- Trang Chủ
- Luật học
- Ebook Triết lý chính trị Trung Hoa cổ đại và vấn đề nhà nước pháp quyền: Phần 2 - Bùi Ngọc Sơn
Xem mẫu
- T a c i u v gọi m
h m hế à ở
Chương13
TRIẾT LÝ CHÍNH TRỊ TRUNG HOA c ổ ĐẠI
VÀ VẤN ĐỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYEN
- THAM CHIẾU VÀ GỢl MỞ
և TRIẾT LÝ CHÍNH TRỊ TRUNG HOA c ổ ĐẠI VÀ NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN - GÓC NHÌN THAM CHIẾU
Thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” (Reschtaat) ở Châu
Âu bắt nguồn từ những luật sư hiến pháp và những nhà
triế t học pháp luật người Đức và người Áo vào thê kỷ XIX.
Người Anh, Mỹ lại phát triển một chê độ mà họ gọi là
“rule of law” (chê độ pháp quyền). “Reschtaat” của Châu
Au và “rule of law” của Anh, Mỹ là những thuật ngữ khác
nhau, được tiến triển trong những bôi cảnh lịch sử khác
nhau, nhưng có nội dung giông nhau. Nhà nước pháp
quyền hay chê độ pháp quyền là những ý tưởng vê một
chíah quyền được đặt dưới quyền lực của pháp luật. Nhà
nưốc pháp quyền là một mô hình giới hạn công quyền
bằng pháp luật để bảo vệ các quyền và tự do của con người.
Kiểm soát công quyền bằng pháp luật là nội dung cốt lõi
của nhà nước pháp quyền.
199
- Trết l c í h trị Tu g H a c đại v v n đ n à ni p á q y n
i ý hn rn o ổ à â ề h Ét h p u ể
Những điểm tôl thiểu của một nhà nưóc pháp quyền mà
Barry Hager thuộc Trung tâm Mansfield về các vấn đê
Thái Bình Dương đưa ra là:
- Khi cơ quan lập pháp ban hành một đạo luật, nột
công dân phải được quyền đặt câu hỏi vê tính hợp hiến của
đạo luật đó.
- Khi cơ quan hành pháp thực hiện một hành động, nột
công dân phải được quyền đặt câu hỏi về tính hợp pháp
hoặc tính hợp hiến của hành động đó.
- Khi cơ quan tư pháp thực hiện một hành động, nột
công dân phải được quyền kháng cáo; nếu quyền kháng (áo
đến cấp cao nhất đã hết, phải có một cơ chê nào đó để có thể
có một luật mói có hiệu lực cao hơn luật hiện có theo cách
giải thích và áp dụng của toà án,14
3).
Với những điểm tối thiểu này, có thể nhận thấy rằng
trong một nhà nước pháp quyền, công quyền được giới hạn
bởi các_chuẩn mực pháp lý, và do đó hành vi của công
quyền có thể dự đoán trước được. Sự giới hạn công quyền
trong pháp luật, đặt quyền lực của pháp luật lên côag
quyền là nội dung của một nhà nước ứng dụng chê độ pháp
131 Dẫn theo: GS. Um bach, Đ ại học tổng hợp Posdam - Cộng hoà
14
liê n bang Đức. N ghiện cứu so sánh vê quá trìn h ph át triể n của Nhà
nưốc pháp quyền ở Đông Nam Á. Bài viế t trong H ội thảo quốc tê về
Nhà nước pháp quyền ở các nưốc Đông Nam Á, tổ chức tạ i T h à ih
phô Hồ Chí M in h , 11-13/9/2003.
200
- T a c i u v gọi m
h m hế à ở
quyền. Từ nội dung cốt yếu này lý thuyết về nhà nước pháp
quyền đặt ra những yêu cầu cho một nhà nước được gọi là
nhà nưỏc pháp quyền: chính quyền hợp hiến, chủ quyền
nhân dân, phân công quyền lực, tư pháp độc lập, tôn trọng
và bảo vệ các quyền của con người...
Những ý tưởng vê pháp quyền cũng như nhân quyền đã
nhanh chóng lan toả đến nhiều quốíc gia trong thê kỷ vừa
qua. Thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” đã có một tầm ảnh
hưởng phổ biến trên khắp các châu lục. Theo xu hướng dân
chủ và tiến bộ của nhân loại, Việt Nam đã7chính thức cam
• • •
kết thực th i một nhà nước pháp quyền trong Hiến pháp
1992 được sửa đổi năm 2001: “Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là một nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân”
(Điều 2).
Lý thuyết nhà nước pháp quyền tiến triển trong khung
cảnh của xã hội phương Tây. Đây là một lý thuyết rất nhân
đạo và dân chủ cho nên được áp dụng phô biến trên thê
giói. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng các xã hội phương
Đông không có những ý tưởng gần giông như lý thuyết về
nhà nước pháp quyền. Tìm về triế t lý chính trị phương
Đông, chúng ta nhận thấy có những quan điểm rất gần vối
yêu cầu của một nhà nước pháp quyền. Có thể kể đến các
chủ thuyết của Lão Tử, Trang Tử, và Hàn Phi Tử.
Điển hình nhất là Lão Tử và Trang Tử đã có quan điểm
vê giới hạn sự can thiệp của công quyền vào đời sống của
201
- Trết l c í h trị Tu g H a c đ
i ý hn r n o ổ ại và rân đ n à n Ẻ p á íU n
ề h u t h pỊ ố
người dân đê bảo vệ tự do của con ngưòi. Tuy nhiên, Lão rử
và Trang Tử không biết gì vê cái thuật ngữ “nhà nước pháp
quyền” của phương Tây cả. Họ có những tư tưởng giống /ới
các lý thuyết gia của nhà nước pháp quyền. Nhưng không
phải vì thê mà gọi là họ có những tư tưởng về nhà ntớc
pháp quyền. Cũng như không phải thấy biểu đồ lục thập tứ
quái có điểm giống với hệ thống số nhị tiến của Lepniz nà
nói rằng những nhà sáng lập ra Kinh Dịch có tư tưởng vê
hệ thống sô nhị tiến. Không nên gắn một thuật ngữ hiận
đại cho cổ nhân. Triết lý của Lão Trang không phải là tr.ết
lý vê nhà nước pháp quyền nhưng gần với lý thuyết vê n.ià
nước pháp quyển và do đó có những yếu tô՜ có thể sử dụig
được trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền của V ệt
Nam hiện nay.
Triết lý pháp trị của Hàn Phi Tử đê cao vai trò của phip
luật trong quản trị xã hội. Điều này cũng rất gần với yèu
cầu của một nhà nước pháp quyền. Các tiêu chuẩn cùa
pháp luật như khách quan, công bằng, minh bạch, ổn địầh
cần thiết vói pháp luật trong một nhà nước pháp quyền.
Tóm lại, nhà nước pháp quyền là một học thuyết cua
phương Tây nên không thể có tư tưởng về nhà nước phip
quyền ở phương Đông. Không nên gắn một thuật ngữ cua
phương Tây cho các triế t gia cổ phương Đông. Nhưng triế t lý
chính trị phương Đông có những hạt nhân tư tưởng rất gìn
với lý thuyết nhà nước pháp quyền. Trong tiến trình xíy
dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam - một xã hội phươig
Đông, những triế t lý này có những yếu tô՜ rất có ý nghĩa.
202
- T a c i u v g t ĨÌ 1
h m hế à ọ' Ở
Nhà nưốc pháp quyển là một trong sô các học thuyết
chính trị - pháp lý. Đê tô chức chính quyền và xây dựng
pháp luật không thể chỉ dựa duy nhất vào học thuyết nhà
nước pháp quyền(Như đã nói, nội dung cốt lõi nhất của nhà
nước pháp quyền chỉ là vấn đê đặt quyền lực của pháp luật
lên công quyền để bảo vệ con người. Dù rằng học thuyết
nhà nước pháp quyền là một học thuyết trọng yếu trong
việc hoàn thiện tô chức và hoạt động của nhà nước cũng
như hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện nay, nhưng
không có nghĩa là học thuyết này đã có thể sử dụng để giải
quyết tất cả các vấn đê phát sinh trong đời sống nhà nưốc
và pháp luật. Vì vậy, bên cạnh học thuyết nhà nưốc pháp
quyền, chúng ta cũng cần phải tìm đến các chủ thuyết
chính trị pháp lý khác vốn sẵn có ở phương Đông của chúng
ta. Các chủ thuyết chính trị của các Nho gia, Mặc gia, Kinh
Dịch có thế cùng với học thuyết nhà nước pháp quyền góp
phần hoàn thiện nhà nước và pháp luật Việt Nam vì nhu
cầu phát triển xã hội và phục vụ con người.
II. Từ TRIẾT LÝ CHÍNH TRỊ TRUNG HOA c ổ ĐẠI GỢI Mỏ
ĐẾN VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỂN VIỆT NAM
HIỆN NAY
■
1. Nhà nước của dân
Do những hạn chê của thòi đại triế t học Trung Hoa cổ
đại chưa thể có tư tưởng vê nhà nước của dân - tức là một
nhà nước nhận quyền lực từ nhân dân, nguồn gôc của
203
- Trết l c í h trị Tu g H a c đ v v n đ n à Ո Օ p á q y n
i ý hn r n o ố ại à â ề h Ա Է h p u ề
quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân. Nhưng họ đã
nhận thấy sức mạnh của nhân dân, dân là gốic của nưốc,
còn dân thì còn nưỏc, mất dân thì mất nước. Đây thực cnất
là mầm mông của tư tưởng vê nhà nước do dân - tức là một
nhà nước mà trong đó nhân dân có vai trò to lớn trong việc
thực hiện các chính sách của nhà nước, nhà nước phải p'ìát
huy được sức mạnh của nhân dân trong việc thực hiện :ấc
công việc của nhà nước. Hơn nữa, triế t học Trung Hoa cô
đại đã có những tư tưởng cho rằng các chính sách của r.hà
nước phải vì lợi ích của nhăn dân, phải có sự thống nhất
giữa lợi ích của nhà nước và lợi ích của nhân dân. Các
phương thức quản lý nhà nước: nhân trị của nho giáo, kièm
ái của Mặc gia, vô vi của đạo gia, và giải pháp trung dung
kết hợp nhân tr ị và đức tr ị trong Kinh Dịch đều yêu cầu (ác
chính sách của nhà nước phải vì lợi ích của nhân dân.
Điều 2 Hiến pháp Việt Nam đã khẳng định Nhà ntớc
Việt Nam là Nhà nưóc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân. Các tư tưởng vê nhà nước của dân điợc
đê cập trong các triế t thuyết cổ đại Trung Hoa ít nhiêu có
những nội dung phù hợp với quy phạm trên của Hiến phỉp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã thấm nhuần các giá ;rị
tiến bộ của tư tưởng phương Đông, đã sốm chỉ ra cho chúig
ta thấy sức mạnh của nhân dân - một nhà nước lấy dân làm
gốc: “Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nin
nhân dân” . Đó là một sự kê thừa các giá tr ị tiến bộ của các
nhà tư tưởng đi trước. Nhưng người xưa chỉ mói nhận thày
sức mạnh của nhân dân, nhưng chưa nhận thấy nhân din
204
- T a c i u v gợi m
h m hế à ở
là người chủ của quyền cai trị, tức là quyền lực nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở thấy được sức mạnh to lón
của nhân dân đã đi đến khang định rằng nhân dân là
nguồn gôc của quyên lực nhà nước: “Nưóc ta là nưốc dân
chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều
của dân”“ 3).
5
Như vậy, trong Nhà nước ta, nhân dân không những là
một sức mạnh to lớn, mà còn là nguồn gổc của quyển lực
nhà nước. Do vậy, mọi công việc của Nhà nước đều vi lợi ích
của nhân dân, xuất phát từ ý nguyện của nhân dân. Trách
nhiệm của người cầm quyền là phải làm “người đầy tớ
trung thành của nhân dân”
- Trết l c í h trị Tu g H a c đ v v n đ n à ni p á (j ề
i ý hn r n o ổ ại à â ề h úc b p fy n
được diễn ra một cách chủ động, lắng nghe, nắm bắt nhu
cầu của các tác nhân xã hội. Phải thực hiện đúng phưdng
châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Cụ thể như trong
các vấn đề đấu tranh phòng chống tội phạm, các tệ nạr: xã
hội, chống thiên tai, lụ t lội, hạn hán, bảo vệ môi trườr.g...
cần phải phát huy được sự tham gia của nhân dân.
Trong một nhà nước do dân không những nhà nước
phải phối hợp vối nhân dân để thực hiện các công việc của
Nhà nước mà Nhà nước cần phải mạnh dạn giao cho nhân
dân thực hiện những công việc nhất định mà Nhà nước
không trực tiếp thực hiện. Ví dụ, Hội đồng nhân dân khòng
chỉ quyết định các vấn đề của mình còn phải giao quyền cho
nhân dân, phát huy quyền tự chủ sáng tạo của nhân dân.
Vai trò của Hội đồng nhân dân cấp xã đôi vói vấn đê này là
ở chỗ xác định rành mạch những gì Nhà nước quản lý và
kiểm tra chặt chẽ, những gì nằm trong phạm vi quyền dân
chủ trực tiếp của nhân dân. Nhà nước có thẩm quyền cho
phép hay bác bỏ, chẳng hạn như Nhà nước có thẩm quvền
xác nhận, chứng thực công chứng, thẩm quyền ra lệnh đối
với nhân dân, cưỡng chê đối với, nhân dân phải thực thi
nghĩa vụ đối với Nhà nước, đốì với các bên bị hại về dmh
dự và quyền lợi vật chất. Còn lợi ích của cộng đồng, xóm,
xã, th ị trấn, khu dân cư, phường là do dân bàn cụ thể, cân
thoả thuận mức đóng góp, dân tổ chức làm (chứ Nhà nước
không đứng ra mở thầu và chỉ định thầu) và dân hưcng
trực tiếp thành quả đó.
- Nhà nước chăm lo đến đời sống vật chất của dân. Lấy
206
- T a c i u v gậ m
h m hế à ở
dân làm gôc, chăm lo đến đòi sống của người dân. Nho gia
nói nhiều nhất đến sự phân phôi quân bình đê xã hội không
có ngưòi giàu quá, kẻ nghèo quá. Đây là những ý tưởng còn
ý nghĩa đối với chúng ta hiện nay.
Từ khi Việt Nam chuyên sang nền kinh tê th ị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống của nhân dân đã
được nâng cao. Thành phần hộ kinh tê gia đình đã thích
ứng nhanh chóng với cơ chê kinh tê mới và làm giàu một
cách hợp pháp. Những hộ giàu tăng đáng kể. Tuy nhiên,
nền kinh tê th ị trường cũng tạo ra một sự phân hoá giàu
nghèo ngày càng cao. Đại hội Đảng toàn quôc lần thứ IX đã
nhận định: “Mức sống nhân dân, nhất là nhân dân ở một
sô vùng quá thấp. Chính sách tiền lương và phân phối
trong xã hội còn nhiều bất hợp lý. Sự phân hoá giàu nghèo
giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng
dân cư tăng lên nhanh chóng”(173).
Chính vì vậy, Đảng ta đã đặt ra nhiệm vụ phải “thực
hiện công bằng trong xã hội”, “Thực hiện chương trình xoá
đói giảm nghèo thông qua những biện pháp cụ thể, sát vối
tình hình từng địa phương, sớm đạt mục tiêu không còn hộ
đói, giảm mạnh các hộ nghèo”'1 '.
™
131 Đ ảng Cộng sản V iệ t Nam. Văn kiện Đ ạ i hội đ ạ i biểu toàn quốc
17
lầ n th ứ IX . N X B chính t r ị Quôc gia, H,2001, tr.75.
(l3 > Đ ảng Cộng sản V iệ t Nam. Văn kiện Đ ạ i hội đ ạ i biếu toàn quốc
8
lầ n th ứ IX . N X B chính t r ị Quốc gia, H, 2001, tr.106.
207
- s
Trết l c í h trị Tu g H a c đại
i ý hn rn o ổ và v n đ n à n tc p á q y n
ă ề h vì h p n ề
Nhà nước phải có những chính sách phân phối qLân
bình trong xã hội, thu dần khoảng cách và trình độ paát
triển về mức sông giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lốp
dân cư, giảm bốt sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội.
Phong trào xoá đói giảm nghèo ở nưốc ta bắt đầu từ
năm 1992, xuất phát từ một phong trào quần chúng và đã
nhanh chóng trở thành chương trình của nhiều cđ qmn,
đoàn thể ở địa phương. Đến năm 1998 phong trào xoá đói
giảm nghèo đã trở thành một chương trình quốc gia vê loá
đói giảm nghèo. Do vậy, tỷ lệ đói nghèo trong cả nước giim
khá nhanh. Theo đánh giá trong các báo cáo của các cơ
quan Liên hợp quốc, Việt Nam giảm được một nửa tỷ lệ ỉói
nghèo trong thập niên vừa qua là điều gần như chưa nước
nào đạt được.
Tuy nhiên, việc thực hiện chương trìn h mục tiêu quốc
gia xoá đói, giảm nghèo vẫn còn những khó khăn và thách
thức. Nhà nưốc cần tiếp tục có những chính sách đê tLực
hiện tốt chương trình này.
Một thách thức lớn đốì với tiến trình thực hiện việc ĩ.oá
• • • •
đói giảm nghèo nằm ở phía chính những người nghào.
Nhiều hộ gia đình nghèo thiếu ý thức vươn lên vượt ra khỏi
cảnh nghèo khó, nhiêu khi lại có thái độ cam chịu với hcàn
cảnh, ỷ lại vào cộng đồng và chính quyền. Do vậy, Nhà nrôc
cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động thuyết phục
nhằm nâng cao nhận thức cho ngưòi dân để họ hăng hái
vươn lên, tự khai thác những tiềm năng, thê mạnh của
208
- T a c i u v gợi m
h m hê à ở
mình đê vươn lên làm giàu chính đáng.
Một trong những vấn đề quan trọng của việc xoá đói
giảm nghèo là việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn. Nhìn
chung, nguồn vốn chưa được sử dụng một cách thực sự có
hiệu quả: nơi cần vốn thì không có, nơi không cần thì lại có,
một sô dự án có sự thâm hụt vốn, nhiều nơi chưa sử dụng
vốn đúng đối tượng, sai mục đích. Do đó, vấn đề đặt ra đổi
với các cấp, các ngành, nhất là chính quyền địa phương là
phải tăng cường sự chỉ đạo sâu sát cơ sở, kiểm tra giám sát
thực hiện đê giải quyết, lồng ghép có hiệu quả các chương
trình, dự án phát triển kinh tê xã hội với Chương trình mục
tiêu quốíc gia xoá đói, giảm nghèo.
Nhà nưỏc cần tiếp tục đầu tư giúp cho những xã đặc
biệt khó khăn ở miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc. Các bộ, ngành cần tiếp tục dành
những chương trình, dự án, nguồn vốn cho những địa
phương nghèo. Đặc biệt dành nguồn kinh phí cho đào tạo
cán bộ, tập huấn, hướng dẫn kinh nghiệm làm ăn, xây
dựng mô hình xoá đói giảm nghèo có hiệu quả.
Khi đã chăm lo đến đòi sống của người dân nhà nước
phải tiết kiệm trong việc sử dụng tài sản của quốc gia.
Trong nhà nước Việt Nam hiện nay, để phát triển đất nước,
sử dụng một cách hợp lý tài sản của quốc gia, không thể
không thực hiện chính sách tiết kiệm. Nhà nước phải có
những chính sách sử dụng một cách hiệu quả, tiế t kiệm tài
sản của quốc gia. Nhà nước phải có chính sách động viên,
209
- Ti k l c í h trị Tu g H a c đại v v n đ n à n É p á q y n
rc ý hn rn o ổ à ẫ ề h u t h p uề
khai thác, sử dụng tôi đa các nguồn nội lực đê tập trung :ho
phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả của nên
kinh tế. Phải coi trọng nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả trong
phân bổ và sử dụng các nguồn lực của đất nưỏc thê hiện
trong chi tiêu thường xuyên và trong các dự án đầu tư của
nhà nước, các doanh nghiệp và toàn xã hội. Chính sách và
cơ chê tài chính tiền tệ phải hướng dẫn các thành phần
kinh tê sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm các nguồn lực sẵn có,
đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để đảm bảo mục tiêu piát
triển kinh tê của đất nưóc.
Hơn nữa, Nhà nước cũng phải tăng cưòng các biện pláp
chông lại những tác nhân làm hư hao, thất thoát tài ỉản
của Nhà nưóc và của nhân dân như tham nhũng, lãng phí.
Nước ta còn nghèo, dân ta còn nhiều khó khăn, nên Nhà
nước cùng với việc phải có kê hoạch sử dụng thật tiết kiệm,
hiệu quả tài sản của nước, của dân, là phải kiên quyết cấu
tranh chông tham nhũng, lãng phí. Hiến pháp Việt Nim
sửa đổi đã bổ sung vào Điều 8 nội dung “chống lãng p h i’.
Mục đích của sự bổ sung này là nhằm đấu tranh với tệ
tham nhũng, lãng phí, tạo một cơ sở Hiến pháp cho ccng
cuộc chống tham nhũng, chống lãnh phí, tiế t kiệm để p!át
triển đất nước.
- Nhà nước và nhân dân đồng lòng. Trong một nhà rước
vì dân, mọi chính sách của Nhà nưóc đều phải vì lợi ích của
nhân dân, phải có sự thông nhất của nhà nưốc vói ý chí,
nguyện vọng của nhân dân (ý mà Mặc Tử gọi là thưcng
đồng). Để thực hiện được điều này, trước khi đưa ra nhũng
210
- T a c i uv g tm
h m hê à ọ' ở
chính sách quản lý nhà nước liên quan đến lợi ích của nhân
dân, phải đưa ra cho nhân dân tham gia đóng góp ý kiến,
Nhà nước phải tôn trọng và ghi nhận ý kiến của nhân dân.
Đặt biệt là trong việc làm luật của Quốc hội phải thể hiện
được ý nguyện của nhân dân, phải mỏ rộng các hình thức
để nhân dân tham gia vào quá trình lập pháp của Quôc hội.
Các đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu
sự giám sát của cử tri, thường xuyên trực tiếp tiếp xúc vối
cử tri, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của cử tri, thu thập và
phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của nhân dân với
Quôc hội và cơ quan nhà nước hữu quan.
Hội đồng nhân dân trước khi quyết định một vấn đê gì,
nhất là những vấn đề liên quan đến đời sổhg vật chất và
tinh thần của nhân dân, phải đưa ra để nhân dân thảo
luận và đối thoại thực chất với nhân dân. Hội đồng nhân
dân phải nghe dân nói và nói cho dân nghe, qua đó tập
trung được ý kiến đúng đắn của nhân dân thành những
quyết định đê nhân dân thực hiện và kiểm tra.
Điều cần đáng nói là trong một nhà nước vì dân, để đảm
bảo sự thông nhất giữa ý chí của Nhà nước và ý chí của
nhân dân không thể thiếu cơ chê thực hiện trưng cầu dân
ý. ở Việt Nam, thể chê trưng cầu dân ý được khẳng định
ngay trong bản Hiến Pháp đầu tiên qua quy phạm về phúc
quyết: “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và
những việc quan hệ đến vận mệnh quổc gia, theo điều thứ
32 và 70”. Hiến pháp hiện hành cũng thừa nhận thể chê
này qua quy định vê thẩm quyền của Quốc hội quyết định
211
- Trết l c í h trị Tu g H a c đ i v v n đ n à n õ p á q y n
i ý hn r n o ổ ạ à â ề h ú t h p uề
việc trưng cầu dân ý tại Điều 84. Tuy nhiên, trên thực tê ở
Việt Nam chưa có cuộc trưng cầu dân ý nào. Mặc dù HLên
pháp thừa nhận nhưng thiếu một cơ sở pháp lý cụ thể cho
việc thực hiện quyền bỏ phiếu trưng cầu của nhân dàn.
Trong một cơ chê dân chủ hiện đại, Nhà nước phải p iá t
huy được trí tuệ của nhân dân. Một nhà nưốc biết lảng
nghe và học hỏi dân, biết bồi dưỡng và nâng cao dân thì sẽ
thấy dân không chỉ nói lên điều mình mong muôn mà còn
làm sáng tỏ trí tuệ của mình, gợi ý hoặc chỉ ra rằng cần
luật lệ gì và luật lệ ấy phải có nội dung như thê nào. cơ
quan nhà nước cần giải quyết các vấn đề quốc kế, dân s:nh
ra sao(19 Để quyền bỏ phiếu trưng cầu của nhân dân trỏ
3 ).
thành hiện thực, cần có văn bản pháp luật cụ thể hoa Hến
pháp để tạo một cơ sỏ pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện ;hể
chê dân chủ trực tiếp này của nhân dân. Trong hoàn cẻnh
hiện nay, điều kiện đã chín muồi cho việc xây dựng, tan
hành Luật về trưng cầu dân ý.
2. Nhà nước vì con người
Học thuyết nhà nước pháp quyền đặt ra mục tiêu lảo
vệ quyền con ngưòi. Quyền con ngưòi ở đây được hiểu là
quyền cá nhân. Nhà nước pháp quyền phải bảo vệ ĩảc
quyền tự nhiên vốn có của con người. Bảo vệ quyền cá nhân
là nội dung của chủ nghĩa nhân đạo phương Tây được phản
ánh trong học thuyết Nhà nước pháp quyền. Do đặc điìm
(139) B ộ T ự pháp. N ghiên cứu tư tưởng H ồ C h í M in h về nhà nước và
ph áp lu ậ t, 1993, tr.80.
212
- T a c i u v gậ m
h m bế à ở
của văn hoá Việt Nam, chúng ta không thê bê nguyên xi
quan niệm của phương Tây về quyền con ngưòi với tư cách
là quyền cá nhân vào Việt Nam trong tiến trình xây dựng
nhà nưóc pháp quyền. Trong quá trình tất yếu của sự phát
triển dân chủ, chúng ta đương nhiên thừa nhận các quyên
cá nhân, nhưng phương thức của chúng ta khác phương
Tây. TS Hoàng Ngọc Hiến viết: “Trong khí quyển văn hoá
của xã hội ta, sự khẳng định “phẩm giá cá nhân” và những
cái “riêng” của cá nhân phải gắn liền với sự “chung”. “Hoà
nhi bất đồng” đó là con đường khẳng định phẩm giá cá
nhân ở một xã hội còn mang nặng truyền thống văn hoá
phương Đông”
- Trết l c ắh trị Tu g H a c đ v v n đ n à
i ý hi r n o ổ ại à ấ ề h ՈԱՕԷ p á qy n
hp jề
thế giới thứ hai có thể có được nền kinh tê phát triển vượt
bậc chính là nhờ nắm được tinh thần văn hoá nho gia. Kinh
tê Nhật Bản thời Minh tr ị duy tân có thế phát triển nhanh
được là nhò ba yếu tố: vốn, pháp quy, và tinh thần. T.nh
thần là yếu tô՜ chủ yếu. Nói cụ thể là yếu tố tinh thần ch:êm
50% còn pháp quy và vôn chiếm 40% và 10%. Tinh thần
của người Nhật chính là tinh thần phương Đông do văn aoá
Nho gia và thiện tông Phật giáo bồi dưỡng nên mà có. ũốt
lõi của tinh thần này vẫn là tinh thần nhân đạo lấy xã hội
làm gốc. Tư tưởng “nhân” của Khổng Tử được thể hiện rõ
trong sự nhảy vọt vê kinh tê của Nhật Bản. ơ Nhật Bán,
một xí nghiệp hoặc một tập đoàn xí nghiệp đều giông rhư
một gia đình. Giữa các thành viên có.một tinh thần trích
nhiệm, một. đạo đức và nghĩa vụ nhất định, có môi quan hệ
tình cảm liên đối. Giám đốc đối với công nhân như đốLvới
thành viên gia_đình-của _mình, công dân cũng dược bổi
dưỡng nhiều mặt, hơn nữa là_bảo đảm thuê công nhân siôt
đời, nhấn mạnh quan niệm giá tr ị tập thể và tổng thể. nất
cả đều lấy điều hoá phối hợp để giải quyết giữa con ngiời
với con người0 u.
4
Một tinh thần lấy con người xã hội làm gốc không chi có
thể được ứng dụng trong các tổ chức kinh tê mà còn có 'hể
được sử dụng trong các quan hệ chính trị. Nhà nưốc pháp
quyền ở Việt Nam cùng với việc thừa nhận và bảo đảm tác
(141 ) T r ầ n Chí Lương. Đ ôi th o ạ i với tiên triế t về văn hoá phương Đ m g
th ế kỷ 21. N X B Đ ại học quốc gia Hà Nội, 1999, tr.140-142.
214
- T a c i u rà g m
h m hê ợi ở
quyền cá nhân cũng lấy con ngưòi xã hội làm gốc. Một con
người xã hội là một con người đặt trong các mối quan hệ hài
hoà của xã hội liên kết với nhau bằng các giá trị đạo đức.
- Dùng tinh thần nhân bản, dùng đạo đức để kiểm soát
quyền lực
Tinh thần lấy con người xã hội làm gốc của nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam trước tiên cần thể hiện ở cách thức
tô chức quyền lực nhà nước. Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam nên lấy sự hài hoà giữa con ngưòi với con người để xử
lý các quan hệ quyền lực. Nếu như các nhà nước pháp
quyển phương Tây lấy cơ chê kiềm chế -đấLirong, chê ước
quyắn Ịựp để kiểm, soát lạm quyền thì Nhà nước pháp
quyền Việt Nam với tinh thần của nhà nước “dĩ nhân vi
bản” không chấp nhận một cơ chê như vậy. Điều đó không
có nghĩa là chúng ta không có cơ chê kiểm soát quyền lực.
Nhà nưóc pháp quyền tất yếu phải có cơ chê kiểm soát
quyền lực hữu hiệu. Nhưng đối trọng quyền lực là cách
thức của phương Tây khó dung hợp vối văn hoá người Việt.
Cách thức của Nhà nước pháp quyền Việt Nam là dùng
tinh thần nhân bản để kiểm soát quyền lực. Tức là trong
quan hệ q u y ề n lực phải lấy sự hài hoà giữa con người với
con ngưòi làm yếu tô căn bản đề điều phổi quyền lực. Sự
duy trì thường xuyên tinh thần hài hoà, các giá trị đạo đức
nhân bản của phương Đông có thể là một cách thức hữu
hiệu để kiểm soát quyền lực trong điều kiện xây dựng nhà
nưóc pháp quyền ở Việt Nam. Các giá trị đạo đức của
phương Đông không chỉ có ý nghĩa đối với việc tu luyện đạo
215
- Trết l c í h trị Tu g H a c đ v v n đ n à n Ẻ p á q) n
i ý hn r n o ổ ại à â ề h u t h p j ề
đức cá nhân mà còn có thể được dùng xây dựng đạo đức
trong.chính quyền. Sự thực th i những giá tr ị đạo đức đó
trong chính quyền sẽ rất hiệu quả trong việc kiểm soát
quyền lực mà không cần phải có một cơ chê đối trọng qu/ền
lực như nhiều quốc gia phương Tây.
Nhà nước vì con người phải đề cao vai trò của con ngỉời.
Nho giáo nói đến vấn đề tr ị nước đều gắn với chủ thể là :on
ngưòi: vua, quân tử...Yếu tô" con ngưòi có vai trò nhiều khi
có ý nghĩa quyết định. Trong nhiều vấn đề bất cập của ahà
nước, đôi khi không phải lý do từ phía bộ máy tổ chức ìay
thể chê mà chính do con ngưòi thực hiện. Tình trạng tham
nhũng là một chứng minh cho việc quản lý kém hiệu quả
của nhà nước - có nguyên nhân từ yếu tố con ngưòi. Trong
nhiều trường hợp chính sách quản lý nhà nước không pnải
không tốt, nhưng khi được triển khai trong thực tế, thì
chính do những con ngưòi thực hiện vì thiếu khả năng,
thiếu đạo đức, vì những lợi ích cá nhân mà đã làm cho nục
đích tốt đẹp của chính sách không đạt được. Đạo đức tủa
người lãnh đạo phải được đê cao để chống sự tha hoá (ủa
quyền lực nhà nưốc, vì lợi ích nhân dân và tiến bộ xã hòi.
Nho giáo đã chỉ ra rằng, quan chức phải là người hen,
tức là những người quân tử, ngưòi có tài, có đức. Nho gáo
nhấn mạnh ngưòi quân tử phải học nhiều để có tà i có Ểức
mới đáng làm người lãnh đạo thiên hạ. Những yêu cầu rày
cũng đúng với đạo đức trong chính quyền hiện nay ở ntớc
ta. Tuy nhiên nội dung có khác. Tài năng không phải là pỏi
về lục nghệ, đạo đức không phải là đạo đức phong kiến nà
216
- T a c i uv g m
h m hê à ọi ờ
đạo đức xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí M inh nói: “Đạo
đức ngày nay cao rộng hơn: Không phải chỉ có hiếu với bố
mẹ, mà trung vối nưốc, hiếu với dân. Đạo lý ngày xưa của
các cụ nêu lên không phải ai cũng làm được, vì con người
sông trong xã hội cũ là xã hội người đi áp bức bóc lột người,
quan hệ giữa người với người thường là xấu. Bây giò xã hội
mối, không có áp bức bóc lột, ai cũng có thể vươn tới đỉnh
cao của đạo đức cách mạng. Những gương thánh hiền ngày
xưa chỉ có mấy chục và là chuyện của nước ngoài, chuyện
tưởng tượng ra. Còn thánh hiền ngày nay bao gồm hàng
triệu con người có thật trong nhân dân Việt Nam ta”(l4 ).2
Trong những thập kỷ gần đây, tại nhiều nưóc Châu Á:
Hàn Quôc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo là những nước
có truyền thống Nho giáo phát triển với tốc độ chưa từng
có, đã có sự phát triển nhanh chóng về các mặt kinh tế, xã
hội và khoa học, kỹ thuật. Nhiều nhà khoa học phân tích
rằng chính Nho giáo là nhân t ố thúc đẩy của những nước
này(13 Trong sô՜ các yếu tô՜ của Nho giáo góp phần thúc đẩy
4).
sự phát triển của các quốc gia nói trên, triế t lý về người
quân tử có ý nghĩa lớn đối với đội ngũ cán bộ, công chức của
nền hành chính.
Truyền thống hiếu học của người quân tử mà Khổng
học đã tạo dựng nên đã được Hàn Quốc khai thác và đạt
° 4 ’ Hồ Chí M inh . Tuyển tập, tập I I. N XB Sự th ậ t, H, 1980, tr.492.
2
V ũ K hiêu. N ho giáo và p h á t triể n ở Việt N am , N X B Khoa học xã
1
hội, H, 1997, tr.22.
217
- Trấ l c ửh trị Tu g H a c đại v v n đ n à m cp á q y n
í tý h i rn o ổ à á ề h ũ h p uề
những hiệu quả. Truyền thống này đã giúp cho Hàn Quốc
trong thòi gian ngắn (vài ba thập kỷ) đã đào tạo được đội
ngũ chuyên gia có trình độ cao trong các ngành khoa học
như ngành điện tử, tin học và đặc biệt là một lóp người có
tài năng quản lý kinh tê hữu hiệu. Anh hưởng của Nho giáo
đã làm cho Nhật Bản và Hàn Quốc có được những người
lãnh đạo đều là những người có uy tín, những người có học
thức, những “quân tử kiểu mới”a 44 ).
Việt Nam là một đất nước đã từng có những ảnh hưing
của Khổng học và do đó trong truyền thống chúng ta cũng
đã có những con người có tư cách của ngưòi quân tử thư
Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyên... Thiết nghĩ
rằng chúng ta có thể học tập các quốc gia là các con ròng
châu Á trong việc khai thác nho giáo trong sự nghiệp p.iát
triển đất nước. Từ quân tử theo Khổng học họ đã có những
người quân tử kiểu mới. Chúng ta cũng có thể khai tkác
đạo của người quân tử trong Khổng học để tạo ra nhíng
người “quân tử kiểu mới” .
Khổng Tử không phản đối chê độ “thân thân”, nhing
người quý tộc mà không có tài năng thì không đáng là
người quân tử và không xứng đáng đảm nhiệm các cc'ng
việc nhà nước. Khi quyền lực nhà nước xuất hiện, hện
tượng “thân thân” gắn chặt với việc hành xử quyền lực. Xưa
nay đều như vậy. “Thân thân” hay không “thân th ín ”
141V ũ Khiêu. N ho giá o và p h á t triể n ở Việt N am , N XB Khoa họcxã
14
hội, H, 1997, tr.73, 75.
218
nguon tai.lieu . vn