Xem mẫu
- CAO TẢNG
ứTRUYỆN
ĨHANH HÀ (Biên soạn)
NHÀ XUẤT BẢN VÃN HÓA THÔNG TIN
- CAO TẢNC; KỲ TRI YỆN
- THANH HÀ
M ẩ) nói đầu
'ì
từ khi ra đời cho đến nay Phật giáo dõ
hơn 2000 nõm lịch sứ. Trong hơn
2 0 0 0 năm qua, Phật giớo dâ có ảnh hướng sâu sóc
đến đời sống uôn boá cùa các dân tộc An Độ, Trung
Quốc, Nhật Ban, Hàn Quốc, Việt Nam... Cao tõng
ìà nnững nhãn uột đại diện cho tư tưởng và hoạt
động của Pbột giáo. Bằng nghị lực phi thường, học
thức sâu rộng, tư cách phẩm chất dạo đức tố t đẹp,
các yị cao tăng đã dóng góp m ột phần rất đáng kể
trong sự nghiệp xâị/ dựng oà phát triên võn hoá
Phật giáo.
“ G4Ơ TĂNG K Ỳ TRUYỆN' là cuốn sách ghi lại sự
tích của các ưỊ Cao tàng Trung Quốc qua các th ứ
dợi. N ội dung sách m ang tỉnh "truỳ>ền kỷ" à ể
"khuỊ/ến thiện, trừng óc” theo tinh thổn của Phật
giáo và cũng là đ ể đưa Phật giáo góp phồn xây dựng
cuộc sống oăn m inh trong thời đại mới.
Hụ ưọng rằng cuốn sách nhỏ này sẽ dem đến cho
bạn dọc bất kê ìà tín dổ Phật giáo hoy không phải
là tín đồ Phật giáo những chỉ dân có ích trong cuộc
sống. Đó cũng chính là tâm nguịiện của chúng tôi.
Thay m ặt nhóm biên soạn
THANH HÀ
- CAO TẢN(; KỲ T R I YỆN
- 1. PHẬT PHÁP ĐỎNG LAI
(Phật pháp được truyền tói phương Đông)
/ ‘*^ ĩ/ơ n g truị/ền, vào khoáng th ế kỷ thứ 6 trước
CMcòrxQ nguyên, Phật giáo dã ra đời tại nước Ca
Tỷ Lô Vệ thuộc An Độ cổ đại. Trái qua quãng thời
gian khoâng hai ba tràm nõm phát triên, đến đời vua
A Dục thì Phật giáo bắt dầu dược truyền bá ra bên
ngoài uà trở thành một tôn giáo trên toàn th ế giới.
Phật giáo là một hiện tượng uõn hoá uô cùng
phong phú và rực rỡ. Nó đã được íruyển uáo Trung
Quốc trong một thời gian rất dài thông qua nhiều con
đường và nhiều cách thức khác nhau.
Phật giáo được truỊ/ền dến Đông Thổ sớm nhất và
củng có rốt nhiềư truụền tbuịĩểt kể về quá trình truụền
đạo này. Nhưng íruyển thuyết phố biến nhất uể việc
Phật giáo bắt đầu được truụền uào Đông Thổ đó là
chuyện uua Hán M inh Đ ế nứa đém m ơ gặp kim nhân,
sau đó phái người di dến Ân Độ ưà chuụện bạch mã
thố kinh phật tới Phương Đông. Nhưng tại sao người
ta lại coi đây là sự bắt đẩu hình thành Phật giáo tậi
Trung Hoa? Đó ìà ưì d ể được coi là m ột tôn giáo thực
sự thỉ tôn giáo ấụ phải hội tụ dược tối thiểu 4 điều kiện
cần thiết dể cho tôn giáo ốy ra dờì hoặc bám trụ lại tại
một uùng nào đó. Bốn diều kiện dó là: Người sóng ỉập
ra tôn giáo dó, lỷ luận hoặc kinh điên của tôn giáo đó,
tín dổ của tôn giáo và nơi diễn ra các hoạt động tôn
giáo. Có người đã giâi thích kim nhân trong câu
chuỊ/ện Hán Minh Đế nửa đêm mơ gặp kim nhân
7
- C M ) T à m ; k ỳ TRI YỆN
chíVi/i ỉò "Phạt'\ sau dó Minh Đè đã phái người .sQ g
M
i4n Độ uò quá nhiên dã thỉnh dược tương phật Như Lai
- Thích Ca Mâu Ni mang uể. rồi lại có ngựa bạch mã
thổ kình trở uề và thỉnh được cớ mấy uị /loó {í)ưọ'n(j
sang theo. Như uộị/ tam bầo cứa n/ià Phật (phật, pháp,
tăng) đểu dã đủ cả, ngoài ra Hán Minh Đế còn cho xây
ngôi chùa Bạch Mã - ngôi chùa đầu tiên ở Trung Quốc
tại thành Lạc Dương. Kể í ử đó, Phật giáo chính thức
dược truỵền ưào Trung Quốc.
Trong qưá trình Phật giáo truyền tới phương Đóng,
đã xảy ra rất nhiều câu chuụện cảm động giống như
quá trình đi sang Tâịĩ Trúc thính kinh. Trong cuốn sách
này chúng tôi chỉ xin phép lược thuật giới thiệu uới các
bạn dộc giỏ những câu c/iuyện haụ nhất.
VỊ HÒA THƯỢNG ĐẨU TIÊN 6 TRUNG QUỐC
Theo sử sách và các câu chuyện ghi chép về tăng ni
thì vị hoà thượng đầu tiên ở Trung Q uqg lồ một người
đến từ Ân Độ có tên gọi là Nhiếp Ma Đằng.
Nhiếp Ma Đằng có dáng vẻ đường đường, là một
người tài năng đức độ. ôn g tinh ứiông '‘Đại thìte kinh”
(Đại Thìte là một dòng phái của Phật giáo được hình
thành vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau công nguyên, Phái
này tự nhận mình có thể đưa chúng sinh từ bể khẩ sinh
tử tới cõi bồ đề niết bàn, tu thành chính quả. Đồng thời
phái Đại Thừa gọi các dòng phái Phật giáo khác là Tiểu
Thừa. Sự khác biệt cơ bản giữa hai dòng phái nàv đó là
Tiểu Thừa theo đuổi chân lý tự giải thoát bản thỗn, lấy
việc “ khôi thân diệt chí", chứhg minh Ala hán quả là mục
tiêu tối cao của mình. Còn phái Đại Thừã lại coi trọng
đại từ đại bi, phổ độ chúng sinh, coi việc thành phật độ
- ______________________________________ THANH HÀ
thế. xây dựng cõi cực lạc phật quốc làm mục tiêu cao
nhất. Đại Thừa. Tiếu ThCte đều có các bộ kinh điển đại
biêii của riêng mình. Kinh điển của phái Đại Thừa chủ
yếu bao gồm "Ban nhược kỉnh", ‘‘Duy ma cật kinh” ;
“ Pháp hoa kinh” . “Hoa nghiêm kinh’’ ... Phái Tiểu ThCte
bao gồm các bộ kinh: "A hàm kinh" và “Tiều thừa kinh” .
Ông là người tính tình phóng khoáng, ccrt mộ, thường
tiêu dao ngao du khắp n d (nhữhg tăng nhân học Phật
tham thiền, vân du bốn phương nên gọi là “du phương
tăng" cũng còn gọi là “vân thuỷ tăng” , thậm chí còn
hành tung bất định không rõ danh tính).
Đông Hán, năm Vĩnh Bình ửiứ 7 (tức năm 64 sau
công nguyên), vua Hán Minh Đế nửa đêm nằm mơ gặp
được một ngưctí có dáng vẻ khôi ngô, tuấn tú, chân cưõí
mây trắng, trên đầu thì toả ánh hoà quang như thiên
thần. Đức vua đang định tiến vể phía ừước để hành lễ thì
người kia đã đằng vân bay vể phía Tây. Ngày hôm sau,
khi lên triểu. Minh Đế đã kể lại mọi chuyện xảy ra trong
mộng cho văn võ bá quan trong triều cùng nghe, quần
thần nghe xong ứìì bàn tán huyên náo, xôn xao.
Tiến sỹ Phó Nghị nghe xong đã bước lên trước giải
mộng rằng:
- Thần nghe nói ờ phía Tây có một vị thánh, vị này
thân cao một trượng sáu tắc, xung quanh ngưètì toả ra
ánh hào quang lấp lánh, thân hình, cử chỉ tììì nhẹ nhàng
như bay. ổ n g ta có tên là Phật. Người mà bệ hạ đã gặp
trong mơ có lẽ chính là người này đấy.
Sau khi nghe Icí giải mộng của Phó Nghị thì Hán
M inh Đế ngay lập tức đã nảy ra ý muốn đí về hướng Tây
đế cầu Phật. Để thoả lòng mong muốn ông đã cho triệu
Thái An, Tần cảnh và một số người khác vào điện và sai
bọn họ đi sang Tây Vựt để thỉnh Phật pháp.
>
- CAO TÀNG KỲ TRI YỆN
Đoàn người của Thái An. Tần cảnh nhận lệnh nhằm
thắng hướng Tây mà tiến, dọc đưòng đi bọn họ đã phải
vượt qua trăm ngàn nguy hiếm, vất vả, gian nan. Tới năm
Vĩnh Bình thứ 10 (tức là năm 67 sau công nguyên), đoàn
người đã gặp được hai tăng nhân của nước Thiên Trúc !à
Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan tại thành phố Đại
Nguyệt. Thái Tần liền vội mời bọn họ tới Trung Quốc để
truyền giáo. Vừố hay lúc đó Nhiếp Ma Đằng đang muốn
khuyếch trương, mớ rộng đạo Phật nên đã vui vẻ nhận
lời ngay iập tức. Nhiếp Ma Đằng đã không quản vất vả,
gian nan cùng với Thái An. Tần Cảnh nhị vị sứ giả trèo
đèo, lội suối mang m ột vài bức tượng Fhật và một ít kinh
thư (nghe nói !à do một con ngựa trắng thồ) về thành Lạc
Dương. Còn về phần Trúc Pháp Lan, do đám đồ đệ của
ông cứ nài nỉ lưu ông lại một thời gian dài nên mãi sau
đó ông cũng mới tđ được Trung Nguyên.
Hán Minh Đ ế thấy Nhiếp Ma Đằng đồng ý tới truyền
đạo thì vô cùng mừhg rỡ, tiếp đón nhiệt tình. Ngay ngày
hôm sau, khi Nhiếp Ma Đằng vừci t t ì Lạc Dương thì nhà
vua đã sai người dựhg một ngôi chùa tại cửa Ung Môn
phía Đông Thành Lạc Dương cho Nhiếp Ma Đằng cư
ngụ. Do tượng phật và kinh thư được một con ngựầ trắng
thồ về Trung Quốc nên lúc đầu chùa có tên gọi là "chùa
Bạch Mã” . Từ đây Trung Quốc đã có vị tăng đầu tiên là
Nhiếp Ma Đằng, có ngôi chùa đầu tiên đó là chùa Bạch
Mã. Khi đó, do đạo Phật mới được du nhập vào Trung
Quốc nên mọi người vẫn còn chư& hiểu hết phép mầu
nhiệm của Phật pháp. Tâm nguyện phổ biến đạo Phật
của Nhiếp Ma Đằng chưia được hoàn thành thì ông qua
đời tại thành Lạc Dương.
< 10
- THANH HÀ
NGUÓN G Ố C HỌ "THÍCH” CỦA CHƯ TĂNG
Đ ư ọ c BẮT NGUỒN BỎI ĐẠO AN
Vào thcri Nguỵ Tấn, tất cả hoà thượng đểu lấy họ sư
phụ làm họ cho minh, vì vậy mà các họ thường không
giống nhau. Một danh sỹ thòi đó tên là Đạo An (314 -
385) lại cho rằng sư phụ của sư phụ cứ suy rộng lên trên
đí tìm về tận nguồn gốc thì đó chính là đấng Phật tổ
Thích Ca Mâu Ni. Vì vậy tất cả chư tãnp hoà ứiượng
trong ứiiện hạ nên ỉấy họ “Thích” làm họ. Y kiến này của
Đạo An vùteỉ đưỢc đUồ ra thỉ chư tăng, hoà thượng đã lũ
lượt đổi họ thành “Thích” . Sau này khi bộ kinh 'Tăng
nhất a hàm kinh” được truyền từ Ấn Độ ứìì ừong kinh
thư quả nhiên có nói rằng: 'T răm sông khi đã đổ về biển
thì không còn gọi là sông nCte, hoà ứiượng trăm họ thi
cũng đều là hậu thế của đứt Phật Thích Ca Mâu N i” . Đề
xướng của Đạo An quẳ nhiên đã phù hợp với giáo lý của
kinh Phật và họ “Thích’' của chư tăng hoà thượng từ đó
được đặt cố định và ừuyền tóí tận ngày nay.
LÒI TẶNG TRƯỐC LÚC TỜ BIỆT
Một vị cao tăng ngưcổ Ấn Độ tên là Kỳ Vực tófi Trung
Quốc và ở lại thành Lạc Dương trong nhiều năm. Năm
đó, Lạc Dương xảy ra chiến loạn nên Kỳ V ự t đành phẳi
rcri thành Lạc Dương trở về Ân Độ.
Có m ột vị hoà thượng tên gọi Trúc Pháp Hành, là
m ột cao tăng nổi tiếng đương thời nói với Kỳ Vực rằng:
Đại sư là m ột vị Cao tăng đắc đạo, xin người hãy lưu lại
ưài lời cảnh giới nhắc nhớ mãi mãi cho chúng tôi.
Kỳ Vực nghe xong liền nói:
11
- CAO TẢNG KỲ TRI YỆN
- Vậy hãy tập triing mọi người đến đây
Khi mọi người đã tụ tập đông đủ, Kỳ Vực liền bước
lên đài và nói:
“ Thủ khẩu nhiếp thân ỷ, thân mạc phạm chúng
nộ, tu hành nhốt thiết thiện, nhu thị dắc độ th ế "
(đây là bài Kệ, đại ý nói rằng ngưởi tu thân cần phải
cẩn thận, không được phạm vào tội tức giận; phẫi suốt
đời làm việc thiện thì mcfi được siêu thoát khỏi cuộc đ
- THANH HÀ
MỘT BÔNG LAU GIÚP HÒA THƯỢNG QUA SÔNG
Cổ Phật sư tôn của Ân Độ muốn tim một vị cao tăng
đến Đông Thố đế truyển kinh. Hay tin. Đạt Ma íiển chủ
động yêu cẩu xin được gánh vác trách nhiệm đó.
Cổ Phật sư tôn thấy vậy liền hỏi Đạt Ma:
- Chở giáo, truyền kinh là nhiệm vụ vô cùng nặng nề
mà đường xá lại xa xôi cách trở, liệu con có đảm đương
nổi công việc này hay không?
- Con có m ột trái tim hồng dâng hiến đứt Phật nên
nhất định sẽ không phụ sự kỳ vọng của sư phụ.
' Vậy nếu con thất bại thi sẽ như thế nào?
- Nếu con thất bại xin chịu xử phạt ữieo giới luật, cho
dù con th ịt nát, xương tan cùng không oán hận.
Cổ Phật sư tôn thấy ý chí của Đạt Ma cứhg rắn như
sắt thép thì liền phê chuẩn cho ông được tới Đông Thổ
để chở giáo truyền kinh. Đạt Ma từ biệt sư phụ và quần
tăng bạn hữu rồi m ột mình nhằm thẳng hướng Đông mà
tiến. Ồng đáp thuyển từ Ân Độ, đạp sóng theo gió mà
cfi. Trải qua muôn vàn gian khổ, cuối cùng vào giCte
nhữhg năm Lương Vũ Đ ế (tứt là từ năm 520 đến 527),
ông đã tói được Đông Thổ. ôn g đí tò Quảng Đông
hướng lẽn phía Bắc. tcfi Kim Lăng (nay là thành phố Nam
Kinh). Trong thời gian lưu lại Kim Lãng, ông đã từhg tiếp
xúc và nói chuyện vótì Lưcfng Vũ Đế. tuy nhiên do buổi
nói chuyện không được như ỷ nên đã rctì khỏi Kim Lăng,
chuẩn bị vượt sông tiến lên phía Bắc.
Một hôm, khi ông tới bên bờ sông thì chỉ thấy mặt
sông mênh mông mà không ứiấy con thuyền nào cẳ. Lúc
lĩ
>
- CAO TẢN(Í KỲ TRI VỆN
đó. đám ngưcrt do Lương Vũ Đế sai đuổi theo cũng đã
bám sát phía sau. Trong tình hinh nguy cấp lúc đó. Đạt
Ma bỗng nhin thấy đám lau phất phơ bên bờ sông, ông
liển ngắt một bông lau rồi khẽ cầu nguyện.
- Con xin cầu nguyện đức Phật, nếu như bông lau
này có thể chở con qua sông thì con nguyện sẽ dốc hết
sứt để truyền bá tììiền pháp ra khắp cõi Đông Thổ
Dứl Icrt, Đạt Ma liền ứìả bông lau xuống nước, rồi
dùng công phu “ toạ thiền” hàng ngày, hai chân đạp lên
ừỗn bông lau, hai tay chắp hình chữ thập cứ tíìế đạp lên
trên bông lau mà qua sông. Nói ra cũng thật kỳ lạ, bởi
lúc đó một cơn gió nhẹ bổng thổi tcfi và bông lau cứ trôi
nhẹ trên mặt nước, thcrt gian c h itì đầy một bOte cơm thì
ông đã sang đến bờ sông bên kia. Đám ngưcrt do Lương
Vũ Đ ế sai đuổi ứieo Đạt Ma trông thấy cảnh đó thì đểu
ừòn mắt, há hốc mồm miệng, đứhg như trời trồng. Mãi
tớl khi Đạt Ma đã lên bờ đí được m ột quãng xa thì bọn
chúng mcfi như ngưètì víía tỉnh giấc mộng, vội vàng quay
vổ bẩm báo lại với Lương Vũ Đế.
9 NẢM NGOẢNH MẶT V Ằ O rưÒNG TOẠ THIỂN
Sau khi Đạt Ma cưỡi cành lau để vượt sông, ông đã
tới chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn Taing Nhạc và
dùhg lại đây để truyển bá Phật giáo.
ơ phía Bắc chùa Thiếu Lâm có đỉnh Ngũ Nhũ, cách
đó không xa có một căn phòng bằng đá rộng khoảng hơn
một trượng. Taíớc cử& căn phòng, cây cối. cỏ gai mọc
rậm rạp um tùm và bị đá chặn kín lối vào củtei. Kể từ khi
đến chùa Thiếu Lâm, ngày nào Đạt Ma cũng đến đây đế
phát quang, nhổ cỏ, nên ông đã phát hiện ra căn phòng
đá này và thấy rằng đây đúng là một nơi thanh tịnh để
< 1ỉf
- --------------------------------------------------------- THANH HÀ
ông có thế tu tâm niệm phật. Vì vậy, ông càng ra sứt chặt
cây, nhố cỏ, dọn dẹp sạch sẽ để chuẩn bị ncfi tu hành.
Tại sao Đạt Ma lại chọn n d yên tĩnh này để tu hành?
Nguyên nhân vốn là do sau khi Đạt Ma đến Đông Thổ,
ông ôm trong lòng một hoài bão to lón nhưhg hận một
nổi là không thể quảng bá đạo Phật ngay được. Việc
hoằng dưcmg Phật pháp vốn đã không dễ dàng, lại cộng
thêm với việc Lương Vũ Đ ế không bằng lòng cho ông
truyền giáo nên công việc đã khó lại càng khó hơn. Trong
lòng Đạt Ma cảm thấy vô cùng sầu muộn bởí không biỗt
bao giờ m
- CAO TÃNCỈ KỲ TRI YỆN
phòng đá vô cùng nóng bức 1^6 chịu, tối đến thì lũ muỗi
iại đua nhau đốt. Chỉ có nhCíng người phi thường mới có
thể làm được như vậy. Vào một ngày hè. Đạt Ma bị muổi
cắn đến bật cả máu-, toàn thốn đâu đâu cũng là vết muỗi
cắn, nhưng ông vẫn không mảy may để ý mà vẫn tiếp tục
ngoảnh mặt vào tường khô tu. Mùa đông lại tới, tuyết
bao phủ trắng xoá cả ngọn núi. do đường trơn khó đi nên
mấy vị hoà thượng đưa cơm cho Đạt Ma có khi mấy ngày
liền không lên được núi nhiửig Đạt Ma vẫn chịu đói, chịu
rét tiếp tục tu hành. Thật đúng là nhữhg việc mà người
trần không ai có thể làm được.
Sự khắc nghiệt của thcri tiết bốn mùa đã thử thách
lòng kiên trì của Đạt Ma. Không những thế, những loài
ửiú dữ cũng ữiUỜng xuyên đe doạ ông. Có một lần, khi
vị hoà thượng đưa cơm bước vào phòng đá th i thấy một
con hổ dữ đang đật hai chân lên vai Đạt Ma, con hổ há
to chiếc mồm đầy máu của nó định ngoạm vào cổ Đạt
Ma, vị hoà thượng kia liển vội hét to một tiếng con hc
mcí hoảng sợ bỏ chạy đi, còn Đạt Ma lúc đó vẫn khônc
hề hay biết gì, ông đã ngếi ở đé vồ hgàn toàn nhập định.
Đạt Ma đã ò trong căn phòna đá đó 9 năm liền, quẽ
9 năm ngồi ngoảnh mặt vào tường, cuối cùng ông đễ
ngộ ra được con đường cần thiết cho việc ừuyền giáo tạ
Đông Thổ. Chính vì vậy, phái Thiển Tông Trung Quốc
là “ m ột bông hoa nở ra năm cánh, kết quả tự nhiêr
thành" (phái Thiền Tông được bắt đầu từ Đạt Ma sau đc
được tiếp tục truyền qua 5 đời là Tuệ Khả, Tăng Sán
Đạo Tín, Hoằng Nhẫn. Tuệ Năng. Thiền Tông chín!"
thức thành một tên phái trong phật giáo của Trunc
Quốc) mới đưỢc tiếp tục và phát triển. Để ghi nhớ cônc
đức của Đạt Ma, mọi người đã đặt tén cho căn phòng đi
trên đĩnh Ngũ Nhũ là "động Đạt Ma", tấm vách đá m<
ông ngoảnh mặt vào được gọi là "cliện bích thạch” (na'
đã được chuyển đến hậ Ị viện của chùa Thiếu Lâm).
- --------------------------------------------------------- THANH HÀ
Câu chuyện Đạt Ma ngồi ngoảnh mặt vào tường để
thiền cách đây đã hơn 1000 năm rồi, cái động nằm trên
liitìg chìửig đỉnh Ngũ Nhũ nay vẫn còn đó.
ĐẾN ĐÁ CŨNG PHẢI GẬT ĐẦU
Tổ sư của phái Thiền Tông Đạt Ma vốn là m ột cao
tăng An Độ. ông là một trong 28 đại đệ tử của cao đồ
Ma Kha Ca Diếp của phật tổ Thích Ca Mâu Ni. Mọi
ngưcrt thường gọi ông là sư tổ 28, ông là người đã truyển
kinh tótìỉ Trung Quốc và lập ra phái Thiền Tông phật giáo
Trung Quốc. Thiền Tông Trung Quốc đã tôn xUhg ông
là sư tổ.
Khi Đạt Ma sư tổ móí đến Trung Quốc thì mọi ngứời
chưèi quy y'ngài ngay. Nhữhg ncổ mà ông tới truyền kinh,
giảng đạo hầu như đều ỉdiông có người nghe nìấy.
Nhưhg ông không hề nần lòng mà vẫn bền bỉ, kiên ừì,
ngày nào cũng giảng kinh truyền đạo. Một hôm, ông tởi
núi Cổ Sơn ở phía Đông thành Phú Châu, ông ngồi
xuống một bậc đá uống nước rồ i giảng kinh mà không ai
tóí nghe cả. Đạt Md bèn xếp các hòn đắ xung quanh
mình như là đám ngưèố đang ngồi nghe giảng đạo rồi tiếp
tục giảng giải phật pháp cho đám đá vô tri vô giác, ôn g
cứ say stte giảng khiến cho mây trên trcổ cũng phải dừng
chân không muốn bay đí nữồ, nước dư
- CAO TÀNG KỲ TRI YỆN
đạo và thành ý truyền kinh, giảng đạo của Đạt Ma. mọi
người đã vẽ lại cảnh tượng Đạt Ma ngồi giảng đạo trên
mặt tấm đá mà ông đã ngồi uống nước, giảng đạo và đề
bên cạnh 4 chữ: “Đá cũng gật đẩu". Năm tháng trô i qua,
những hình ảnh và nét chữ trên phiến đá mặc dù có chỗ
không còn được rõ nhưng câu chuyện Đạt Ma giảng kinh
này vẫn tiếp tục lưu truyền mãi tcrt mai sau.
12
- 2. TÂY KHỨ CẦU PHÁP
(Đi sang Tây Trúc cầu Phật pháp)
trình đi Tâịi (Tây Trúc) cầu Phật pháp bắt
íừ thời Tam Quốc uà dến dời Đường mói
kết thúc. Trong khoảng hơn 500 năm nàụ đã có tổng
cộng hơn 200 người đi sang Tâọ để cáu Phật pháp.
Kh- đó diều kiện giaọ thông di lọt vộ cùng khó khàn,
dưcfng xá uô cùng gian nan, hiểm trở lại cách xa hàng
ngàn dặm nên những người đ i thỉnh kinh gặp phái vô
uàn khó khăn. Trong số những người nàụ, có người thi
quay uề giữa chừng, có người thì ốm .chết dọc đườĩìg,
có người bị hại mà chết cũng có người ở lợi mà không
quoy uể... Những người trung thành với con đường mà
mình đã chọn có khoáng mười mấy người. Trong số đó
cũng chỉ có khoáng 2, 3 người là có tẩm ánh hưởng to
lớn như Pháp Hiển đờì Tẩn, Huị/ền Trang, Nghĩa Tình
đời Đường. Trong cuốn sách nỜỊ/ chúng tôi chỉ giới
thiệu vói các bợn những câu chuyện /y kỳ, gian nan
trong quá trình d i cầu kinh của Pháp Hiển mà thôi.
ĐI TÂY TRÚC THỈNH KINH
Đcri Đông Tấn có một cao tăng tên gọi Pháp Hiển
(337 - 422) quyết tâm muốn đi Tây Trúc (Ản Độ cổ đại)
để thỉnh kinh. Vào năm Long An thứ 3 (năm 399) đời
Đông Tấn, ông đã cùng với Tuệ cảnh. Đạo Chỉnh, Tuệ
ứng, Tuệ Nguy xuất phát từ Trường An và nhằm thẳng
hướng Tây sang Tây Trúc ứìỉnh kinh.
^ í ĩĩ
- CAO TẢNG KỲ TRUYỆN
Khi đoàn ngiiời đi qua sông Lưu Sa Hà, dưới sông có
vô số lũ quỷ đói, chì cần một cơn gió khẽ thổi qua thì có
lẽ họ sẽ không còn đường mà quay về được nCte. Khi
sang đến bờ bên kia thì chỉ thấy bốn bề vô cùng hoang
vắng, trên trcrt không có lấy một cánh chim, dưới mặt đất
không có lấy bóng dáng của một con ứìú, đoàn ngưètí
không biết mình đang ở đâu nCfe, chỉ còn biết ditei vào
mặt trời lặn, mọc để phân biệt đông, tây và lấy xuơng
ngưỂtì đế đánh dấu đưòmg đĩ. Họ cứ đi về phía trước liên
tục 17 ngày, ước lượng đã di được khoảng 1500 dặm thì
đến nước Thiện Thiện. Vùng này đường xá vô cùng
nghập nghểnh, đất đai ửiì khô cằn, nhân dân nghèo đói.
H ọ lưu lại đây khoảng m ột tháng rồi lại tiếp tục đí ứieo
hướng Tằy Bắc.
Trên đường đi về phía Tây, họ đã nhiều lần gặp phải
ma quỷ, hiểm nguy, ữiậm chí còn suýt mất mạng. Nhưng
Pháp Hiển cho rằng mình là người dẫn đầu đoàn ngưcrt
trong chuyến
- ---------------------------------------------------------- THANH HÀ
Cam Anh đời ta/ớc (Trương Thiên:? - 114 trước công
nguyên) đã đi qua mưởi mấy nước Tây Vực đã đưồ đồ sắt,
đồng và gấm vóc tcfi Tây Vực, đồng tìiờ i đua đồ gốm và
nhạc khí của người Tây Vực về Trung Nguyên. Tiỗp đó,
họ lại phải vượt qua những đỉnh núi quanh năm bị tuyết
bao phủ. Khi có cơn gió ứiổi tói, cả đoàn người đều rét
cóng, run rẩy. Tuệ Cảnh do không chịu được cái lạnh
nên đã bị đông cứhg ỉại không thể cử động được nite.
ô n g ta nói với Pháp Hiển rằng;
- Tôi sắp chết rồi, mọi ngườỉ hãy mau đi đí, đìừig vi
tô i mà tất cả đều phải vùi xác ở nơi đây.
Nói rồi tắt thở, hồn lìa khỏi xác. Pháp Hiển ỏm chặt
ỉậ / xác của Tuệ Cảnh khóc rống ỉỗn, ông vừà khóc VÌÊI nói:
- Mục đích lấy kinh còn chitei đạt đượt mà người đã
bổ chúng ta mà đí, số mệnh đã an bài như vậy rồi thì
chúng ta cũng chẳng còn cách nào khác nũÈi cả.
Nói xong, đoàn người chôn cất Tuệ cảnh rồi tiếp tục
tiến vể phía Tây.
Đoàn ngưért lại cT qua hơn 30 quốc gia nữa thi mós
i
tới Thiên Trúc. Khi trời gần tối thì đoàn người téfi một
ngôi chùa cách thành Vương Xá khoảng hơn 30 dặm,
Pháp Hiển liền liAi lại đây và chuẩn bị để sáng sớm ngày
hôm sau vào yết kiến núi Linh Tựu. Nhưng các hoà
thượng ừong chùa lại can ngăn rằng;
- Đường đí lên núi rất nguy hiểm, lại có rất nhiều sư
tử đen thích ăn th ịt người, không có cách gi lên núi đưỢc
đâu, vì vậy cao tăng không nên lên núi thì tốt hơn.
Pháp Hiển nghe xong nói:
- Tôi vượt đường xa ngàn dặm tói đầy, nguyện ứiề phải
tớỉ bái kiến núi Unh Tựu. Sinh mệnh của bản thân không
biắ đến bao giờ thì thác, Ijià có lẽ cũng có ứiể kết thđc tại
- CAO TẢNG KỲ TRUYỆN
đây. Thềinh tâm của tôi đã nguyện kết bấy lâu nay, chẳng
nhẽ đã đến đây rồi lại nửa đường đớt gánh hay sao? Mặc
dù có gian nan, nguy hiểm nhưhg tôi quyết không sợ.
Mọi ngiíòs thấy không thể ngăn cản được ý đính của
Pháp Hiển, đềtnh phải phái hai hoà thượng đtte ông lên núi.
Ngày hôm sau, khi Pháp Hiển lên đến núi ứiì trời
cũng vừa tối. Ông muốn ở lại trên núi nghỉ m ột đêm
nhưng hai vi hoà thượng dẫn đưòng do quá sợ hãi nên đã
bỏ ông lại m ột mình rồi quay về chùa. Còn lại m ột mình,
Pháp Hiển liền đốt hương niệm Phật, ông cảm thấy xung
quanh chốn này đều có dấu tích của Phật và dường như
ông đã tận mắt nhìn thấy uy nghi của Phật vậy. Khi đêm
đã khuya, bỗng có 3 con sư tử tiến đến trước mặt Pháp
H iển, chúng ửiè lưâí, vẫy đuôi, gầm gừ hết sức đáng sợ.
Nhưng- Pháp Hiển vẫn không ngừng tụng kinh, chuyên
tâm niệm phật. Đám sư tử thấy vậy thì cúi đầu, cụp đuôi
và nằm phục xuống dưới chân Pháp Hiển. Pháp Hiển
vCfèi lấy tay vuốt ve lũ sư tử vìtei niệm chú:
- Sư tử, sư tử, nếu như ngươỉ muốn ăn th ịt ta ửiì đợi
ta tụng kinh xong rồi hãy ăn, còn nếu như ngưcS muốn
thử ỉòng can đảm cốa ta thì các ngưdi hãy đl đí.
Đám sư tử nghe vậy ứiì ngồi tihần ra hồi lâu rồi từ từ
bỗ đi. Sáng hôm sau, Pháp Hiển quay về chùa nhuhg
đường đi thì ữnh mịch và bị tuyết vùi lấp, chỉ có duy nhất
một con đường mòn nhỏ khúc khuỷu là có thể đi được. Đ i
chưa được m ột dặm đường thì Pháp Hiển bỗng gặp một
cụ già khoảng trên dưótìỉ 90 tuổi, cụ già ăn mặc xộc xệch
nhưhg ứiần khí thì rất minh mẫn. Pháp Hiển cảm ứiấy cụ
già này có thần khí rất khác thường nhưng ông không ngộ
ra được đầy là thần nhân. Sau đó Pháp Hiển gặp một vị
hoà thưỢng trẻ tuổi, ông hỏi vị hoà ửiượng này rằng:
- Cụ già vừa đi qua đay ban nãy ỉà ai đây vậy?
< ] !>
nguon tai.lieu . vn