- Trang Chủ
- Sân khấu điện ảnh
- Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình: Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh
Xem mẫu
- TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 (50) - Thaùng 02/2017
Giao lưu văn học và dịch chuyển loại hình:
Trường hợp tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của
Bang Hyeon-Seok và kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh
Literary exchange and genre shifting: A case study of comparing novel Time for
lobster eating by Bang Hyeon-Seok and script The origins by Le Duy Hanh
CN. Trần Xuân Tiến, Trường Đại học Văn Hiến
Tran Xuan Tien, B.A., Van Hien University
CN. Vương Hoài Lâm, Nhà Xuất bản Văn hóa – Văn nghệ TP.HCM
Vuong Hoai Lam, B.A., Ho Chi Minh City Culture – Literature and Arts Publishing House
Tóm tắt
Từ thập niên 90 của thế kỷ XX, quan hệ giao lưu văn hóa - văn học giữa Việt Nam và Hàn Quốc có điều kiện
phát triển mạnh mẽ. Bang Hyeon-seok 방현석 là một trong những nhà văn Hàn Quốc quan tâm nhiều về đề
tài Việt Nam, nhất là cuộc chiến tranh mà người Hàn Quốc can dự. Tác phẩm của ông, tiêu biểu là tiểu thuyết
Thời gian ăn tôm hùm 랍스터를 먹는 시간, đã thể hiện những nỗ lực vượt qua các ký ức đau buồn của cả
hai dân tộc. Mối liên hệ giao lưu văn học Việt - Hàn là tín hiệu cho thấy những nỗ lực hội nhập của văn học
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Thành công trong Hội diễn Sân khấu cải lương chuyên nghiệp toàn quốc năm 2012, kịch bản Cội nguồn của
Lê Duy Hạnh (do soạn giả Hoàng Song Việt cải lương hóa, Nghệ sĩ ưu tú Hoa Hạ đạo diễn) cùng gặp gỡ với
Bang Hyeon-seok trên phương diện chủ đề. Đây là một trong số ít những tác phẩm viết về đề tài quan hệ Việt
- Hàn trong loại hình sân khấu kịch hát dân tộc. Những nỗ lực tìm kiếm phạm vi biểu hiện mới, cùng với
những tố chất nội tại của bản thân loại hình cho thấy khả năng thích ứng cao của kịch hát dân tộc trong xu thế
toàn cầu hóa.
Từ khóa: Thời gian ăn tôm hùm 랍스터를 먹는 시간, Bang Hyeon-seok 방현석, Cội nguồn, Lê Duy Hạnh,
giao lưu văn học Việt - Hàn, kịch bản cải lương.
Abstract
Since the 1990s, the cultural and literary exchanges between Vietnam and South Korea have been remarkably
developed. Bang Hyeon-seok 방현석 is among the Korean writers whose writing interest concerns Vietnam,
especially the war in which many Koreans were involved. His works, especially Time for lobster eating
랍스터 를 먹는 시간, manifested effort to overcome sorrowful memories of both nations. Literary exchange
between Vietnam and South Korea indicates Vietnam’s effort for integration in the globalization context.
The script The origins by Le Duy Hanh, which was adapted to “cai luong” by Composer Hoang Song Viet
and Director Hoa Ha and succeeded in National Festival for Professional Cai luong Performance in 2012, is
similar in theme to Bang Hyeon-seok’s novel. The origins is among very few compositions in the genre of
Vietnamese traditional musical theater about the Vietnam-South Korea relationship. Vietnamese traditional
musical theater, thanks to its effort to expand realm of reflection and its internal flexibility, has proves its
high adaptability in the globalization context.
Keywords: Time for lobster eating 랍스터를 먹는 시간, Bang Hyeon-seok 방현석, The origins, Le Duy
Hanh, literary exchange, Vietnam - South Korea relationship, cai luong’s script.
85
- GIAO LƯU VĂN HỌC VÀ DỊCH CHUYỂN LOẠI HÌNH…
1. Giao lưu văn học Việt - Hàn: cả bán đảo Triều Tiên) đã được hình thành
Một tín hiệu của xu hướng toàn cầu hóa từ thế kỷ XIV nhưng phải đến giữa thế kỷ
trong văn học XX, công tác dịch văn học của hai nước
1.1. Ở một khía cạnh nhất định, giao mới có dấu hiệu của sự khởi động. Với
lưu văn học có thể được nhìn nhận với tư việc chính thức thiết lập mối quan hệ ngoại
cách là sự tự ý thức về chính văn học thông giao qua Tuyên bố chung về việc thiết lập
qua việc thể hiện song song hai nhu cầu quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ vào ngày
tưởng chừng như đối nghịch là nhu cầu tìm 22/12/1992, hoạt động dịch thuật và giới
hiểu, tiếp nhận có chọn lọc những tinh hoa thiệu văn học Hàn Quốc ở Việt Nam thực
của đối tượng khác (tha nhân) và nhu cầu sự đi vào quỹ đạo của sự phát triển. Tháng
giới thiệu, quảng bá những giá trị riêng có 8/2001, hai nước đã nâng cấp quan hệ lên
của bản thân. Hai nhu cầu ấy, tùy theo bối Đối tác toàn diện trong thế kỷ XXI, và đến
cảnh chính trị - xã hội, tùy theo tư duy của tháng 10/2009 tiếp tục nâng cấp thành Đối
những người trong cuộc mà có lúc bên tác hợp tác chiến lược. Chính những cơ sở
nặng bên nhẹ khác nhau. Hai nhu cầu ấy, chính trị này đã tạo tiền đề cho quá trình
thú vị thay, lại rất phù hợp với tích cách/ giao lưu văn học Việt - Hàn phát triển.
bản chất của quá trình toàn cầu hóa Theo thống kê chưa đầy đủ của chúng
(Globalization). Toàn cầu hóa là khái niệm tôi, tính đến tháng 11/2016, đã có gần 130
được đặt ra nhằm biểu đạt sự trao đổi, liên đầu sách văn học Hàn Quốc được dịch và
kết đang ngày càng được tăng cường giữa giới thiệu ở Việt Nam. Hiện nay, nhiều đơn
các quốc gia, các khu vực, các vùng lãnh vị xuất bản có định hướng đẩy mạnh công
thổ. Thuật ngữ này xuất hiện vào những tác dịch văn học Hàn, nổi bật là Công ty cổ
năm 50 và được sử dụng một cách phổ biến phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam
từ những năm 90 của thế kỷ trước. Những (Hà Nội) và Nhà xuất bản Trẻ (TP.HCM)
hiệu quả mà toàn cầu hóa mang lại đã với nhiều ấn phẩm cập nhật tình hình văn
khiến cho quá trình của chính nó trở thành học đương đại ở Hàn Quốc. Trong tâm thế
một xu thế tất yếu. Trong hành trình của tạo sự “thông hiểu, hợp lực để cùng phát
toàn cầu hóa, của giao lưu văn học, dịch triển”, ngoài hoạt động giảng dạy, Trung
thuật có vai trò hết sức đặc biệt. Bởi vì, tâm Ngôn ngữ tiếng Hàn tại TP.HCM từng
một trong những biểu hiện cụ thể dễ nhận tổ chức dịch và phát hành miễn phí tập
thấy của xu hướng toàn cầu hóa chính là sự sách Những bài thơ hay của văn học hiện
gia tăng quá trình trao đổi văn hóa, trong đại Hàn Quốc. Sách tập hợp 60 bài thơ
đó có xuất khẩu các văn hóa phẩm, cụ thể được cho là tiêu biểu của Hàn Quốc với lời
là tác phẩm văn học. dịch Việt ngữ trong sáng, gần gũi kèm hình
Tuy là hai nước Đông Á cách xa nhau minh họa đặc sắc, quyển sách thật sự là tài
về khoảng cách địa lý, nhưng Việt Nam và liệu hữu ích để độc giả Việt Nam tiếp cận
Hàn Quốc có nhiều điểm tương đồng về với thơ ca Hàn Quốc.
các yếu tố địa - chiến lược, địa - lịch sử, Không cần đến một cuộc khảo sát xã
địa - văn hóa (mà yếu tố đồng văn thường hội học, nhìn qua thực trạng nêu trên (trên
được nhấn mạnh hơn cả). Lịch sử bang bình diện xuất bản) chúng ta cũng dễ dàng
giao song phương ở riêng lĩnh vực văn hóa nhận thấy của văn học Hàn Quốc có vai trò
giữa hai nước Việt - Hàn (thời điểm này là khá mờ nhạt so với các sản phẩm văn hóa
86
- TRẦN XUÂN TIẾN - VƯƠNG HOÀI LÂM
khác (phim truyền hình, điện ảnh, thời 2014 với buổi giao lưu giữa hai tác giả
trang, ẩm thực…) trong đời sống tinh thần Nguyễn Ngọc Tư và Kim Young-ha. Theo
của đại chúng Việt trong sự tiếp nhận văn sau đó là các buổi giao lưu giữa tác giả Hồ
hóa Hàn Quốc. Anh Thái và Jeong You-jeong (2015), tác
Câu chuyện về giao lưu văn học Việt - giả Võ Diệu Thanh và Hwang Sun-mi
Hàn còn thể hiện ở các hoạt động tiếp nhận (2016). Cũng nằm trong khuôn khổ của
của giới nghiên cứu. Song song với các chương trình này, các buổi tọa đàm với chủ
lĩnh vực kinh tế, triết học, văn hóa - xã hội, đề Phương hướng tăng cường trao đổi,
khoa học - kỹ thuật, công tác nghiên cứu hợp tác dịch thuật và giới thiệu văn học
văn chương hai nước Việt Nam - Hàn góp phần xúc tiến quan hệ Việt Nam - Hàn
Quốc cũng đi vào phác thảo quan hệ so Quốc (2015), Xúc tiến giao lưu văn học
sánh, đối chiếu trong tâm thế tìm ra những dịch Việt Nam - Hàn Quốc (2016) đã tạo
điểm tương đồng dị biệt giữa hai dân tộc, cơ hội cho các bên trong lĩnh vực văn
kết nối nhau bằng những liên hệ đồng dạng, chương trao đổi, tổng kết, xúc tiến hoạt
khẳng định những giá trị cốt lõi riêng biệt. động kết nối giao lưu.
Đề án Phát triển tài nguyên nghiên cứu và Bên cạnh hai đơn vị nêu trên, công tác
giảng dạy văn học Hàn Quốc ở Việt Nam giao lưu văn học Việt - Hàn còn được đẩy
[AKS-2012-BBZ-211] đang dần được hiện mạnh bởi nhiều đơn vị khác như: Hội
thực hóa bởi hàng loạt các hội thảo, tọa Nghiên cứu khoa học về Hàn Quốc của
đàm lớn nhỏ như: Hội thảo khoa học quốc Việt Nam (Korean Research Association of
tế Văn học Hàn Quốc trong bối cảnh châu Vietnam - KRAV), Viện Nghiên cứu Đông
Á (tháng 01/2014), Hội thảo khoa học quốc Bắc Á (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã
tế Nghiên cứu và giảng dạy Ngữ pháp tiếng hội Việt Nam), các trường Đại học, Cao
Hàn và Văn hóa - Xã hội Hàn Quốc (tháng đẳng có giảng dạy Hàn Quốc học v.v..1
8/2016) v.v.. Như vậy, từ lĩnh vực xuất bản đến
Trường ĐH KHXH&NV - ĐHQG Hà nghiên cứu chuyên ngành, hoạt động giao
Nội là một trong những địa chỉ mạnh về lưu văn học Việt - Hàn đã có một diện mạo
công tác nghiên cứu Hàn Quốc. Các Hội chung tương đối sôi động và có tiềm năng
thảo Dịch thuật văn học Hàn Quốc tại Việt được đẩy mạnh trong tương lai.
Nam (tháng 11/2014), Văn học Hàn Quốc 1.2. Khái niệm giao lưu (exchange) tự
tại Việt Nam (tháng 11/2015, phối hợp với trong nội hàm của nó đã định hướng đến sự
Viện Dịch thuật Văn học Hàn Quốc) thu đối thoại và hợp tác từ hai phía. Tuy vậy,
hút được nhiều nhà nghiên cứu, giảng dạy, tình hình tiếp nhận văn học Việt Nam ở
nhiều dịch giả Hàn Quốc và Việt Nam Hàn Quốc đang trong tình trạng trầm lặng
quan tâm tham dự. hơn so chiều hướng ngược lại. Hiện nay,
Gặp gỡ văn chương Việt Hàn - Korean (theo thông tin chúng tôi tổng hợp từ
Vietnam literary exchange event là chương internet), số lượng tác giả Việt Nam có tác
trình được tổ chức thường niên bởi sự phối phẩm được dịch ở Hàn Quốc chỉ vỏn vẹn
hợp thực hiện giữa Viện Dịch thuật Văn một vài tên tuổi. Có thể kể đến như các nhà
học Hàn Quốc 한국문학번역원 và Trường văn Bảo Ninh, Văn Lê, Nguyễn Ngọc Tư,
Đại học KHXH&NV - ĐHQG TP.HCM. Hồ Anh Thái và nhà thơ Hữu Thỉnh. Về
Chương trình được khởi động vào năm công tác nghiên cứu, trong bài viết nh
87
- GIAO LƯU VĂN HỌC VÀ DỊCH CHUYỂN LOẠI HÌNH…
h nh nghi n cứu văn học Việt am ở Hàn ở Việt Nam diễn ra tương đối sôi động thì
Quốc vào năm 2008, GS.TS. Kim Ki-tae tình hình này không xảy ra tương đương ở
đã thẳng thắn chia sẻ: “Ở Hàn Quốc, số Hàn Quốc. Chính vì vậy, công tác dịch
lượng học giả nghiên cứu về văn học Việt thuật văn học Hàn ở Việt Nam phải đảm
Nam rất ít. Văn học hiện đại thì càng ít”. dương cùng lúc hai trách nhiệm, một mặt
Trước thực trạng có phần “tẻ nhạt” đó ông làm môi giới mang những phản ảnh, hiểu
bày tỏ mong muốn “trong tương lai sẽ có biết về đời sống và con người Hàn đến với
thêm nhiều nghiên cứu về văn học Việt Việt Nam, một mặt phải chọn lọc những
Nam tại Hàn Quốc cùng hòa với việc tác phẩm ghi nhận cái nhìn của người Hàn
nghiên cứu văn học Trung Quốc, Đông Quốc đối với đất nước và con người Việt.
Bắc Á”2. Gần mười năm đã trôi qua tính từ Theo tài liệu Việt Nam - Hàn Quốc: Một
lúc GS.TS. Kim Ki-tae viết nhận định này, phần tư thế kỷ chia sẻ cùng phát triển, có
khung cảnh tiếp nhận văn học Việt Nam ở một số tác phẩm văn học Hàn Quốc viết về
Hàn Quốc, trong chừng mực nhất định, có Việt Nam, phản ánh nhận thức của người
thể nói, tuy có ít nhiều biến chuyển nhưng Hàn về đất nước Việt Nam4, như “Tháp 탑”
vẫn chưa tương ứng với tiềm năng vốn dĩ. (Hwang Sok-yong), “ gười da
Thực tế, hiện trạng nghiên cứu này vẫn vàng 힁색인” (Lee Sang-moon), “Chiến
chưa đáp ứng được kỳ vọng của những tranh trắng 하얀 전쟁” (Ahn Jung-hyo)
người trong cuộc. Một điểm đáng chú ý là “Huân chương và xiềng xích 훈 장 과 굴 레”
trong khi Viện Dịch thuật Văn học Hàn (Lee Won-kyu), “Áo dài đỏ đỏ 붉은
Quốc đã tổ chức trao giải thưởng văn học 아오자이” (Oh Hyun-mi), “Cuộc chia ly
dịch cho các dịch giả Việt Nam dịch xuất buồn 애별” (Ku Hyo-seo)… Tuy nhiên, việc
sắc các tác phẩm văn học Hàn Quốc sang tiến hành dịch những tác phẩm vừa nêu hiện
tiếng Việt3 thì các dịch giả dịch tác phẩm vẫn chưa có tín hiệu thực hiện. Trong hoàn
văn học Việt Nam sang tiếng Hàn Quốc cảnh đó, Thời gian ăn tôm hùm 랍스터를
chưa có được sự khích lệ tương tự.
먹는 시간 của Bang Hyeon-seok5 có lẽ là
2. Giao lưu văn học Việt - Hàn:
một trong số ít tác phẩm đáp ứng được cùng
Trường hợp Thời gian ăn tôm hùm của
lúc hai nhu cầu của thực trạng giao lưu văn
Bang Hyeon-seok
học Việt - Hàn hiện nay đối với độc giả.
Đứng từ góc độ nghiên cứu, từng bước
2.1. Tác giả Bang Hyeon -
nhận diện, đi đến khái quát hóa diện mạo
giao lưu văn học Việt Nam - Hàn Quốc là seok 방현석 sinh năm 1961, hiện đang là
việc làm hết sức cần thiết nhằm phác thảo giáo sư khoa Viết văn trường Đại học
một khía cạnh, bề diện của quá trình toàn Chung Ang 중앙, Hàn Quốc. Ông được
cầu hóa văn học. Để làm được điều đó, đánh giá là tác giả thuộc thế hệ nhà văn trẻ
nhiệm vụ đầu tiên là phải tháo gỡ rào cản của Hàn Quốc, đồng thời cũng là người có
ngôn ngữ giữa hai nền văn học. Dịch văn cảm tình đặc biệt với lịch sử và văn hóa
học trở thành nhân tố đóng vai trò hết sức Việt Nam. Năm 1994, Bang Hyeon-seok
quan trọng trong việc đưa cuộc sống và con lần đầu đến Việt Nam. Cuộc viếng thăm đó
người Hàn Quốc đến Việt Nam và ngược lại. đã khiến ông “bén duyên” với mảnh đất
Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, này và có những chuyến xuyên Việt để tìm
trong khi không khí tiếp nhận văn học Hàn hiểu thêm về đất nước của mà ông yêu mến.
88
- TRẦN XUÂN TIẾN - VƯƠNG HOÀI LÂM
Không những thế, ông còn cùng với những phẩm Thời gian ăn tôm hùm 랍스터를 먹는
người bạn có cùng mối quan tâm nghiên 시간 là cầu nối có giá trị trong mối quan hệ
cứu Việt Nam thành lập Hội Những tác giả giao lưu giữa văn học Việt Nam và Hàn
trẻ muốn tìm hiểu về Việt Nam (Society of Quốc, vừa mang đến cho độc giả Việt Nam
Young Writers For Understanding Vietnam) sự hiểu biết về đất nước và con người Hàn
và là chủ tịch Hội này trong nhiều năm Quốc, vừa thông điệp đến cách nhìn, cách
liền... Đến nay, Hội Những tác giả trẻ cảm của con người Hàn Quốc về đất nước
muốn tìm hiểu về Việt Nam đã thu hút hơn và con người Việt Nam. Tác phẩm được
năm mươi hội viên. Hội thường xuyên tổ chuyển ngữ bởi dịch giả Hà Minh Thành và
chức cho các thành viên sang thăm Việt được Nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản
Nam để có thêm nhiều cứ liệu sống động vào năm 2005. Cuốn sách được kết nối bởi
cho thực tiễn nghiên cứu và sáng tác. hai tiểu thuyết ngắn (novella) là Hình thức
Quan tâm về Việt Nam, Bang Hyeon- của sự tồn tại 존재의 형식 và Thời gian ăn
seok đặc biệt dành nhiều sự trầm tư về sự tôm hùm 랍스터를 먹는 시간.
can dự của quân đội Hàn Quốc vào cuộc Ở phần đầu, Hình thức của sự tồn tại,
xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, giai câu chuyện được khơi gợi nên từ công việc
đoạn 1964 - 1973. Những trường hợp như sáng tác kịch bản của nhóm ba người Jae-
nhà văn Bang Hyeon-seok thường mang woo, Hye-eun và Lê Đức Thiện. Sự cộng
trong ý thức của họ một nỗi dằn vặt khôn tác giữa Jae-woo với Lê Đức Thiện/ nhà
nguôi. Họ xem sự kiện Hàn Quốc đưa quân thơ An Viễn - một cựu quân nhân đi ra từ
tham chiến tại Việt Nam trong quá khứ là cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc
một vết xước của dân tộc mà trải qua bao Việt Nam - đã không ngừng khuấy động
năm tháng, đến tận ngày hôm nay, vết anh bằng những trăn trở về đất nước đầy
xước vẫn để lại những hệ lụy tinh thần dai “sẹo” và thương tổn, cũng như không
dẳng. Các nhà văn Hàn Quốc muốn bày tỏ ngừng tra vấn về quá khứ của anh, của thời
sự nhận thức lỗi lầm đối với người dân trẻ cùng những người bạn ở Hàn Quốc là
Việt Nam, với đất nước Việt Nam kinh qua Myeong-tae và Chang-eun. Đến Thời gian
con đường sáng tác văn chương. Nhà văn ăn tôm hùm, Bang Hyeon-seok đẩy sự
Bang Hyeon-seok chia sẻ: Văn học sẽ là nghiềm ngẫm của mình lên một mức độ
phương tiện hữu hiệu nhất để đưa con dằn xóc, day dứt hơn bằng nhân vật chính
người xích lại gần nhau. Văn học lên án Geon-seok - trưởng phòng làm việc trong
chiến tranh, văn học là thứ luôn đứng về một hãng tàu Hàn Quốc tại Việt Nam
phía nhân bản, phản đối sự phi nhân tính. (hãng Choson-sho). Qua một vụ dàn xếp
Văn học không có biên giới, và rõ ràng con rắc rối giữa lãnh đạo công ty với công nhân
người cũng không có bi n giới”6. Tâm Việt Nam mà Geon-seok đã biết được một
thức đó của Bang Hyeon-seok và của sự thật kinh hoàng đã diễn ra trong lịch sử:
những người cùng chung chí hướng cho một cuộc tàn sát đẫm máu cả một làng do
thấy tinh thần của một Hàn Quốc dám chính những người lính Đại Hàn gây ra cho
thẳng thắn nhìn nhận sai lầm lịch sử để người Việt Nam. Hôm nay, anh phải đối
hướng đến hiện tại và tương lai. mặt với nhân chứng hiếm hoi còn sống sót
2.2. Được bình chọn là “tiểu thuyết hay sau thảm họa tàn khốc.
nhất trong năm 2003” tại Hàn Quốc, tác
89
- GIAO LƯU VĂN HỌC VÀ DỊCH CHUYỂN LOẠI HÌNH…
Hình thức của sự tồn tại và Thời gian phẩm Thời gian ăn tôm hùm, độc giả
ăn tôm hùm cùng hướng đến khắc họa nỗi chứng kiến sự am tường của Bang Hyeon-
niềm băn khoăn trăn trở, những dằng dai seok về đời sống, phong tục và sinh hoạt
trong tâm lý của một lớp người Hàn Quốc của người Việt Nam. Một điểm đáng lưu ý
trưởng thành trong thời bình nhưng không ở Thời gian ăn tôm hùm không thể không
ngừng tra vấn về những vấn đề của thời nhắc đến là việc sử dụng kết cấu đậm chất
chiến tranh. Cả hai phần/ tiểu thuyết ngắn phương Tây trong sáng tác tiểu thuyết. Khi
đều đặt ra cùng một lúc hai vấn đề thể hiện mà Tây phương hóa đang là xu hướng
hai dạng thái tâm lý dân tộc: Một bên là chuyển đổi hệ hình tư duy, tác động đến ít
nỗi khắc khoải tồn sinh, không ngừng nhiều các thiết chế khác trên phạm vi trên
chống chỏi với mặc cảm nghèo khó, thiếu thế giới, thì việc chọn lựa hình thức đó cho
thốn (như trường hợp hai tay phó giám đốc thấy dụng ý sáng tác của Bang Hyeon-seok
Kim, Oh); một bên là nỗi giày vò bởi muốn hướng tác phẩm đến tầm đón đợi của
những thương hoại về tâm hồn và thể xác đông đảo độc giả thế giới.
vì di chứng của chiến tranh (mà Lê Đức 3. Dịch chuyển loại hình từ văn học
Thiện, Võ Văn Lợi, Phạm Văn Quốc là đại đến sân khấu - trường hợp Cội nguồn
diện). Trong bầu không khí “khép lại quá của Lê Duy Hạnh
khứ, mở ra tương lai” hai dạng thái tâm lý “… Đối với nhà văn trong sáng nhất,
này tự biết “hồi phục” bằng tâm thế tương chính xác nhất, cương quyết nhất, các từ
ứng là sám hối và hòa giải. Sám hối và hòa ngữ chỉ là và chỉ có thể là những ký hiệu
giải là con đường hàn gắn, kết nối của hai gần đúng của một tư tưởng, một tình cảm,
dân tộc trên bình diện văn chương, khẳng một ý nghĩ, những ký hiệu mà được bổ
định quan hệ giao lưu văn học Việt - Hàn, sung nhờ ở động tác, cử chỉ, giọng nói, nét
và diện mạo toàn cầu hóa văn học trong bối mặt, đôi mắt, cảnh ngộ nhất định?”8. Rào
cảnh đương đại. cản ngôn ngữ luôn là giới hạn đáng kể đối
Đến với tập Thời gian ăn tôm hùm với sự giao lưu văn học - nghệ thuật trên
Bang Hyeon-seok khước từ khuynh hướng bước đường toàn cầu hóa. Hoạt động phiên
tiểu thuyết về tình yêu lãng mạn dễ dãi và chuyển ngôn ngữ dù đạt được những thành
chiều chuộng tâm lý đại chúng (như một số tựu nhất định trong việc kết nối các nền
hình thức văn hóa khác). Ông định hướng văn hóa trên thế giới với nhau, song cũng
bản thân vào các sáng tác mang đậm tính không thể vượt thoát được định đề “Dịch là
luận thuyết chính trị - xã hội thông qua phản” (Traduttore, tradittore). Sân khấu
những bối cảnh giữa hai quốc gia Việt - với tư cách là một thiết chế văn hóa đã và
Hàn. Muốn soi rọi cả quá khứ, hiện tại và đang tồn tại trên nhiều phạm vi địa lý tỏ ra
viễn cảnh tương lai của Hàn Quốc và Việt có hiệu lực trong việc truyền đạt những
Nam, Bang Hyeon-seok chọn lối viết hiện thông điệp phi ngôn từ. Sân khấu có khả
thực. Ông quan niệm “trong bất cứ trường năng rút ngắn khoảng cách giữa con người
hợp nào, văn học cũng không thể là những với con người, giữa các nền văn hóa khác
thứ ngoài cuộc sống”7. Chia sẻ về tâm thế nhau bằng một hệ thống những tín hiệu
viết, Bang Hyeon-seok cho biết ông luôn mang tầm phổ quát.
lấy “ti u chí đặt m nh là người Việt Nam 3.1. Quan hệ giao lưu văn hóa Việt
để nhìn nhận mọi vấn đề”. Thông qua tác Nam - Hàn Quốc cho đến hiện nay chỉ tập
90
- TRẦN XUÂN TIẾN - VƯƠNG HOÀI LÂM
trung trên các lĩnh vực văn học, điện ảnh, rằng việc định danh “chuyển thể” là chưa
âm nhạc v.v.. Riêng lĩnh vực sân khấu, tình thỏa đáng. Theo tác giả Phan Thị Thu Hiền
trạng diễn ra có phần manh mún, nếu không trong bài viết “Giao lưu dịch thuật văn học
muốn nói là hầu như thiếu vắng. Lẽ tất giữa Việt Nam và Hàn Quốc với vai trò
nhiên, trong các hội diễn giao lưu giữa Việt ‘cửa sổ văn hóa’”, kịch bản Cội nguồn của
Nam và Hàn Quốc vẫn có sự gặp gỡ giữa Lê Duy Hạnh đã lấy tác phẩm của Bang
hai bên, nhưng cũng vấp phải tình trạng Hyeon-seok làm nguồn “cảm hứng” sáng
“các tự hữu thanh”, và bị bó hẹp trong hình tạo. Thực vậy, bi kịch giữa hai gia đình của
thức kịch nói hiện đại - một loại hình kịch bà Sáu Bình và viên đại úy quân y Li Sơn-
đã trở thành hiện tượng sân khấu chung trên du mang phảng phất cốt truyện của Thời
thế giới. Sân khấu Việt Nam nói chung, sân gian ăn tôm hùm chứ không hẳn là sự tái
khấu cải lương nói riêng với đặc trưng cởi hiện cuộc đời hay tâm lý của một Jae-woo,
mở, linh động luôn tìm kiếm những bình một Geon-seok nào cả. Ở đây, chủ đề sự
diện biểu hiện mới, thể hiện tinh thần cầu tham chiến của người Hàn Quốc trong
thị cao, mong muốn chạm đến nhiều ngóc chiến tranh ở Việt Nam, cùng với những di
ngách nhân văn của nhân loại. Khắc phục chỉ và sự ám ảnh của nó, cũng như sự sám
những hạn định do sự cách biệt ngôn ngữ - hối, hòa giải chính là “gói” nội dung cốt lõi
văn hóa gây ra, sân khấu cải lương thường được dịch chuyển từ hình thức văn bản
tiệm cận những bối cảnh ngoại lai bằng con ngôn từ sang loại hình sân khấu với đặc
đường dịch chuyển loại hình. trưng ngôn ngữ hiện hình.
Sự dịch chuyển loại hình, trong quan Dịch chuyển loại hình là hiện tượng dễ
niệm của chúng tôi, là sự du hành của một bắt gặp trong đời sống sân khấu cải lương.
đối tượng nội dung từ hình thức thể hiện Trong lịch sử hình thành và phát triển của
này sang một hình thức thể hiện khác. Có loại hình kịch hát này, từng tồn tại những
thể xem đây quá trình chuyển thể - một trường phong cách sáng tạo và biểu diễn
phương thức chuyển ngữ văn hóa loại hình khác nhau như tuồng Nhật Bản, tuồng Tây,
nghệ thuật. Tiêu chí phân loại nghệ thuật tuồng Tàu v.v.. Cũng có nhà nghiên cứu
xưa nay vẫn lấy chất liệu tạo dựng làm cơ đánh giá rằng bức tranh “đa thanh phức
sở phân chia. Theo đó, văn học là nghệ điệu” này đã ít nhiều làm biến tướng đi
thuật của ngôn từ, âm nhạc là nghệ thuật tính chất dân tộc thuần túy của sân khấu cải
của âm thanh, điện ảnh là nghệ thuật của lương. Những trường phái biểu hiện này
hình ảnh và những hiệu ứng hình ảnh, hội còn bị gán ghép với tên gọi tuồng “hương
họa là nghệ thuật của màu sắc - đường nét, xa” (exotic) với nét nghĩa biểu thái ít xem
và sân khấu là nghệ thuật của sự trình diễn. trọng. Tuy nhiên trong thực tế, khuynh
Nói như vậy, hoạt động chuyển thể chính hướng kịch bản cải lương “hương xa” đã
là công tác đem một tác phẩm thuộc loại ghi vào lòng người mộ điệu những ấn
hình nghệ thuật này biến đổi thành một loại tượng đẹp. Nhiều kịch bản như gười tình
hình nghệ thuật khác. Tức là hình thái biểu trên chiến trận, Đường gươm guy n Bá,
hiện ở đây đi từ ngôn ngữ biểu hiện này Hai chiều ly biệt, Bóng hồng sa mạc v.v..
sang ngôn ngữ biểu hiện khác. vẫn còn được biểu diễn phổ biến đến nay.
Tuy nhiên, đối với kịch bản Cội nguồn Sự phát triển ra nhiều khuynh hướng,
của soạn giả Lê Duy Hạnh, chúng tôi cho phong cách sáng tác biểu diễn đó tạo điều
91
- GIAO LƯU VĂN HỌC VÀ DỊCH CHUYỂN LOẠI HÌNH…
kiện cho loại hình sân khấu mới như cải giả Phan Trọng Thưởng nhận định “Một
lương có khả năng mở rộng biên độ phản mặt, kịch nói vẫn hướng vào đề tài chiến
ánh hiện thực, hình thành sự đa dạng về tranh cách mạng, tiếp tục đề xuất những
phong cách, thi pháp. cách lý giải mới về hiện thực chiến tranh;
Thành công trong Hội diễn Sân khấu mặt khác, trong không khí dân chủ và nhiệt
cải lương chuy n nghiệp toàn quốc 2012, huyết công dân mới, kịch nói hướng vào
kịch bản Cội nguồn của Lê Duy Hạnh9 là những vấn đề xã hội - chính trị nóng bỏng
kịch bản hiếm hoi đặt lại vấn đề lịch sử về đang đặt ra trong thực tế đời sống”10. Tuy
cuộc tham chiến của quân đội Hàn Quốc ở nhìn riêng từ khía cạnh kịch nói, nhưng cái
Việt Nam. Nhân vật trung tâm của kịch bản nhìn đó có thể được bao quát chung cho
là Kim Su-dâng, một cô gái Hàn Quốc thực trạng sân khấu đương thời. Bước ra
nhưng có tấm lòng hiếu kỳ đặc biệt đối với khỏi cuộc chiến, sân khấu, vốn là công cụ
văn hóa và con người Việt Nam. Mối quan tuyên truyền đắc lực cho công cuộc đấu
tâm đó trở thành giao điểm gắn kết giữa cô tranh của dân tộc, đã ngoái nhìn lại quá
và An, một du học sinh Việt Nam ở Hàn khứ bằng cái nhìn nhiều chiêm nghiệm.
Quốc. Nhận lời mời của An, Su-dâng đã Trong bầu không khí cởi mở ngày nay,
đến thăm Việt Nam, cũng là để gặp mẹ chiến tranh không chỉ là mất mát, đau
mình đang kinh doanh ở đó. Tại Việt Nam, thương giản đơn, mà còn là cả một khối
Su-dâng rơi vào tình huống khó xử khi xung đột dằng dai giữa tối và sáng. Có tác
Thủy, bạn thân của An lúc nhỏ, hiện là phẩm viết về chiến tranh để thấy hệ lụy di
công nhân trong công ty của mẹ mình, vì hại của nó, cũng có tác phẩm viết về chiến
đình công yêu cầu tăng lương nên bị công tranh để nhận thức lại nó, nhưng cũng có
ty bắt phạt phơi nắng đến đổ bệnh. Bà Sáu tác phẩm viết về chiến tranh để xoa dịu nó,
Bình, bà nội của Thủy, vốn có mối hiềm dỗ dành con người hãy gác những khắc
khích sâu sắc với người Hàn Quốc, đã đến khoải ấy sang một bên và nhìn về tương lai.
giành công bằng cho cháu gái. Tại gia đình Cội nguồn chính là tác phẩm như vậy.
Su-dâng, bà Sáu Bình gặp lại đại úy Li Kịch bản đã đặt người thưởng thức vào
Sơn-du, viên sĩ quan quân y trong đội quân hai chiều hướng nghịch nhau. Một bà Sáu
Đại Hàn đã thảm sát cả làng bà ngày trước. Bình với nỗi hận xương máu không nguôi,
Sự thật phơi bày, trong đêm thảm sát đen tối để rồi trong mắt bà chỉ cần là người Đại
đó, Sơn-du với tấm lòng của một lương y, Hàn đều là những kẻ bất nhân. Nhưng cũng
đã cứu Sáu Bình và mang đứa con mới sinh có một cậu An, một cô Kim Su-dâng đại
của bà đi để bảo toàn mạng sống cho nó. diện cho những thế hệ thanh niên trẻ, họ
Đứa bé năm xưa chính là Li Hi-sô, mẹ ruột lớn lên trong hòa bình sung túc, dĩ vãng
của Su-dâng. Bà Sáu Bình nhận lại con gái đau thương đối với họ mù mờ, nhạt nhòa.
và cháu ngoại. Và trước những lời khẩn cầu Hai xu hướng cực đoan đều đẩy con người
của người vừa là kẻ thù vừa là người ơn, vào bế tắc. Nói như nhân vật Su-dâng khi
cũng như của những đứa cháu, bà Sáu Bình đang hòa cảm vào vai diễn nhân vật Lý
đã chấp nhận khép lại hận thù xưa. Chiêu Hoàng “nửa bên này khóc cho cái
Cội nguồn không hẳn là một trường mất, nửa b n kia cười cho cái được. Cái
hợp loại biệt trong đời sống sân khấu Việt mất giày xéo trái tim ta bật ra thành tiếng
Nam. Trình bày về kịch nói Việt Nam, tác khóc. Cái được kích thích tâm hồn ta tạo ra
92
- TRẦN XUÂN TIẾN - VƯƠNG HOÀI LÂM
tiếng cười. Được và mất của một kiếp ban đầu của việc dịch chuyển loại hình là
người, đang ra sức mạnh phá tan từng ý phục vụ thị hiếu của đại chúng, nhưng thao
nghĩ. hà rần - nhà Lý, được - mất đã tác nghệ thuật này đã đem đến cho sân
gạch nối ngang trên cuộc đời ta”. Chỉ có khấu cải lương tinh thần rộng mở, không
nhìn vào quá khứ để biết, để thấu hiểu giá bó hẹp mình trong khung cửa hạn hẹp mà
trị sống hiện mới có thể đi về tương lai vươn lên tìm đến những bản diện mới.
bằng đôi chân vững vàng. Song cũng 3.2. Không dừng lại ở việc trình bày
không để quá khứ câu thúc con người, giới một vấn đề lịch sử - xã hội, kịch bản Cội
hạn con người trong những cái vươn mình nguồn còn là một cuộc tra vấn không
lên cao. Lê Duy Hạnh đã tìm thấy nơi nhà ngừng trong tư duy nghệ thuật của soạn giả
văn Hàn Quốc Bang Hyeon-seok một cái Lê Duy Hạnh. Nhận xét về Lê Duy Hạnh,
nhìn đồng điệu. Trong chiến tranh, số phận nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành cho
con người không do chính họ quyết định. rằng ông là “một cây bút không ngừng
Con người nói cho cùng là nạn nhân của thao thức, tìm kiếm cái mới từ bình diện
một ý đồ, một tư tưởng “ hững người Đại nội dung đến cung cách diễn tả, nhằm mở
Hàn cũng chẳng đáng thương sao? ếu là rộng khả năng bao quát hiện thực kết hợp
một nước giàu có và hùng mạnh thì tại sao với tăng cường chiều sâu vở diễn”12.
lại phải cầm súng cho Mỹ và xa qu hương, Sài Gòn - Gia Định trước kia,
xa gia đ nh để đến tận cái đất nước xa xôi TP.HCM ngày nay vốn là một trung tâm
này? Chúng ta cũng đáng thương nhưng kinh tế - chính trị - văn hóa thuộc vào loại
dường như người Đại Hàn còn đáng quy mô của đất nước. Đặc điểm địa lý tự
thương hơn nữa. Chúng ta vì giữ mảnh đất nhiên cùng với những biến động xã hội
của mình mà không còn cách nào khác, nhân văn đã sớm cấp cho đô thị trung tâm
phải chiến đấu và phải chết; nhưng còn khu vực Nam bộ này một năng lượng sống
những người Đại Hàn, sao lại phải đến tràn trề, biết đón nhận và tiếp biến nhiều
một đất nước không hề có quan hệ để rồi bị dòng chảy, nhiều thành tố văn hóa, tạo nên
thương và chết?”11. một tổng thể văn hóa chung phong phú
Trong thực tế, dịch chuyển thể loại là nhiều màu sắc. Nhìn riêng từ bình diện sân
con đường tắt, tuy nhanh nhưng không tròn khấu, từ thế kỷ XVII - XVIII, loại hình hát
vẹn về việc tiếp nhận những nền văn hóa bội đã định hình ở khu vực Đàng trong, đặc
khác. Sân khấu cải lương nói riêng, sân biệt ở thành Gia Định với sự ủng hộ tích
khấu Việt Nam nói chung nằm trong phạm cực của quan Tả quân Lê Văn Duyệt, Tổng
vi ảnh hưởng của vùng văn hóa chữ Hán trấn Gia Định. Đầu thế kỷ XX, khi văn hóa
( 漢 字 文 化 圏 ), cho nên những tác phẩm phương Tây du nhập và trở nên lớn mạnh ở
“hương xa” ngày trước, hay những tác Việt Nam, tại Nam kỳ, cải lương - một
phẩm dịch chuyển loại hình hôm nay hình thức sân khấu mới - ra đời trên cơ sở
không thoát ra được hệ tư tưởng, hình thái kế thừa âm nhạc tài tử, kếp hợp phong cách
văn hóa của khu vực. Chính vì vậy, dù viết diễn xướng hiện đại. Sân khấu cải lương
về con người, đất nước Hàn Quốc, nhưng trở thành “đặc sản” văn hóa tinh thần của
phong thái, cách nghĩ, cách cảm vẫn còn cư dân các tỉnh Nam kỳ, và đặc biệt là ở đô
nặng màu sắc Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn thị Sài Gòn. Năm 1985, Hội diễn sân khấu
nhận một cách công bằng, có thể dụng ý chuyên nghiệp toàn quốc là điều kiện xúc
93
- GIAO LƯU VĂN HỌC VÀ DỊCH CHUYỂN LOẠI HÌNH…
tác cho nghệ thuật kịch nói tiếp nhận từ quát cao, và phá vỡ những logic thông
phương Tây bén duyên với môi trường nghệ thường trong tư duy và thói quen sáng tạo
thuật Nam bộ. Như vậy, qua những biến của kịch hát truyền thống phương Đông.
chuyển của lịch sử con người, TP.HCM trở Tuy vậy, kịch Lê Duy Hạnh thường biểu
thành giao điểm của nhiều kịch chủng nghệ hiện tốt trong hình thái kịch hát truyền
thuật. Phối cảnh sôi động đó cho thấy thống. Nhiều kịch bản của ông được dàn
TP.HCM là môi trường cực kỳ năng động, dựng trước nhất ở lĩnh vực kịch hát, tiêu
thu hút/ đón nhận một cách tích cực những biểu như kịch bản Cội nguồn trước khi
loại hình sân khấu từ truyền thống đến hiện được cải lương hóa, nó đã được giới thiệu
đại, làm nên một bản sắc riêng. đến công chúng bằng hình thức sân khấu
Sinh ra trên quê hương đất võ Bình tuồng (do Nhà hát Tuồng Đào Tấn dàn
Định, nhưng hành trang nghệ thuật của Lê dựng, đạo diễn: Hoàng Ngọc Đình). Sở dĩ
Duy Hạnh lại gắn liền với vùng đất Sài vậy là vì kịch Lê Duy Hạnh giải quyết tốt
Gòn - TP.HCM. Đời sống sân khấu vừa mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại.
giàu sức sống vừa bộn bề những vấn đề đó Giữ được căn cốt truyền thống nhưng vẫn
chính là nguồn cội cho những sáng tạo hết mang đậm dấu ấn sáng tạo mới mẻ.
sức táo bạo của ông. Kịch Lê Duy Hạnh là Câu chuyện truyền thống và hiện đại
một thương hiệu kịch rất mới, rất hiện đại. đặt ra trong kịch bản là một nan đề trong
Nó không vấp phải căn bệnh trần thuật lại văn hóa, nhận thức luận của con người thời
sự kiện, nhân vật bằng hình tượng sân khấu đại mới. Mở cửa, giao lưu quốc tế là con
mà được xây dựng bằng cách chiết xuất đường sống còn trong xu thế thời đời đại
những mâu thuẫn tiềm ẩn trong đời sống xã của đất nước, của toàn dân tộc, nhưng con
hội đương đại, nâng lên thành một luận đề, người đương thời phải biết làm chủ bản thân
trong đó có sự tương tranh không ngừng. bằng những nền tảng vững chắc, hòa nhập
Có thể thấy được đặc trưng này rất rõ trong chứ không hòa tan. Tâm thức truyền thống
hiện tượng kịch độc diễn của Lê Duy Hạnh. chính là ký ức bản năng trong con người
Nhà nghiên cứu Đỗ Hương từng nhận xét Su-dâng, cô gái người Hàn gốc Việt. Bằng
“ ác giả Lê Duy Hạnh với chùm kịch dành việc sử dụng một hình mẫu vốn quen thuộc
cho một người diễn như Lý Chiêu Hoàng, trong những kịch bản của mình - Lý Chiêu
Độc thoại đêm, Hoàng hậu của hai vua, Hoàng - hay đúng hơn là hình mẫu người
Diễn kịch một mình, Hồn thơ ngọc. Ngoài phụ nữ trong bối cảnh chuyển giao thời đại,
tác giả Vũ Minh với một Ông già và biển cả, Lê Duy Hạnh vừa khắc họa sâu sắc tâm
thì tác giả Lê Duy Hạnh đến giờ phút này thức truyền thống, vừa chuyển tải những
gần như có thể đăng ký “thương hiệu” độc ngổn ngang thời đại đặt ra cho con người.
quyền cho loại hình kịch một m nh này”13. Đặt “gói” nội dung Cội nguồn trong
Kịch độc diễn là một hình thức kịch đòi hỏi diện mạo cải lương là một lựa chọn phù
sự điêu luyện trong sáng tạo và biểu diễn. hợp. Sân khấu cải lương ra đời như một
Người sáng tác - người diễn đồng thời phải kịch chủng hiện đại, phát triển dung hợp
đặt mình vào trạng thái phân mảnh ý thức, giữa hai dòng văn hóa Đông - Tây, sự kết
xoay chuyển thường xuyên, không ngừng hợp tài tình của yếu tố truyền thống và
tra vấn phản biện với chính mình. Kịch độc cách tân, giữa bản sắc cội nguồn dân tộc và
diễn nâng mâu thuẫn kịch lên tầm khái ánh sáng văn minh tân thời. Bản thân thuật
94
- TRẦN XUÂN TIẾN - VƯƠNG HOÀI LÂM
ngữ “cải lương” đi từ tên gọi của một trào tế So sánh văn học Việt Nam - Hàn Quốc…
lưu tư tưởng chính trị phương Tây cũng thu hút được nhiều nhà khoa học,
(réformisme), phát triển thành một tính từ chuyên gia hai nước tham dự.
biểu thị tính chất hiện đại của loại hình sân 2. Kim Ki-tae, nh h nh nghi n cứu văn học Việt
khấu mới (cải lương = tân kỳ/kim thời…), am ở Hàn uốc,
rồi được định hình thành một danh từ http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-
chung chỉ một loại hình sân khấu. Hình viet-nam/vhvn-nhung-van-de-chung/195-kim-
ki-tae-tinh-hinh-nghien-cuu-van-hoc-viet-nam-
thức cải lương đã tiếp thêm cho nội dung
o-han-quoc.html, truy cập ngày: 25/9/2016.
“luận đề” Cội nguồn một minh chứng cho
khả năng tìm kiếm những chân trời đón đợi 3. Kể từ năm 2002, Viện Dịch thuật Văn học
Hàn Quốc tổ chức giải thưởng thường niên
mới của sân khấu dân tộc giữa thời đại toàn
cho các tác phẩm dịch văn học Hàn và xuất
cầu hóa. bản ngoài lãnh thổ Hàn Quốc ở năm trước.
Trong bối cảnh hiện nay, khi mà toàn
4. Lee Han-woo, Bùi Thế Cường - Đỗ Ngọc
cầu hóa đã trở thành xu hướng khó thể Luyến, Nguyễn Thị Hiền dịch (2015), Việt
khước từ, mỗi đất nước, mỗi dân tộc luôn ý Nam - Hàn Quốc: Một phần tư thế kỷ chia sẻ
thức được tác dụng của việc quảng bá cùng phát triển, Nxb ĐHQG TP.HCM,
thương hiệu quốc gia từ văn hóa, tư tưởng. TP.HCM, tr.139-140.
Giao lưu văn chương nghệ thuật, với tư 5. Trong bài viết có một số tài liệu tham khảo
cách là một thành tố cấu thành nên văn hóa phiên âm thành Bang Hyun Suk, do cách
- đã, đang và sẽ là cầu nối hiệu quả trong phiên âm này gắn tới tên bài viết nên chúng
tiến trình giao lưu và phổ biến văn hóa. tôi giữ nguyên văn.
Với việc tiếp nhận cảm hứng về tư tưởng 6. hà văn Bang Hyun Suk: “Việt am đang là
sám hối và hòa giải trong thời hậu chiến từ mối quan tâm lớn của Hàn Quốc”, tại
tiểu thuyết Thời gian ăn tôm hùm của nhà http://www.nhandan.com.vn/mobile/vanhoa/d
văn Bang Hyeon-seok, soạn giả Lê Duy ien-dan/item/12170802, ngày truy cập:
04/9/2016.
Hạnh đã sáng tạo nên kịch bản Cội nguồn
mang nhiều thông điệp nhân văn. Tác 7. Hữu Việt (2007), Văn xứ Hàn, người xứ
phẩm là sự nối kết giữa quá khứ và hiện tại, Hàn..., tại http://www.tienphong.vn/van-
nghe/van-xu-han-nguoi-xu-han-103506.tpo,
nối kết giữa người Việt Nam và người Hàn
ngày truy cập: 04/9/2016.
Quốc, nối kết giữa văn học và sân khấu.
8. Diderot - Phùng Văn Tửu dịch (2006), Mỹ học,
Bài viết phần nào chỉ ra những nối kết này
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.229.
trên tinh thần gợi mở và chờ đợi những
9. Do soạn giả Hoàng Song Việt cải lương hóa,
hướng tiếp cận, lý giải sâu sắc hơn trong
Nghệ sĩ ưu tú Hoa Hạ đạo diễn. Thành phần
tương lai.
diễn viên: NSƯT. Thoại Miêu (bà Sáu Bình),
Chú thích: NSƯT. Vũ Luân (Li Sơn-du), NSƯT. Tú
1. Tháng 6/2014, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á Sương (Kim Su-dâng), NSƯT. Trọng Phúc
và Viện Nghiên cứu Hàn Quốc học Trung (An), Mai Thanh Phượng (Li Hi-sô), Thoại
ương (Academy of Korean Studies) phối hợp An (Thủy), Minh Hòa (Kim Đa-dung).
tổ chức Hội thảo quốc tế Nghiên cứu Hàn 10. Phan Trọng Thưởng (2002), “Tổng quan tiến
Quốc tại Việt Nam: Thành quả và phương trình văn học kịch Việt Nam nửa sau thế kỷ
hướng; Tháng 5/2016, Trường Đại học Đà Lạt XX”, Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX,
(Lâm Đồng) tổ chức Tọa đàm khoa học quốc tr.582.
95
- GIAO LƯU VĂN HỌC VÀ DỊCH CHUYỂN LOẠI HÌNH…
11. Bang Hyeon-seok (2005), Thời gian ăn tôm 8. Hoàng Nghĩa Nam (2005), Một nhà văn Hàn
hùm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.240-241. Quốc nổi tiếng với đề tài Việt Nam, tại
12. Lê Duy Hạnh (2011), Kịch chọn lọc, Nxb http://www.tienphong.vn/van-nghe/mot-nha-
Sân khấu, Hà Nội, tr.6-7. van-han-quoc-noi-tieng-voi-de-tai-viet-nam-
3540.tpo, ngày truy cập: 04/9/2016.
13. Đỗ Hương (2005), Về nghệ thuật diễn xuất
kịch hát truyền thống và kịch nói Việt Nam, 9. Nguyễn Thị Thắm chủ biên (2015), Nghiên cứu
Nxb Sân khấu, Hà Nội, tr.165. Hàn Quốc tại Việt Nam: Thành quả và phương
hướng, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 10. Phan Trọng Thưởng (2002), “Tổng quan tiến
trình văn học kịch Việt Nam nửa sau thế kỷ
1. Bang Hyeon-seok (2005), Thời gian ăn tôm
XX”, in trong Nhìn lại văn học Việt Nam thế
hùm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
kỷ XX, tr.562-590.
2. Denis Diderot - Phùng Văn Tửu dịch (2006),
11. Hữu Việt (2007), Văn xứ Hàn, người xứ
Mỹ học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Hàn..., tại http://www.tienphong.vn/van-
3. Lê Duy Hạnh (2011), Kịch chọn lọc, Nxb nghe/van-xu-han-nguoi-xu-han-103506.tpo,
Sân khấu, Hà Nội. ngày truy cập: 04/9/2016.
4. Phan Thị Thu Hiền (2014), “Giao lưu dịch 12. Trần Thúc Việt (2009), “Nghiên cứu văn học
thuật văn học giữa Việt Nam và Hàn Quốc Hàn Quốc tại Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo
với vai trò “cửa sổ văn hóa””, Tuần báo Văn quốc tế tiếng Hàn Quốc, Trường ĐH Ngoại
nghệ TP.HCM, Số 327 (ngày 13/11/2014). ngữ - ĐHQG Hà Nội,
5. Đỗ Hương (2005), Về nghệ thuật diễn xuất http://data.ulis.vnu.edu.vn/jspui/handle/1234
kịch hát truyền thống và kịch nói Việt Nam, 56789/1308; ngày truy cập: 11/11/2015.
Nxb Sân khấu, Hà Nội. 13. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2015), “Sám hối
6. Kim Ki-tae, nh h nh nghi n cứu văn học Việt và hòa giải trong hai tiểu thuyết Hàn Quốc
am ở Hàn uốc, viết về Việt Nam (Đọc Cái bóng của vũ khí -
http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa- 무기의 그늘 của Hwang Suk Young và Thời
viet-nam/vhvn-nhung-van-de-chung/195-kim- gian ăn tôm hùm - 시간 바다 가재 của Bang
ki-tae-tinh-hinh-nghien-cuu-van-hoc-viet-nam- Hyun Suk)”, Tạp chí Khoa học Đại học Văn
o-han-quoc.html, truy cập ngày: 25/9/2016. Hiến số 06 (tháng 02/2015), trang 71-80.
7. Lee Han-woo, Bùi Thế Cường - Đỗ Ngọc 14. hà văn Bang Hyun Suk: “Việt am đang là
Luyến, Nguyễn Thị Hiền dịch (2015), Việt mối quan tâm lớn của Hàn Quốc”, tại
Nam - Hàn Quốc: Một phần tư thế kỷ chia sẻ http://www.nhandan.com.vn/mobile/vanhoa/
cùng phát triển, Nxb ĐHQG TP.HCM, dien-dan/item/12170802, ngày truy cập:
TP.HCM. 04/9/2016.
Ngày nhận bài: 19/12/2016 Biên tập xong: 15/02/2017 Duyệt đăng: 20/02/2017
96
nguon tai.lieu . vn