Xem mẫu

ĐÔI ĐỊỂƯ CẢM VỂ THƠ TRỮ TÌNH ở CỦA CHỦ TỊCH HỔ NHẬN CHIÊN KHU CHÍ MINH Nguyễn Huy Quát Đọc thơ trữ tình 0 chiến khu cúa Bác, chúng ta có thể cảm nhận được nhiều điều về hiện thực cuộc sống, chiến đấu, về cảnh vật và tình ngưòi, về những chuyển biến của cách mạng Việt Nam trong một giai đoạn kháng chiến trường kỳ của dân tộc, ở một vùng nổi tiếng của đất nước: Chiến khu Việt Bắc. Và qua những tác phẩm trữ tình ấy, nghệ thuật cấu tứ, lốì tả cảnh ngụ tình, tài sử dụng ngôn ngữ... của tác giả cũng được thể hiện một cách rõ nét và đặc sắc. CẢNH VÀ TÌNH TRONG THƠ TRỮ TỈNH ở CHIẾN KHU CÙA BÁC Phần lớn thơ trữ tình của Bác được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn và ngũ ngôn tứ tuyệt. Trong cuốn “Thớ Hồ Chí Minh” do Bích Hằng sưu tầm và tập hỢp (Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, Hà Nội 1997) thì từ năm 1942 đến 1954, Bác có 15 bài 216 thơ chữ Hán với những nội dung trữ tình khác nhau; Khi là tâm sự kín đáo về tương lai của cách mạng nước ta trước tình hình trong và ngoài nước đang có những diễn biến phức tạp; Khi nhớ bạn, nhố các chiến sỹ vối tấm lòng của người đồng chí và của người cha; Khi vui với công việc, với bạn cao niên, với trẻ nhỏ, lúc mừng tin thắng trận báo về; Khi lạc quan yêu đòi, say việc nước mà không nghĩ mình tuổi tác đã cao... Bài Thướng sơn (Lên núi - 1942) có lẽ là tác phẩm trữ tình viết bằng chữ Hán được ra đời sóm nhất ở Việt Bắc, sau 30 năm Bác đi tìm đưòng cứu nước trở về: Lục nguyệt nhị thập tứ, Thướng đáo thử sơn lai. Cử đầu hồng nhật cận, Đối ngạn nhất chi mai. (LỮNG DẺ, 1942) Dịch thơ: Hai mươi tư tháng sáu, Lên ngọn núi này chơi. Ngẩng đầu: mặt trời đỏ, Bên suối môt nhành mai. (Tô Hữu dịch) 217 Bài thơ có những chi tiết thực về thời gian và cảnh vật: Người lên núi vào một buổi sáng giữa mùa hè, và khi lên cao, ngẩng đầu nhìn thì thấy “mặt trời đỏ”, một cảnh tượng rực rõ và hùng vĩ! Dưới ánh sáng mặt tròi ấy là rừng núi bao la, phía chân núi có dòng suối chảy quanh, bên bò có cây mai mảnh dẻ ngả bóng xanh tươi trên mặt nước. Nhưng ý thò đâu chỉ dừng lại ở những chi tiết tả thực qua bức tranh phong cảnh đó. Hình ảnh mặt trời đỏ ỗ gần, phần nào gỢi lên cảm giác thực của người lên núi vào buổi sáng mùa hè, nhưng cũng mang ý nghĩa tượng trưng nhất định mà tác giả muốh gửi gắm trong đó. Phải chăng đây là mong muốh, là khát vọng của một chiến sỹ cách mạng, ngưòi sáng lập Mặt trận Việt Minh (5-1941), với chủ trưdng: chớp thời cơ trong và ngoài nước để giành độc lập cho dân tộc, ngưòi viết bài “Mừng Xuân 1942”tràn đầy niềm tin: “Chúc toàn quốc ta năm nay, cờ đỏ sao vàng bay phấp phới"... thì hình ảnh mặt trời đỏ ỏ gần kia phải chăng còn là mặt trời cách mạng mà nhân dân Việt Nam đang hướng tới? Chi tiết một nhành mai ò câu cuối {Bên suối một nhành mai) trong mối liên hệ với “hồng nhật oận” ở trên đã tạo nên một bức tranh phong cảnh hài hoà, tươi đẹp, đầy sức sốhg. Niềm tin, hy vọng của ngưòi cách mạng về cuộc sống độc lập tự do không xa sẽ đến với toàn dân tộc, được nhà thơ gửi gắm trong bức tranh thiên nhiên ấy. 218 Chỉ có bốn câu thơ năm tiếng ưià bao điều được chứa đựng trong đó. Tả cảnh để ngụ tinh; cảnh và tình hoà quyện đã góp phần diễn tả tâm tư, tình cảm của tác giả một cách tinh tế, tự nhiên và sâu sắc. cảm nhận về hai câu cưốl của bài Lên núi, nhà thơ Lưu Trọng Lư viết: cử đầu hồng nhật cận. Đối ngạn nhất chi mai, trong đó dường như có ẩn ý; Cách mạng sắp thành công và nhành mai bên sông cũng không phải là nhành gì khác nhành mai độc lập, tự Đọc ```Thướng sơn” {Lên núi) của Bác, ta liên tưỏng đến bài thơ Đề Hoạ Sơn của Khấu Chuẩn, một nhà thơ ở đời Tống, Trung Quốc, vì trong đó cũng có câu “Cử đầu hồng nhật cận”. Song hình ảnh “mặt trời hồng ở gần” trong bài “Đề Hoạ Sơn” (Viết về núi Hoạ Sơn) lại thiên về bút pháp tả thực. Nguyên văn chữ Hán; ĐỂ HOẠ SƠN Chỉ hữu thiên tại thượng, Cánh vô sơn dữ tề. Cử đầu hồng nhật cận, Hồi thủ bach vân đê. ‘`Đọc thơ Bác" - Lưu Trọng Lư, tạp chí Văn học 5-1967. .` 219 Dịch nghĩa: VIẾT VỂ NÚI HOẠSƠN Chỉ có trời ở trên, Không có núi nào cao bằng nó. Ngẩng đầu (lên) mặt trời hồng ở gần, Quay đầu (lại) mây trắng ở dưới thấp. Theo tác giả, Hoạ Sơn là một ngọn núi cao, hùng vĩ, không có núi nào cao bằng nó. Tuy đứng giữa trời và mây (thiên tại thượng - bạch vân đê) nhưng núi ấy vẫn chẳng cao bằng tròi. Bút pháp tả thực ở đây đã nói lên một điều dễ thấy: Dù núi có cao bao nhiêu, khi lên núi mà nhìn thấy mặt trồi ở gần thì cũng chỉ là cảm giác. Có lẽ qua bài thơ này, Khấu Chuẩn muôn nói lên một điều có tính triết lý nào đó về tự nhiên và xã hội chăng? Trong một bài thơ của Mãn Giác thiền sư (thế kỷ XI ở nước ta), nhan đề: “Có bệnh bảo mọi người” (dịch từ nguyên văn chữ Hán) cũng có hình ảnh nhất chi mai (một nhành mai): Xuân qua, trăm hoa rụng, Xuân tới, trăm hoa cười. Trước mắt, việc đi mãi, Trên đầu, già đến rồi. 220 ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn