Xem mẫu

22
Khu vườn xinh đẹp
Chúa nhật, 24 tháng tư
Ngày hôm sau, đàn ngỗng trời bay lên phía Bắc, theo hướng Sưrmland.
[54]
Nils ngắm phong cảnh từ trên cao và riêng nghĩ rằng miền này chẳng
giống một miền nào mà mình đã thấy trước đây. Chẳng có những đồng bằng
rộng như ở Skåne hay ở Ưstergưtland, chẳng có những rừng lớn như ở
Småland, nhưng mà hỗn hợp tất cả mọi quang cảnh có thể có được. Nils nghĩ
rằng: “Ở đây, một chiếc hồ lớn, một con sông lớn, một khu rừng lớn, một
quả núi lớn đã bị xẻ thành miếng nhỏ, rồi đem trộn lẫn và rải ra trên mặt đất
chẳng chút trật tự nào”.
Thật thế, Nils chỉ thấy những thung lũng hẹp, những chiếc hồ con, những
ngọn đồi bé, và những chùm cây nhỏ. Chẳng có gì thực sự có thể trải rộng ra
được. Một cánh đồng như có ý muốn mở ra chút ít, tức thì một quả đồi án
ngự ngay chính giữa, và nếu quả đồi mà tìm cách trở thành một ngọn núi thì
đồng bằng lại bành trướng ra để ngăn trở. Một cái hồ vừa có vẻ mở rộng diện
tích ra là đã thu hẹp lại, chỉ còn là một dòng sông; và chính dòng sông cũng
chẳng chảy bao lâu thì đã mở rộng ra để làm thành một cái hồ.
Đàn ngỗng bay dọc sát bờ biển để cho Nils có thể nhìn bao quát cả mặt
biển. Chú thấy rằng chính biển cũng không trải ra tự do được, mà các đợt
sóng rộng lớn bị vô số những hòn đảo cắt ra, và đến lượt các đảo ấy chưa kịp
to cao lên thì biển đã đòi lại quyền của mình.
Tất cả đều chỉ là trao đổi và biến hóa. Những rừng tùng bách xen kẽ với
những rừng cây lá rộng,[55] những cánh đồng với những mỏ than bùn, và
những lâu đài với những nhà nông dân.
Không thấy người làm lụng ngoài đồng, trái lại họ đi lại trên các đường
cái và đường hẻm nhỏ. Họ ra khỏi những túp nhà nhỏ giữa rừng, trên sườn
núi Kolmården, mặc quần áo đen, tay cầm “cuốn sách” và chiếc khăn vuông.
“Hôm nay chắc là chúa nhật”, nhìn những tín đồ đi lễ nhà thờ, Nils nghĩ vậy.
Những hai lần, chú thấy những cô dâu, chú rể đi xe đến nhà thờ, theo sau là
một đoàn người dài. Nơi khác một đám tang đi chầm chậm theo đường cái.
Nils trông thấy những cỗ xe ngựa đẹp của nhà chủ, và những xe nhỏ hai
bánh lợp mui của nông dân. Trên các mặt hồ, thuyền cũng đi tất cả về các
nhà thờ.

Chú bé bay qua nhà thờ Bjưrkviks, qua Bettna, Blacksta, Vadsbro, và sau
đó thì đàn ngỗng bay về phía Skưldinge. Chuông đánh khắp nơi. Nghe từ
trên cao, tiếng chuông hay lạ thường. Có thể nói là toàn thể không trung chỉ
còn là âm nhạc vang lừng.
“Một điều chắc chắn là đi đến đâu trong cái xứ này, mình cũng nghe tiếng
chuông”, Nils nghĩ thế. Và ý nghĩ đó đem đến cho chú một cảm tưởng yên
tâm. Dù chú hiện nay có sống trong một thế giới khác đi nữa, thì hình như
chú vẫn không bao giờ có thể hoàn toàn lạc loài, chừng nào mà cái tiếng
trang nghiêm của các chuông nhà thờ còn gọi chú lại.
Đàn ngỗng đã bay một đoạn khá xa trên vùng Sưrmland thì chú bé trông
thấy một chấm đen cử động trên mặt đất, bên dưới. Trước, chú tưởng là một
con chó, và đã không nghĩ đến nó nữa, nếu cái chấm đen kia không tỏ vẻ
muốn chạy theo kịp đàn ngỗng. Nó chạy nhanh ở nơi đất trống, và khi băng
các cánh rừng thì nhảy qua các hầm hố và các hàng rào, chẳng để cho một
cái gì cản chân.
“Có lẽ là Smirre, con cáo, lại đuổi theo chúng ta,” Nils nghĩ thầm.
“Nhưng dù sao cũng chỉ lát nữa là chúng ta sẽ bay xa khỏi tầm săn đuổi của
nó”.
Sau đó một tí, đàn ngỗng bay nhanh hết sức, và còn trông thấy con cáo là
còn bay với tốc độ như thế. Đến khi cáo không còn thể nào trông thấy nữa,
thì đàn ngỗng quay ngoắt lại và vòng một vòng rộng hướng về phía tây và
phía nam, tựa hồ có ý định trở lại tỉnh Ưstergưtland. “Đúng là Smirre,” Nils
tự nhủ, “vì Akka rẽ lối và bay theo đường khác”.
Gần tối ngày hôm đó, đàn ngỗng bay trên một trang ấp lâu đời ở
Sưrmland, tên là Stora Djulư. Đằng sau tòa nhà lớn màu trắng, trải ra một
khu vườn cây trồng xanh um. Mặt trước của Stora Djulư trông ra một cái hồ,
bờ khúc khuỷu và có những mỏm đá nhô ra thành ghềnh. Trang ấp của thời
xưa ấy có vẻ niềm nở, mến khách, và Nils không thể không buột mồm thở
dài một tiếng khi bay qua đấy.
Đàn ngỗng hạ xuống ở phía bắc trang ấp một tí, trên một khoảng đất trống
ngập nước giữa rừng. Chỉ có vài mô đất nổi lên lác đác. Đây là chỗ trú đêm
tệ nhất mà Nils đã gặp trong suốt cả cuộc lữ hành. Chú cứ ngồi nán lại trên
lưng ngỗng đực một lúc, không biết kiếm đâu được chỗ đặt chân. Sau đó,
chủ nhảy những bước dài, từ mô đất này sang mô đất khác, đến tận đất liền,
rồi đi nhanh về phía tòa lâu đài cổ. Chính đúng tối hôm đó có mấy người
đang chuyện trò quanh ngọn lửa lò sưởi, trong một chiếc nhà nhỏ của người
làm công nhật, thuộc ấp Stora Djulư. Họ nói đến bài thuyết giáo,[56] đến

công việc mùa xuân, đến thời tiết nóng lạnh, nhưng mà cạn hết chuyện, họ
bèn nhờ một bà lão, mẹ người công nhật, kể cho họ nghe chuyện ma quỉ. Bà
lão đã từng đi ở cho nhiều trang ấp trong thiếu thời, có thể kể không ngớt
cho đến sáng hôm sau.
Khi bà lão đã kể xong những chuyện về Eriksberg, Vibyholm, Julita,
Lagmansư, và bao nhiêu chốn khác nữa, thì người nào đó hỏi bà là ở Stora
Djulư xưa nay có cái gì xảy ra quái lạ không.
“Có xảy ra cái gì chứ, chắc chắn như vậy”, bà lão nói.
Và tức thì, ai cũng nằn nì xin được biết là người đời đã kể lại gì về trang
viên của chính họ.
Theo truyện xưa thì ngày trước có một tòa lâu đài cổ ở phía bắc Stora
Djulư, trên một ngọn đồi mà nay chỉ có độc cây rừng. Phía trước lâu đài trải
ra một khu vườn xinh đẹp. Nhưng mà, một ngày kia, một người đàn ông mà
người ta gọi là tôn ông Karl, thời ấy làm chúa cả xứ Sưrmland, vừa du lịch
trở về lâu đài. Sau khi ăn uống xong, ông ta ra vườn, và đứng hồi lâu mải
ngắm cái hồ của ấp Stora Djulư có những bờ bãi rất đẹp. Nhưng trong khi
vui sướng trước cảnh đẹp này, và nghĩ rằng chẳng xứ nào trên thế gian mà có
thể đẹp hơn Sưrmland được, thì chợt nghe ai đó thở dài một tiếng não nuột ở
sau lưng. Quay lại, ông ta trông thấy một người làm công nhật già, đang gập
mình trên một cái mai đào đất.
- Có phải lão thở dài đấy không? Tôn ông Karl hỏi.
Tại sao lão thở dài?
- Có sao tôi mới thở dài, tôi phải làm lụng ở đây hết ngày này sang ngày
khác - người công nhật trả lời.
Tôn ông Karl có tính dễ tức giận. Ông không thích nghe tôi tớ than phiền.
- Lão không còn duyên do nào khác nữa để than phiền à? Ông ta quát to.
Ta quả quyết với lão rằng ta sẽ rất thích thú được đào đất xứ Sưrmland này
suốt cả đời ta.
- Mong rằng các hạ cầu được ước thấy! Người công nhật đáp lại.
Sau việc ấy, trong xứ người ta cho rằng tôn ông Karl nằm dưới mồ mà
chẳng được yên nghỉ chút nào, và đêm đêm lại trở về Stora Djulư để cầm
mai đào đất trong khu vườn xinh đẹp của ông ta.
Ngày nay, ở đây không có lâu đài cũng không có vườn tược; chỉ còn thấy
có một chiếc gò cây mọc thành rừng, rất mực bình thường thôi, nhưng nếu ai

mạo hiểm vào rừng trong đêm tối thì may ra có thể trông thấy khu vườn. Bà
lão kể đến đấy thì ngừng lại và chú mục nhìn vào một góc tối của gian
phòng.
- Các người có nghe tiếng động đậy không? Bà lão hỏi.
- Có gì đâu, mẹ à, mẹ kể tiếp đi, người con dâu nói. Chuột cống đã cắn
thủng một lỗ to trong góc ấy, nhưng con nhiều việc quá quên không bít lại.
Mẹ kể cho chúng con nghe xưa nay có ai đã được trông thấy khu vườn xinh
đẹp đó chưa?
- Có chứ, bà lão kể tiếp, chính bố ta đã được ngắm cảnh vườn rồi. Ông cụ
đi qua rừng, một đêm hè thì bỗng thấy dựng lên trước mặt một bức tường
bao quanh vườn; phía trên tường nhìn thấy cây cối đẹp nhất trần gian. Cành
nhánh mang nặng hoa quả, nhiều đến nỗi rũ cả ra ngoài tường. Một người
làm vườn bước ra, và hỏi ông cụ ta có thích vào xem vườn không. Người ấy
tay cầm cái mai, và mang một cái tạp dề dài như những người làm vườn
khác. Ông cụ ta sắp đi theo người ấy thì tình cờ liếc nhìn mặt ông ta, và tức
khắc nhận ra túm tóc nhọn hất ngược trên trán và túm râu cằm. Đích thị là
tôn ông Karl rồi!
Câu chuyện lại bị ngắt nữa. Lần này thì một súc củi nổ ra, bắn những tia
lửa và những vụn than lên sàn nhà. Cả gian phòng sáng rực, và bà lão tưởng
như trông thấy một con người bé nhỏ ngồi trước lỗ chuột khoét, nghe kể
chuyện, nhưng vội vàng biến mất.
Người con dâu cầm cái chổi và cái xẻng, quét than hốt đi, rồi ngồi xuống
lại.
- Kể tiếp đi mẹ, chị ta nói. Bà lão không bằng lòng.
- Tối nay thế là đủ, bà nói giọng khác hẳn.
Các người khác đều muốn nghe thêm, nhưng người con dâu thấy mẹ
chồng tái mặt và hai tay run lẩy bẩy, liền nói:
- Thôi! Thôi! Mẹ mệt rồi. Mẹ phải đi nằm.
Lát sau, Nils trở vào rừng với đàn ngỗng. Chú nhai một củ cà rốt nhặt
được trước hầm nhà và nghĩ rằng mình đã được một bữa ăn tối tuyệt vời.
Chú lại thích thú được ở lại giờ lâu trong chiếc nhà nhỏ ấm áp. Chú nghĩ:
“Chỉ cần tìm được một chỗ trú thoải mái cho đêm nay thôi”.
Bỗng chú chợt nghĩ rằng cách tốt nhất là lên nằm trên một cây bách um
tùm mọc ở bên đường cái. Chú leo lên cây, lấy những cành con đan lại thành
một thứ giường. Chú nằm đó một lát, nghĩ đến câu chuyện được nghe kể

trong chiếc nhà nhỏ, và nhất là chuyện về tôn ông Karl, mà người ta nói là
vẫn hiện về trong khu vườn Djulư. Đến đấy thì chú ngủ thiếp đi.
Chắc là chú đã ngủ thẳng đến sáng hôm sau, nếu không bị tiếng kèn kẹt
của chiếc cổng sắt mở ra, có thể nói là ở ngay dưới chân, đánh thức dậy. Tức
thì Nils dụi mắt và nhìn quanh.
Ngay bên cạnh dựng lên một bức tường cao ngang đầu người, phía sau
thấy có cây cối mà cành nhánh oằn xuống dưới sức nặng của trái cây. Thoạt
tiên Nils cho là việc này khá lạ lùng. Trước khi chú ngủ, ở đây chẳng có cái
cây ăn quả nào cả. Nhưng mà rất nhanh, chú nhớ lại, và chú đoán ra ngay
khu vườn chú trông thấy kia là vườn nào.
Điều lạ nhất có lẽ là chú chẳng thấy sợ chút nào, mà trái lại, thấy muốn đi
vào trong vườn không cưỡng lại được. Nơi chú nằm trên cây bách vừa tối
vừa lạnh, nhưng khu vườn thì sáng sủa, và Nils tưởng trông thấy những trái
cây và những hoa hồng rực rỡ dưới ánh mặt trời. Như chú, đã lang thang bao
nhiêu ngày dưới cái rét và trời mưa, mà được hưởng một chút nắng ấm mùa
hè thì thích thú biết mấy.
Vả lại, hình như đi vào vườn thật chẳng chút khó khăn nào. Bức tường
lớn có trổ một cái cổng ngay cạnh gốc bách nơi chú nghỉ, và một người làm
vườn già vừa mở hai cánh cổng sắt lớn ra. Ông ta đứng ở cổng và nhìn ra
cánh rừng, vẻ chờ đợi ai. Chỉ nháy mắt, Nils đã tụt xuống gốc cây. Chú đi lại
phía người làm vườn, tay cầm mũ, khẽ gật đầu chào và xin phép vào xem
vườn.
“Ừ! Ta cho phép. Vào đi!” Người làm vườn trả lời, giọng nghe khó chịu.
Và Nils vào là ông ta khóa cửa sắt lại với chiếc chìa khóa nặng, rồi đút nó
vào túi. Bấy giờ chú nhìn ông làm vườn. Ông ta có bộ mặt hãm tài, với bộ ria
mép to tướng, túm râu cằm nhọn hoắt và cái mũi khoằm như mỏ chim ăn
thịt. Giá ông ta không mặc cái tạp dề của người làm vườn và cầm ở tay một
cái mai nặng, thì Nils đã cho ông ta là một ông lính già.
Người làm vườn bước những bước dài, đi sâu vào khu vườn và Nils phải
chạy mới theo kịp. Họ đi dọc một con đường hẹp, và Nils vô tình giẫm lên
mép bồn cỏ. Tức khắc, người làm vườn nghiêm khắc cấm chú không được đi
lên cỏ. Sau đó thì Nils chỉ cứ việc đi theo người hướng dẫn từng bước một.
Nils cảm thấy rõ ràng là người làm vườn mà đưa một thằng bé đẻ thiếu
tháng như hạng chú đi thăm vườn mình thì đã tự thấy mình quá nhân hậu,
nên chú không dám hỏi ông ta một câu nào. Chỉ thỉnh thoảng ông ta mới nói
với chú một lời gì đó.

nguon tai.lieu . vn