết trong việc quản lý bền vững nghề cá thông qua việc bảo vệ các nơi ở nhạy cảm và các loài, nguồn cung cấp mẫu chuẩn và hổ trợ nguồn lợi. Ví dụ một mạng lưới 5 khu bảo vệ nằm ở Đảo Quốc Saint Lucia (phía đông vùng biển Caribe, Đại Tây Dương), đã gia tăng nghề cá thủ công lên đến 49-90% ở khu vực rộng lớn cận kề, chủ yếu là câu cá.  Tại Tazania, săn bắn trộm và săn bắt voi không kiểm soát ở Vườn Quốc gia Tarangire đã làm gia tăng cây gỗ trong Vườn. Điều đó đã làm gia tăng số lượng ruồi tse-tse và thiệt hại vật nuôi của người dân địa phương. Bảo vệ voi có thể nâng cao năng suất công nghiệp vật nuôi!  Tài nguyên di truyền: các khu bảo tồn có vai trò là các khu bảo tồn tại chỗ các vật liệu di truyền, đó là các giống cây trồng vật nuôi hoang dại của bao đời người nông dân và là nguồn dược liệu. Mặc dù khó để tính toán được toàn bộ, nhưng các khu bảo tồn rất quan trọng trong việc duy trì tài nguyên lương thực và cung cấp các vị thuốc. Ví dụ như vào đầu những năm 1990, Viện Ung thư 76
  10. Hoa Kỳ đã xác định 3.000 loài thực vật có khả năng phòng chống bệnh ung thư, 70% các loài này ở rừng mưa nhiệt đới, được bảo vệ tốt trong những khu bảo tồn. 4.1.4.3. Những giá trị không thể thấy được WCPA đã định nghĩa về giá trị không thể thấy được “là những gì làm phong phú trí tuệ, tâm lý, cảm xúc, tinh thần, văn hóa, sự sáng tạo về cách sống và sự thịnh vượng của loài người”. Những giá trị như thế là nền tảng cho việc nhận thức và bảo tồn các nơi chốn đặc biệt của nhiều nền văn hóa khác nhau qua hàng thiên niên k . Các giá trị không thấy được của các khu bảo tồn là:  Giá trị giải trí: các đặc điểm của các khu bảo tồn tương tác với con người qua việc cải thiện, phục hồi hoặc tạo ra những kích thích và rèn luyện tâm trí và thân thể.  Giá trị tinh thần: là những đặc điểm của các khu bảo tồn truyền cảm hứng cho con người gắn liền đến việc tôn kính sự thiêng liêng của tự nhiên.  Giá trị văn hóa: các đặc tính có thể là xác thực hoặc không rõ ràng mà nhiều nhóm người, các tôn giáo, các cộng đồng truyền thống gán cho các khu bảo tồn, hoặc là các hệ thống giá trị đáp ứng các nhu cầu của con người để hiểu biết và kết nối với căn nguyên của môi trường và những phần còn lại của tự nhiên.  Giá trị nghệ thuật: các đặc điểm tự nhiên kích thích trí tưởng tượng, sự sáng tạo của con người.  Giá trị thẩm mỹ: nhận thức về ý nghĩa của sự hài hòa, vẻ đẹp và sự sâu thẳm của thiên nhiên.  Giá trị giáo dục: các đặc điểm tự nhiên làm sáng tỏ mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, mở rộng ra là mối quan hệ giữa con người với nhau, nhờ vậy tạo ra sự tôn trọng và hiểu biết.  Giá trị hòa bình: bao gồm chức năng của các khu bảo tồn trong việc cổ vũ ổn đinh và hòa bình trong khu vực, thông qua việc quản lý hợp tác quốc tế giữa các vùng biên giới trên đất liền hay trên biển. Đó là không gian của các nền văn hóa khác nhau vì sự phát triển và hiểu biết giữa các cộng đồng bản địa và xã hội hiện đại cũng như giữa các nền văn hóa riêng biệt và sự hòa bình giữa xã hội và tự nhiên. Biên giới của các khu bảo tồn có vai trò trong việc giải quyết hòa bình những xung đột giữa một số quốc gia trong thập niên qua. Nhận thức tầm quan trọng bề biên giới của các khu bảo tồn, WCPA đã đưa ra các hướng dẫn dựa vào các kinh nghiệm của các nhà quản lý trên khắp Thế giới.  Giá trị chữa bệnh: mối liên hệ giữa con người và thiên nhiên trong các khu bảo tồn tạo ra khả năng chữa bệnh và tăng cường sự khỏe mạnh cả về thân thể và tâm lý. (Stuart Chape, Mark Spalding et al., 2008) 77
  11. 4.1.5. Những tồn tại của các khu bảo tồn Mặc dù đã có những hiệu quả nhất định, các khu bảo tồn hiện nay trên Thế giới vẫn còn một số hạn chế như sau:  Hầu hết các khu bảo tồn có diện tích nhỏ, khó để duy trì sự sống còn của các quần thể động vật có xương sống kích thước lớn. Để hạn chế điều đó, có thể xây dựng các hành lang để liên kết các khu bảo tồn với nhau. Tuy vậy, trong thực tế chỉ có một số ít khu bảo tồn có các hành lang liên kết, còn phần lớn vẫn chưa thực hiện được do vấn đề này vẫn còn nhiều tranh cải.  Các khu bảo tồn có xu hướng nghiêng về các vùng đất có giá trị kinh tế thấp, ít có sự tranh chấp về việc sử dụng đất và các đơn vị hành chánh. Kết quả là các khu bảo tồn này không đại diện đầy đủ cho các hệ thực vật tự nhiên hay sự xuất hiện của loài.  Trong thực tế nhiều khu bảo tồn hoạt động rất ít hay hầu như không hoạt động (các “khu bảo tồn giấy”).  Mạng lưới bảo tồn hiện có được hình thành theo nguyên tắt hơi tĩnh, không đáp ứng được với những sự thay đổi về vùng phân bố của loài do sự thay đổi khí hậu. Sự thay đổi khí hậu là nguyên nhân gây ra sự thay đổi vùng phân bố của loài, điển hình là sự mở rộng dọc theo phạm vi ranh giới vùng này và thu hẹp ở các vùng khác. Tuy nhiên, khi các khu bảo tồn trở thành các vùng biệt lập về hệ thực vật tự nhiên do môi trường biến đổi, thường cách biệt với các khu vực khác bởi một khoảng cách tương đối xa, thì khả năng di chuyển của loài trở nên càng hạn chế. 4.2. Thiết lập các ưu tiên cho việc bảo vệ Do nguồn kinh phí có hạn, cần thiết phải thiết lập được các ưu tiên cho bảo tồn đa dạng sinh học và quan trọng nhất là bảo tồn loài. Câu hỏi được đặt ra ở đây là làm sao để có thể giảm thiểu sự mất mát của các loài với một nguồn tài chính và sức lực có hạn. Những câu hỏi có mối quan hệ tương tác lẫn nhau mà các nhà hoạch định công tác bảo tồn cần phải làm sáng tỏ là: cần phải bảo vệ cái gì, bảo vệ ở đâu và bảo vệ như thế nào. Có thể dùng 3 tiêu chí sau để lập ra các ưu tiên cho bảo tồn loài và quần xã. Ě Tính đặc biệt: một quần xã được ưu tiên bảo vệ cao hơn nếu ở đó là nơi sinh sống chủ yếu của nhiều loài đặc hữu quí hiếm so với quần xã chỉ gồm các loài phổ biến. Một loài thường có giá trị bảo tồn nhiều hơn nếu có tính độc nhất về phân loại học, tức loài duy nhất của giống hay họ, so với loài là thành viên của một giống có nhiều loài. Ě Tính nguy cấp: một loài đang có nguy cơ tuyệt chủng sẽ được quan tâm nhiều hơn so với những loài không bị đe dọa tuyệt chủng. Những quần xã sinh học mà đang bị đe dọa và sắp sửa bị tiêu diệt cũng cần được ưu tiên bảo vệ. Ě Tính hữu dụng: những loài đã có giá trị kinh tế hoặc tiềm năng đối với con người sẽ được ưu tiên bảo vệ nhiều hơn so với các loài không có giá trị rõ ràng. 78
  12. Loài rồng đất Komodo ở Indonesia là ví dụ về loài được ưu tiên bảo vệ theo cả 3 tiêu chí trên: nó là loài thằn lằn lớn nhất trên Thế giới (tính đặc biệt); chỉ xuất hiện trên một vài đảo nhỏ của một quốc gia đang phát triển nhanh (tính nguy cấp) và nó có tiềm năng lớn cho du khách cũng như là mối quan tâm lớn của các nhà khoa học (tính hữu dụng) (Richard B. Primack, 1995). Hình 4.4. Rồng đất Komodo 4.2.1. Các phương pháp tiếp cận về loài Có thể thành lập các khu bảo tồn để bảo vệ những loài độc nhất vô nhị. Nhiều khu vườn Quốc gia đã được hình thành để bảo vệ những loài thú lớn đẹp đẽ là những loài thu hút sự quan tâm của công chúng, có giá trị biểu trưng và tính quyết định cho du lịch sinh thái. Trong quá trình bảo vệ các loài này, toàn bộ các quần xã của hàng ngàn loài khác cũng được bảo vệ. Xác định và chỉ ra được những loài cần ưu tiên nhất là bước đầu tiên trong quá trình lập kế hoạch bảo tồn cho từng loài. Chương trình Hành động do U ban về sự Sinh tồn của các loài thuộc IUCN gồm khoảng 2.000 nhà khoa học, tập hợp trong 80 nhóm chuyên gia khác nhau để đánh giá và khuyến nghị bảo tồn cho các loài thú, chim, động vật không xương sống, bò sát, cá và thực vật. Có một nhóm đã xây dựng Chương trình hành động cho các loài Linh trưởng ở Châu Á, trong đó đã xếp loại ưu tiên cho 64 loài dựa vào mức độ đe dọa, tính đặc hữu về phân loại học và mối liên quan tới các loài linh trưởng khác đang có nguy cơ tuyệt diệt. 4.2.2. Phương pháp tiếp cận quần xã và hệ sinh thái Một số người quan tâm đến bảo tồn đã cho rằng nên tập trung vào bảo tồn các quần xã hoặc các hệ sinh thái hơn là chỉ bảo tồn loài. Bảo tồn các quần xã có thể sẽ 79
  13. bảo vệ được một số lượng lớn hơn các loài, trong khi đó việc cứu hộ các loài cụ thể nào đó lại thường không đơn giản, tốn kém và ít hiệu quả. Việc hình thành các khu bảo tồn mới cần phải đảm bảo được càng nhiều đại diện của các loại quần xã sinh học càng tốt. Định ra được những khu vực nào trên Thế giới đã được bảo vệ thỏa đáng và những khu vực nào cần khẩn trương bổ sung bảo tồn là một việc có tính quyết định trong phong trào bảo tồn Thế giới. 4.2.2.1. Phân tích khiếm khuyết Một cách nhằm xác định tính hiệu quả của các chương trình bảo tồn quần xã và các hệ sinh thái là so sánh các ưu tiên về đa dạng sinh học với các khu bảo tồn đã có hoặc sắp thành lập. Sự so sánh này có thể sẽ xác định được những lỗ hổng trong bảo tồn đa dạng sinh học bằng cách thành lập các khu bảo tồn mới. Ở qui mô quốc gia, đa dạng sinh học được bảo vệ có hiệu quả nhất bằng cách bảo đảm rằng tất cả các dạng hệ sinh thái chủ yếu đều nằm trong các khu bảo tồn. Hệ thống thông tin địa lý (GIS) là bước phát triển mới nhất trong kỹ thuật phân tích các khuyếm khuyết thông qua việc sử dụng máy tính để tích hợp các dữ liệu về môi trường tự nhiên với các thông tin về sự phân bố của loài. Phân tích bằng GIS có thể chỉ ra được những khu vực nguy cấp cần được đưa vào các vườn quốc gia hay các khu bảo tồn và cần tránh triển khai các dự án phát triển tại đây. Địa hình và thảm thực vật Sự phân bố của các loài quí hiếm, đặc hữu Diện tích các khu bảo vệ Bản đồ cuối cùng làm rõ những khu vực cần bảo vệ nhiều hơn Hình 4.5. GIS tích hợp nhiều dữ liệu khác nhau được biểu diễn trên bản đồ 80
  14. GIS bao gồm việc lưu trữ, hiển thị và tập hợp nhiều loại dữ liệu bản đồ, ví dụ các kiểu thảm thực vật, khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình, địa chất, thủy văn và sự phân bố của loài. Kỹ thuật này có thể giúp thể hiện mối tương quan giữa các thành phần vô sinh và hữu sinh của cảnh quan, giúp qui hoạch các vườn quốc gia nơi có tính đa dạng về hệ sinh thái, và thậm chí còn có thể đề xuất các địa điểm để tìm kiếm các loài qui hiếm. Không ảnh và viễn thám là những nguồn dữ liệu bổ trợ cho việc phân tích GIS. 4.2.2.2. Các trung tâm đa dạng sinh học Để có thể đưa ra các ưu tiên cho việc bảo tồn, IUCN, Trung tâm quan trắc bảo tồn Thế giới (WCMC) và các tổ chức khác đã cố gắng xác định các khu vực then chốt có tính đa dạng sinh học và có tính đặc hữu cao trên Thế giới đang đứng trước sự đe dọa bị tuyệt chủng loài và hủy hoại nơi cư trú: những nơi được gọi là điểm nóng phải được bảo tồn. 1) Các điểm nóng đa dạng sinh học Là những vùng đang bị đe doạ và chứa một t lệ cao đa dạng sinh học trên Thế giới. Hơn ½ loài đặc hữu trên Trái đất chỉ chiếm một diện tích khoảng 16% diện tích bề mặt Trái đất. Các vùng này cần phải được bảo tồn ngay để chống lại việc mất mát của các loài do tuyệt chủng. Nếu chúng ta không thành công trong việc bảo tồn một phần nhỏ diện tích của Trái đất này, chúng ta sẽ mất đi hơn ½ di sản thiên nhiên của chúng ta. Biodiversity Hotspots Hình 4.6. Các điểm nóng đa dạng sinh học trên Thế giới 81
  15.  Mục tiêu của khái niệm điểm nóng là những nơi bị đe dọa lớn nhất tới số loài lớn nhất và cho phép những nhà bảo tồn tập trung những nổ lực về chi phí hiệu quả ở đó. Năm 1988, Norman Myers đưa ra Khái niệm điểm nóng khi xác định 10 khu vực rừng nhiệt đới có độ đặc hữu cao về thực vật cũng như có mức độ mất mát nơi ở.  Năm 1989, Tổ chức Bảo tồn Thế giới đã chấp nhận khái niệm điểm nóng của Mayers.  Năm 1999 danh sách điểm nóng trên toàn Thế giới lên 25 điểm.  Đến nay đã có 34 điểm nóng đa dạng sinh học chiếm 15,7% diện tích bề mặt Trái đất.  86% nơi cư trú ở các điểm nóng bị phá hủy.  Chỉ 2,3% diện tích nguyên thủy còn sót lại trong các điểm nóng.  Hơn 50% các loài thực vật trên toàn Thế giới và 42% các loài động vật có xương sống ở cạn đặc hữu có mặt tại 34 điểm nóng. Có hai nhân tố được xem xét để chỉ định điểm nóng. Điểm nóng là những vùng chứa đựng một số lớn các loài đặc hữu và đồng thời bị tác động một cách đáng kể các hoạt động con người. Tính đặc hữu là tiêu chí đầu tiên để xác định điểm nóng. CI (Conservation International) đã lấy tổng số loài thực vật đặc hữu như là chỉ thị cho tính đặc hữu nói chung. Để là một điểm nóng, một vùng phải có 1.500 loài cây đặc hữu (0,5% số loài thực vật toàn cầu). Sự có mặt của thực vật nguyên sinh là cơ sở để đánh giá tác động con người trong một vùng; để là một điểm nóng, một vùng phải bị mất đi hơn 70% môi trường sống nguyên thu của nó. Các điểm nóng chỉ chiếm khoảng 1/8 diện tích bề mặt Trái đất nhưng lại chứa đến 1/5 dân số của Thế giới. Việc gia tăng dân số nhanh trong các điểm nóng góp phần tới sự suy thoái điểm nóng do việc du nhập của những loài ngoại lai, việc buôn bán bất hợp pháp những loài bị đe dọa, nền nông nghiệp đốt nương làm rẫy, khai mỏ, xây dựng đường cao tốc, đập nước và tràn dầu. Mười một điểm nóng đã mất ít nhất 90% cây cỏ tự nhiên nguyên thu và ba trong số đó đã mất 95%. Có một số nhân tố quan trọng để việc xác định tình trạng ưu tiên của một điểm nóng. Các nhân tố quan trọng nhất để xem xét là số của những loài thực vật và động vật tìm thấy trong điểm nóng và không có ở nơi nào khác trên Thế giới; mức độ của sự mất mát nơi ở và số loài thực vật và động vật đặc hữu trên đơn vị diện tích. Lấy tất cả những nhân tố này để tính toán, thì vùng Madagascar và những hòn đảo ở Ấn Độ Dương, Philippines, Sundaland, Atlantic Forest và vùng Caribbean được coi như những nơi nóng nhất của các điểm nóng (Bảng 4.4.). Nói cách khác, đa dạng 82
  16. sinh học độc nhất của năm điểm nóng này bị mất đi và có nguy cơ cao của việc mất nó nếu không có hoạt động bảo tồn có hiệu quả và tức thời. Bảng 4.4. Các điểm nóng nhất về đa dạng sinh học trên Thế giới Các điểm nóng Thực vật Động vật có Thực vật đặc ĐVCX đặc % hệ thực đặc hữu xương đặc hữu /100 hữu /100 vật còn lại 2 hữu km km2 Madagascar & Indian 9.704 771 16.4 1.3 9.9 Ocean Islands Philippines 5.832 518 64.7 5.7 3.0 Sundaland 15.000 701 12.0 0.6 7.8 Atlantic Forest 8.000 654 8.7 0.6 7.5 Caribbean 7.000 779 23.5 2.6 11.3 Indo-Burma 7.000 528 7.0 0.5 4.9 Western Ghats & Sri 2.180 355 17.5 2.9 6.8 Lanka Eastern Arc 1.500 121 75.0 6.1 6.7 Mountains & Coastal Forests 2) Các đơn vị đại đa dạng sinh học Một cách tiếp cận có giá trị khác là các đơn vị đại đa dạng sinh học (Megadiversity). Theo cách tiếp cận này, những quyền tập trung ưu tiên vào đa dạng sinh học được hiểu theo nghĩa một đơn vị chính trị hơn là một thuật ngữ sinh thái. Điều này công nhận một số ít đơn vị (17 nước) là trung tâm có độ đa dạng sinh học cao (Hình 4.7.). 17 nước này chiếm 2/3 nguồn tài nguyên sinh học trên Trái đất trong đó có hơn 80% loài thực vật bị đe dọa trên toàn Thế giới. Những nước này cũng là những nước có tầm quan trọng về đa dạng văn hoá. Phương pháp dựa trên quốc gia này nhằm nâng cao ý thức quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học trong các quốc gia có đa dạng sinh học cao, có nhiều loài độc nhất. Khái niệm này bổ sung vào các điểm nóng đa dạng sinh học và các khu hoang dã có đa dạng sinh học cao để đạt được mức độ đáng kể về việc bảo tồn các nguồn tài nguyên sinh học của Thế giới. Khái niệm các đơn vị đại đa dạng sinh học lần đầu tiên được đề xuất vào năm 1988 và được UNEP-WCMC ủng hộ. Các đơn vị đại đa dạng sinh học dựa trên bốn cơ sở: 83
  17. 1. Đa dạng sinh học của mỗi quốc gia và là cực kỳ quan trọng cho sự sống còn của quốc gia đó, và phải được coi là một thành phần cơ bản của bất kỳ chiến lược phát triển quốc gia hoặc khu vực; 2. Đa dạng sinh học không phân bố đều trên hành tinh của chúng ta, và một số nước, đặc biệt là ở vùng nhiệt đới, là nơi tập trung nhiều đa dạng sinh học hơn những nơi khác; 3. Một số các quốc gia giàu nhất và đa dạng nhất cũng có các hệ sinh thái đang bị đe dọa nghiêm trọng nhất; 4. Để đạt được tác động tối đa với nguồn lực hạn chế, chúng ta phải tập trung rất nhiều (nhưng không duy nhất) vào các quốc gia giàu có sự đa dạng và đặc hữu và bị đe dọa nghiêm trọng nhất, đầu tư trong các nước đó sẽ góp phần đáng kể đối với bảo tồn đa dạng sinh học toàn cầu. Tiêu chí cơ bản của các đơn vị đại đa dạng sinh học là tính đặc hữu, đầu tiên là ở cấp độ loài và sau đó ở các mức phân loại cao hơn, chẳng hạn như giống và họ. Để hội đủ điều kiện là một đơn vị đại đa dạng sinh học, một quốc gia phải có ít nhất 5.000 loài thực vật đặc hữu của Thế giới. 1 Autralia 5 RDC 9 Madagascar 14 Nam Phi 2 Brazil 6 Ecuador 10 Malaysia 15 Tân Guinea 3 China 7 India 11 Mexico 16 United Nations of America 4 Colombia 8 Indonesia 12 Perou 17 Venezuela 13 Philippines Hình 4.7. Các đơn vị đại đa dạng sinh học Thế giới 84
  18. 3) Các khu hoang dã Các khu hoang dã lớn cũng là một ưu tiên quan trọng cho công tác bảo tồn. Các khu hoang dã là những vùng đất lớn trên 1 triệu ha, có ít nhất 70% hệ thực vật nguyên thu còn lại, mật độ dân cư thấp, ít hơn 5 người/km2 và có rất ít tác động của con người. Các khu hoang dã nhiều khả năng không phát triển trong tương lai có lẽ sẽ là những nơi duy nhất còn lại trên Trái đất mà các quá trình tiến hoá tự nhiên có thể tiếp tục xảy ra. Các khu hoang dã này có thể duy trì để làm các khu đối chứng cho thấy các khu tự nhiên sẽ như thế nào nếu không có tác động của con người. Conservation International (CI) đã bước đầu xác định 24 khu hoang dã, chiếm 44% diện tích Trái đất nhưng chỉ chứa 3% dân số Thế giới (Mittermeier et al. 2003). CÁC KHU HOANG DÃ THẾ GiỚI Hình 4.8. Các khu hoang dã Thế giới Các khu hoang dã là: Kho chứa của đa dạng sinh học và các lưu vực quan trọng. Là những khu đối chứng để đánh giá mức độ quản lý ở các điểm nóng bị phá hu . Có vai trò quan trọng trong việc ổn định khí hậu. Là những nơi cuối cùng trên Thế giới mà người dân bản địa có thể duy trì lối sống truyền thống của họ. Có những giá trị về văn hoá, thẩm mỹ và tinh thần. 85
  19. * Các khu hoang dã có tính đa dạng sinh học cao (High-Biodiversity Wilderness Areas, HBWAs) Năm 2003, CI đã xác định 5 khu trong số 24 khu hoang dã Thế giới, có tính đa dạng sinh học cao và chúng được xác định là các điểm ưu tiên bảo tồn. Các khu hoang dã này chiếm khoảng 6,1% diện tích bề mặt Trái đất với diện tích 8.981.000 km2. Khu vực Amazon: một khu hoang dã gồm có rừng mưa, đồng cỏ và núi, nhưng có rất ít người, chạy qua miền nam của Guyana, miền nam của Venezuela, miền bắc Brazil, Colombia, Ecuador, Peru và Bolivia New Guinea: Hòn đảo Guinea có những vùng rộng lớn không bị xâm nhập trong khu vực châu Á Thái bình Dương, mặc dầu có bị ảnh hưởng bởi nạn chặt phá rừng, khai khoáng và chương trình di dân. Một nửa phía đông của hòn đảo này là quốc gia độc lập Papua New Ghine, nửa phía tây của hòn đảo là một bang của Indonesia. Các cánh rừng ở Congo, vùng Trung Phi Các hoang mạc ở Bắc Mỹ Các hoang mạc và khu rừng ở Nam Phi Tiêu chí hàng đầu của các khu hoang dã có tính đa dạng sinh học cao là tính đặc hữu (ít nhất là 0,5% của thực vật của Thế giới). Các khu hoang dã có tính đa dạng sinh học cao chiếm giữ 17% tổng số của thực vật có mạch toàn cầu, và 8% trong tổng số của động vật có xương sống trên cạn toàn cầu là đặc hữu, trong khi tất cả 24 khu vực hoang dã chỉ chiếm t lệ không đáng kể là 18% và 10% tương ứng. Hình 4.9. Các khu hoang dã có tính đa dạng sinh học cao 86
  20. Sai khác giữa điểm nóng và khu hoang dã có đa dạng sinh học cao Các điểm nóng đa dạng sinh học chủ yếu chứa đựng các hệ sinh thái bị khai thác quá mức và chia cắt nặng nề; Các vùng hoang dã có đa dạng sinh học cao là những khu vực có kích thước lớn, còn nguyên sơ và có mật độ dân số thấp; Điểm nóng là những nơi cần có những hành động cấp thiết để ngăn chặn sự tuyệt chủng; Các khu hoang dã là những vùng còn có nhiều cơ hội để triển khai các hoạt động tiên phong về bảo tồn. 4.3. Các thỏa thuận Quốc tế 4.3.1. Công ước về Đa dạng Sinh học Công ước đa dạng sinh học (CBD) được ký kết năm 1992 tại Hội nghị Thượng đỉnh ở Rio de Janeiro bởi 150 nước và có hiệu lực kể từ tháng 12 năm 1992. Đây là cam kết quốc tế đầu tiên giữa các chính phủ trong việc bảo vệ tài nguyên đa dạng sinh học trên Trái đất. Đến tháng 01 năm 2004 đã có 188 nước ký vào công ước, trong đó Mỹ là một trong số những nước ký sau cùng. Công ước về Đa dạng Sinh học có ba mục tiêu: bảo vệ đa dạng sinh học; sử dụng bền vững đa dạng sinh học; phân phối công bằng lợi nhuận của các sản phẩm mới lấy từ các loài hoang dã và các loài thuần dưỡng. Hai mục đích đầu không phức tạp, mục đích thứ ba chấp nhận rằng các nước đang phát triển phải được nhận sự đền bù hợp lý cho việc sử dụng các loài được thu thập từ vùng lãnh thổ nước họ. Nước Mỹ đã không phê chuẩn Công ước này vì lý do lo sợ ngành công nghệ sinh học khổng lồ của họ sẽ bị hạn chế. Khi ký vào công ước, các nước thành viên đã đồng ý thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để bảo tồn đa dạng sinh học. Các biện pháp đó là: 1. Xây dựng kế hoạch quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học 2. Xác định các hệ sinh thái, các loài và các nguồn gene quan trọng để bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học 3. Quan trắc đa dạng sinh học và các nhân tố có thể tác động đến đa dạng sinh học 4. Thiết lập hệ thống các khu bảo tồn 5. Quản lý tài nguyên sinh học để đảm bảo cho việc bảo tồn và sử dụng bền vững 6. Phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái 7. Thiết lập hệ thống bảo tồn chuyển chỗ 4.3.2. Công ước Ramsar Công ước Ramsar được ký kết vào ngày 2 tháng 2 năm 1971 tại thành phố Ramsar, Iran. Công ước Ramsar, là một hiệp ước quốc tế về bảo tồn và sử dụng khôn ngoan các vùng đất ngập nước. Khi tham gia, mỗi bên ký kết có nghĩa vụ chỉ định ít 87
nguon tai.lieu . vn