Xem mẫu

VÊ MỘT Vfll Ý NCĨHĨÍĩ CHÍNH
cảfĩ KIẾM TRÚC CỔ TRGYỂN VIỆT
Trong kiến trúc cổ truyền Việt có rất nhiều vấn đề cần phải bàn tới.
Nhiều người đâ cho rằng kiến trúc cố truyền Việt đã bị tàn phá nặng nề
bới các cuộc chiến tranh. M ột thực tế có vẻ như mâu thuẫn là, nhiều đỉnh
cao (cả về nghệ thuật và số lượng) của kiến trúc cổ truyền Việt lại thường
tập trung vào giai đoạn mà dân tộc ta có những cuộc chiến tranh. Cụ thể:
Thời kỳ chống Tống - bình Chiêm gắn với Lý Thường Kiệt cũng chính là
thời kỳ để lại nhiều kiến trúc còn tồn tại cho tới nay (dù nhiều khi dưới
dạng phế tích). Vào thời Trần, các di tích gắn với cung đình cũng tập trung
vào giai đoạn chống Nguyên Mông, Đáng tiếc là chúng ta không gặp được
một kiến trúc nào còn tồn tại của thời Lê sơ, nhưng kích thước cúa những
tấm bia và phế tích mặt bằng nền và rồng ở các cung điện đã phần nào
cho thấy quy mô các kiến trúc đă được xây dựng ngay sau cuộc kháng
chiến chống M inh. Dưới thời Mạc, với nền kinh tế thương mại phát triển,
di tích kiến trúc có phần tản mạn, nhưng cuộc nội chiến dù kéo dài vào
nứa cuối thế kỷ XVI thì giai đoạn đó cũng không ngăn cản việc hình thành,
phát triến các loại hình kiến trúc to lớn nhất ớ các làng - xã là ngôi đình
làng. Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh ở thế kỷ XVII cũng chính là thời của
những ngôi chùa trăm gian. Ngay sau khi chống Thanh thắng lợi, nghệ thuật
duới thời Tây Son đa làm nảy nở hai ngôi chùa độc đáo Kim Liên và Tây Phương.
Như vậy, chiến tranh vệ quốc và cá nội chiến, ở một khía cạnh nào đó,
lại như là một trong những điều kiện thúc đẩy cho kiến trúc cố truyền phát
triển và tập trung. Đó chính là điều trước tiên chúng tôi muốn đề cập tới.
Theo chúng tôí, người nông dân Việt sống trong một chế độ công xã nông
thôn dựa trên nền tảng kinh tế tiếu nông, làng - xã luôn giữ một vai trò
quan trọng, mang tư cách tế bào của tổ chức xã hội. Nghĩa là, về phương
diện nào đó, nền kinh tế tập trung rất yếu kém, không tạo điều kiện cho
người Việt huy động được nhân, tài, vật, lực đế xây dựng những công trình
to lớn, có tính quốc gia. Lý do cơ bản cúa việc sớm hình thành được một
Nhà nước trung ương tập quyền, là ở chỗ, người Việt luôn bị đe doạ bới
nguy cơ xâm lấn cúa đế quốc Hán khổng lồ ở phía Bắc. Chính quyền trung
235

ương này về cơ bán không phái dựa trên nền táng kinh tế là chính mà thực
sự chí là một tố chức, một "trung tâm" tập hợp đế đoàn kết dân tộc nhằm
chống ngoại xâm và chống nạn cát cứ phá hoại sán xuất. Trước nguy cơ
sống còn, lòng người đã tập hợp lại, phần nào nhân lực vật lực được tập
trung theo sự quản lý của triều đình, có lẽ khi đó, những công trình có tính
chất bền vững và có quy mô tương đối lớn mới có điều kiện cần và đủ để
xuất hiện. Tuy nhiên, chính tư tưởng tản mạn mang tính nông dân đã làm
cho việc xây dựng các kiến trúc này cũng không được tập trung về một số
vùng, địa điểm cố định mà lại dàn trải trên địa bàn trực trị gắn với triều
đình, ở một chừng mực nào đó, kiến trúc tôn giáo đã chí như "cái vó" để
chứa đựng cá yếu tô lịch sứ và xã hội cúa đương thời. Với một chính
quyền trung ương được hình thành theo kiểu không xuất phát chú yếu từ
nền tảng kinh tế tập trung thì dù cho các thời có cả sự tham gia cúa triều
đình, cúa tầng lớp trên thì di sản văn hóa cũng chí là to lớn một cách
tương đối trong sự đối sánh với các kiến trúc cúa làng xã mà thôi.
Ngoài các loại hình kiến trúc cụ thể với các vấn đề: mặt bằng, kết cấu,
kiến trúc... đã được bàn tới nhiều, ớ đây chúng tôi muốn lưu tâm đến vài ý
nghĩa có đôi chút về yếu tố triết học - lịch sứ và một số vấn đề về bỏ' cục
không gian cúa các di tích kiến trúc cổ truyền Việt.
Cũng vẫn cần phái nhắc lại rằng: nhũng di tích kiến trúc mà chúng tôi
bàn tới, ít nhiều đều có gắn với tôn giáo'tín ngưỡng, vì các loại hình kiến
trúc khác hầu như không còn tồn tại.
Qua việc xác định niên đại cúa các! kiến trúc tôn giáo hiện còn, chúng
ta thấy hầu hết các di tích thời Lý nằm ở Hà Nội, Bắc N inh, một vệt ven
sông Đáy, một vệt khác chạy ngang từ Bắc Ninh về Quáng Yên rồi men
dọc theo bờ biến vào tới phía Bắc Thanh Hoá. Thời Trần, các di tích được
điếm dày hơn trên địa bàn châu thố sông Hồng. Nhưng đặc biệt, trên
những con đường quân Nguyên xâm lưạcHại thường có dấu vết kiến trúc
thời Trần: Chùa Hương (Hà Tĩnh), rồi chùa và bia ký ớ tận Tuyên Quang,
Hà G iang... Nhà Trần đả ràng buộc chặt chẽ hơn với các tù trướng địa
phương, ớ các vùng biên viễn với triều đình. Những ngôi chùa thời Trần
đã như một xác nhận về sự chuẩn bị cúa dân tộc trước nạn xâm lược của
đế quốc Nguyên Mông (vốn gốc là các tiền đồn). Tới thời Lê Sơ, sau khi
chống M inh, các vua Lê đã quan tâm nhiều đến việc mớ rộng vùng trực trị.
Nếu triều Lý mới cỏ Thăng Long, đế biếu hiện sự khắng định một quốc gia
độc lập, thì triều Lẽ Sơ đã có Hạ Long để khắng định về cương giới, xác
236

nhận chú quyền lãnh thổ. Chúng ta cũng đã thấy nhiều bia do chính vua
Lê ngự bút ớ tận Hoà Bình, Sơn La (niên đại 1431). Sang triều Mạc, di tích
phát triến với khá nhiều loại hình, nhưng trong phạm vi này chúng tôi tạm
đề cập chú yếu đến hai loại hình cơ bản, thường được quan tâm nhất.

1. Loại hình thứ nhất là các ngôi đình làng.
Có thể coi đó là kiến trúc to lớn nhất cúa làng - xã. Ngôi đình làng như
hội tụ vào mình rất nhiều thuộc tính triết học bắt nguồn từ thực tế cuộc
sống. Cũng như nhiều kiến trúc cổ truyền khác cúa người Việt, nếu đứng
từ xa nhìn lại, thường ngôi đình có phần thân rất thấp so với bộ mái khá
lớn. về mặt thực tế, hình thức này thích hợp với điều kiện khí hậu lắm
mưa bão nhiều nắng. Nhưng nếu đặt nó trong không gian mênh mông của
đồng ruộng thì bỗng thấy ngôi đình (và các kiến trúc cổ truyền Việt) như bị
bám/hút xuống đất, mà không hề có xu hướng vươn lên theo chiều cao,
đồng thời đơn nguyên kiến trúc thường dàn trái theo mặt bằng. Nhiều buổi
được trao đổi với cố GS Từ Chi, căn cứ theo những kết quá điền dă mà
chúng tôi tường trình, ông đã rẩt tán đồng quan điểm cúa chúng tôi, cho
rằng: Hoàn cảnh lịch sử và xă hội riêng biệt khiến người Việt ở châu thổ
sông Hồng mang nặng tính thực dụng nông dân, luôn luôn muốn mớ rộng
đất đai, và thước đo sự giàu có là diện tích ruộng đất. Đó là lý do chính
yếu khiến người Việt không có xu hướng xây dựng những kiến trúc theo
chiều cao mà phát triến theo mặt bằng. Điều này còn bắt nguồn từ một ý
thức khác là thần linh cũng chưa bị đẩy lên cao, chưa cách biệt mà vẫn
gần gũi với thế nhân để sẳn sàng phù độ cho con người.
"To.như cáí đình" là,sự nhận biết so sánh cúa người nông dân khi nhìn
lại ngôi nhà tiếu nông của mình. Không gian mớ thoáng với bộ mái lớn,
khoảng sân rộng trước mặt khiến kiến trúc này có một thế áp chế nhất
định. Trong không gian đó, con người đương thời như tự thấy thân phận
minh bé nhỏ đi. Đó là một nhu cầu góp phần làm hình thành ngôi đình
làng cúa chính triều đình quân chú. Dần dà, yêu cầu đó được chuyển hoá
thành giá trị tinh thần khi thành hoàng làng (gắn với sự tôn vinh một thần
trọng yếu cúa nơi đó). - ông vua tinh thần cúa làng - xã ngày một được
sùng bái. Việc tự thấy tâm hồn phần nào bị đè nén khi đứng trứớc ngôi
đình, việc kính sợ thành hoàng làng đâ như đồng nhất với ý thức chấp
nhận trật tự xã hội, tôn sùng vương quyền. Không gian to lớn cúa đình làng
rồ ràng không chí thích hợp riêng cho sinh hoạt cộng đồng.

237

Do vậy, cây cối ở xung quanh đình làng không phải là vấn đề trọng
tâm của kiến trúc. Nhưng rồi càng về sau, ngôi đình được đan nhập và có
phần gần hơn với tính chất đền thì nhiều loại cây thiêng được trồng ở gần
sân đình (hàng cây gạo trước đình Tây Đằng). Cho đến lúc sự to lớn vẻ quy
mô cúa đình làng bị lấn át bởi kiến trúc đô thị (có lẽ bắt đầu từ thời thuộc
Pháp đầu thế kỷ XX) khiến ớ nông thôn cũng có nhà nhiều tầng thì trước
mặt đình có thế trồng đủ loại cây từ bàng tới phi lao và cả các cây ăn quá.
Đó là hiện tượng phá vỡ không gian cơ bản cúa ngôi đình. Cũng có thế nói
như vậy khi xuất hiện các loại cổng đình, đặc biệt phó biến là các nghi
môn dạng tứ trụ. Các loại cổng đình làng đều là sản phẩm khi yếu tố tín
ngưỡng xa rời tính thực dụng của nông dân châu thổ Bắc Bộ đã mạnh dần
lên. Và các nghi môn đó dù cho có thế xuất hiện dè dặt từ cuối thế ký
XVIII, nhưng hiện thấy chỉ được phổ biến dần từ đầu thế ký XX về sau.
Cho đến nay, có thể khẳng định chắc chắn là ban đầu ngôi đình làng
chỉ có một toà kiến trúc (bố cục chữ "nhất"). Tất cả các ngôi đình có niên
đại sớm nhất (thế kỷ XVI) còn lại tới nay thường chí có ba gian hai chái.
Dần dần khi ngôi đình trở thành một thực thể văn hoá cúa làng xâ thì
nó được làm lớn dần, với sự xuất hiện đình 5 gian, 7 gian. M ặt khác, đế
thiêng hoá thành hoàng làng (có thế từ cuối thế kỷ XVII. đầu XVIII, mạnh
hơn và phổ biến là ở thời Nguyễn), các sàn/am/khám thờ lứng (như ớ đình
Tây Đằng, Thuỵ Phiêu) bị thay dần bằng cách nảy "chuôi vồ" thành một
hậu cung riêng, thâm nghiêm, cấm kỵ. Rồi nhu cầu tế lễ ngày càng thêm
rườm rà, việc đề cao thần linh lại cũng hợp với tính chất "hương đảng tiếu
triều đình" mà hai toà tậ hữu vu hoặc tiền tế xuất hiện và dần phố biến.
Hai kiến trúc này hoặc được xây thêm trong khuôn viên các ngôi đình cổ
hoặc được cố công xây dựng cùng các ngôi đình mới. Tuy vậy, theo nhiều
già làng ớ nơi có đình thì trong bố cục không gian mặt bằng mới này đã
hàm chứa một ấn ý có tính triết học: Toà đại đình như phần đầu, hai toà tả
- hữu vu như hai tay cúa con Hố phù, hồ nước (thường có hình bán
nguyệt) phía trước chính là mặt trăng*".
Trong nghệ thuật tạo hình của người Việt và cúa nhiều cư dân Đông
Nam Á chịu ánh hưởng văn hoá ấn Độ, Hố phù thường được coi là sản
phẩm hình thành từ câu chuyện khuây biến sữa vũ trụ. Theo tích truyện

(1) Các di tích không mang tính chất đình - đển thi hiếm có mặt nước hinh bán nguyệt ớ
phía trước.

238

này, nếu Hổ phù nuốt hết mặt trăng thì điềm báo năm đó sẽ bị mất mùa,
thậm chí xảy ra chiến tranh; nhưng nếu nuốt không trôi, phải oẹ ra là điềm
báo được mùa. Vì thế, những hình Hổ phù oẹ mặt trăng hay biến tướng
thành Hố phù ngậm chữ Thọ, bông hoa cúc là những biểu tượng cầu no
đú, hay cầu phúc nói chung.
2. M ột loại hình kiến trúc rất phổ biến nữa là các ngôi chùa.
Kiến trúc này đã ăn sâu vào tâm khảm người Việt từ rất sớm. Đây là nơi
mà người trí thức thôn xã thường cư ngụ. Ngôi chùa đã trớ thành một trung
tâm văn hoá cộng đồng, từ dưới thời Bắc thuộc. Dù nhiều khi cũng chí là
chùa làng nhưng không bị đóng khung trong không gian hẹp của một làng
mà cửa chùa vần mớ với thập phương. Đặc tính ấy hiện vẫn còn tồn tại, và
thực tế cho thấy các hội chùa (phần nào là hội đền) thường mang tính chất
vùng - miền và đất nước trong khi hiếm có hội đình vượt được khói không
gian làng - xã.
Ngôi chùa (và đền) lấy sinh hoạt tâm linh làm một trọng tâm cơ bản. ở
đó con người như được hoà với tự nhiên - vũ trụ đế tìm sự cân bằng cho
cuộc sống trần gian. Nên dù cho là "đại danh lam" hay những ngôi chùa
"trăm gian" thì cũng hiếm có tòa kiến trúc nào trong khuôn viên này có
kích thước to lớn như đình làng. Ngôi chùa thường "ấn" đi trong cây cối,
khiến không gian này đôi khi như một đói trọng với "thế giới" bên ngoài
(kế cá những ngôi chùa ở phố). Các cây cổ thụ, những cây thiêng to lớn
tạo cho chùa một không gian rất gần với tự nhiên, giúp chúng sinh dễ tiếp
cận với "linh hồn vũ trụ", với đạo pháp.
Kiến trúc đầu tiên báo hiệu về một ngôi chùa là Tam quan. Thực chất,
chùa Việt nào cũng chí có một Tam quan duy nhất, không hề có Tam quan
nội hay Tam quan ngoại như vẫn lầm tưởng và lầm gọi lâu nay. Chí ớ các
ngôi chùa mang tính chất tiền Phật hậu Thánh/ Thần (thường đã có vị sư tổ
tu theo lối "phù thuỷ") mới có đến hai lớp "cống". Bán chất kiến trúc tín
ngưỡng này là vừa thờ Phật lại vừa thờ Thần hoặc Thánh, nghĩa là vừa có
tính chất chùa vừa có tính chất đền. Và, với hai lớp cổng thì một sẽ là tam
quan chùa, một sẽ là nghi môn đền. Việc thờ cúng nào được coi là trọng
tâm thì hầu như kiến trúc cổng tương ứng sẽ được đặt trước. Như ớ chùa
Bối Khê hay chùa Láng, người ta thường cầu Thánh nhiều hơn Phật thì ngũ
môn hoặc nghi môn tứ trụ được đặt trước. Cũng có thế thấy điều tương tự
ớ các chùa Keo Nam Đ inh, Thái Bình...
2 39

nguon tai.lieu . vn