Xem mẫu
- 1. MỞ ĐẦU
Vào những năm gần đây ,ngành điện trong nước cụ thể là tổng công ty điện
lực Việt Nam EVN đã dần đà biểu hiện những bê bối của mình trong vấn đề sản
xuất kinh doanh, phân phối, cũng như điều hành. Cụ thể là vụ bê bối điện kế điện
tử vào năm 2004-2005 gây ra nhiều tổn thất lớn cho người tiêu dùng , rồi đến vụ
tăng giá điện vào đầu tháng 1/2007 trong khi tình trạng cắt điện xảy ra liên tục trên
diện rộng, sau đó là việc trả lại cho Nhà Nước 13 dự án nhiệt điện than vì lý do
thiếu vốn, và gần đây nhất là việc xin 1002 tỉ đồng làm tiền thưởng dẫn đến việc
Kiểm Toán Nhà Nước phát hiện EVN bị kiểm toán thiếu 600 tỷ đồng … Đó chỉ là
một số trong những thiếu sót mà ta có thể thấy được từ ngành điện nước ta .
Ngành điện là một trong các ngành công nghiệp quan trọng, và là 1 ngành
công nghiệp mũi nhọn của nước ta hiện nay, vì thế việc tập trung phát triển sản
xuất, quản lý, phân phối điện năng sao cho hợp lý, đáp ứng được nhu cầu tiêu
dùng, phát triển của đất nước là tối cần thiết.
Tuy nhiên do vốn đầu tư ban đầu rất lớn, không phải một doanh nghiệp
nào có thể dễ dàng tham gia xây dựng kinh doanh trong thị trường này, và chính
những rào cản đó mà ngành điện nước ta ngay từ đầu đã được nhà nước đầu tư cơ
sở, nền tảng, giao trách nhiệm cho một doanh nghiệp duy nhất quản lý.
Và từ khi thành lập đến nay, nước ta cũng chỉ có một và chỉ một doanh
nghiệp độc quyền quản lý gần như tuyệt đối trong các lãnh vực sản xuất, xây
dựng mạng lưới, truyền tải, phân phối điện năng…đến người tiêu dùng.
Mặc dù ở các nước khác trên thế giới từ lâu đã phá vỡ thế độc quyền của
ngành điện, để mang lại giá trị, chất lượng cũng như độ thoả mãn tối đa nhất cho
người dân, nhưng nước ta đến hiện nay vẫn giữ nguyên cơ chế độc quyền của
ngành điện.
Chính vì thế mà đã sinh ra lắm căn bệnh, bệnh cửa quyền, bệnh mập mờ,
thiếu trung thực, bệnh quản lý yếu kém gây thất thoát hiệu quả đầu tư…Từ đó
dẫn đến những chỉ trích, phê phán, thắc mắc cần giải quyết của đông đảo người
dân.
Tìm hiểu về tình hình độc quyền điện ở nước ta hiện nay, nhóm 4 mong
muốn đưa ra 1 cái nhìn tổng quan về vấn đề này.
1
- 2. ĐỘC QUYỀN ĐIỆN - ĐỘC QUYỀN TUYỆT ĐỐI?
Giới thiệu chung về tình hình độc quyền điện ở nước ta hiện
2.1.
nay:
Bảng sản lượng điện phát ra hàng năm từ 2000-2006 ( số liệu sơ bộ, lấy từ
Tổng cục Thống kê)
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Điện Tr.kwh 26683 30673,1 35888 40546 46202 52078 59050
phát 15% 17% 13% 14% 12,7% 13,4%
ra
Nhà " 24972 28547,6 33777 39154 44655 49250 55911
nước 93,6% 93,1% 94,1% 96,7% 96,7% 94,6% 94,7%
Ngoài " 11,0 5,4 7,0 7,0 9,0 9,0 11,0
nhà
nước
ĐTNN " 1700 2120,1 2104 1385 1538 2819 3127
Từ bảng trên, chúng ta có thể thấy cơ cấu ngành điện về cơ bản không có gì
thay đổi trong giai đoạn từ năm 2000-2006, Nhà nước (thực chất là Nhà nước giao
cho EVN) vẫn gần như chiếm vị thế độc quyền tuyệt đối trong việc phân phối
điện năng (chiếm trên 93% sản lượng điện phát ra).
Chính do cơ chế độc quyền như vậy đã tạo điều kiện hình thành nên những
“căn bệnh độc quyền” trong ngành điện.
Trước hết chúng ta cần tìm hiểu đôi nét về Tập đoàn Điện lực Việt Nam
EVN – đơn vị được giao độc quyền phân phối điện năng tại Việt Nam.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước
của Việt Nam kinh doanh đa ngành. Theo báo cáo của UNDP 2007, EVN là
doanh nghiệp lớn thứ ba Việt Nam (sau Agribank và VNPT). Lĩnh vực kinh doanh
chính là sản xuất, truyền tải và xuất nhập khẩu điện năng.
Hiện nay EVN vẩn sử dụng mức giá bán được điều chỉnh và áp dụng từ
ngày 1/1/2007 vẫn theo mô hình bậc thang và phương pháp bù trừ chéo như cũ.
2
- Trong lĩnh vực chính là kinh doanh điện năng, EVN có 5 công ty điện lực
chính và 5 công ty truyền tải điện kinh doanh đến khách hàng đó là :
• Công ty điện lực 1.
• Công ty điện lực 2.
• Công ty điện lực 3.
• Công ty điện lực TPHCM.
• Công ty điện lực Hà Nội.
• NPT (Tổng Công ty Truyền tải điện Quốc gia)
• Cty truyền tải điện 1
• Cty truyền tải điện 2
• Cty truyền tải điện 3
• Cty truyền tải điện 4
Ngoài các cty trên thì hiện nay EVN còn nhiều nhà máy điện trải dài khắp
đất nước và 89 công ty điện lực tỉnh và quận/huyện thuộc TP.Hà Nội và TP.HCM
và 5 công ty TNHH một thành viên ở Hải Phòng, Hải Dương, Ninh Bình, Đà Nẵng,
Đồng Nai và một công ty cổ phần điện lực ở Khánh Hòa.
Là doanh nghiệp kinh doanh đa ngành, ngoài lĩnh vực chính là điện năng thì
EVN còn đầu tư vào một số lĩnh vực khác như :
• Giáo dục: trường Đại Học Điện Lực.
• Viễn thông: công ty viễn thông điện lực EVN (EVN Telecom) hoạt
động trong lĩnh vực phát triển mạng lưới dịch vụ điện thoại cố định nội tỉnh và
đường dài trong nước, cùng mạng điện thoại di động , dịch vụ Internet.
• Tài chính –ngân hàng : tập đoàn là cổ đông thể chế của ngân hàng
thương mại cổ phần An Bình , bên cạnh đó EVN vừa thành lập Công ty Tài chính
EVN (EVN Finance) với vốn điều lệ 2.500 tỷ đồng, nhằm mục đích thực hiện kêu
gọi đầu tư vào các dự án ngành điện.
• CTCP bất động sản EVN-Land Nha Trang: thành viên mới của tập
đoàn Điện Lực Việt Nam (EVN) với tổng vốn điều lệ ban đầu là 300 tỷ đồng vừa
3
- chính thức ra mắt hoạt động. EVN-Land Nha Trang được hình thành bởi các cổ
đông chính là EVN; CTCP Điện Lực Khánh Hòa (KHP); Công ty XDCT&ĐT địa ốc
Hồng Quang; Công ty điện lực 3;công ty TNHH TM&DV MESA, Công ty điện lực
2, công ty điện lực TP.HCM, công ty cổ phần tư vấn xây dựng điện 4.
• Kinh doanh resort: mới đây EVN đã huy động số vốn đầu tư là 260
triệu USD để đầu tư xây dựng khu resort tại khu vực Thừa Thiên Huế.
Trong tổng số vốn đầu tư tài chính dài hạn 49.700 tỉ đồng thì lượng vốn
đầu tư ra ngoài lĩnh vực sản xuất kinh doanh điện (như đầu tư vào viễn thông
điện lực, chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản là 3.590 tỉ đồng, chiếm
7,22% vốn đầu tư và 4,82% tổng vốn chủ sở hữu). Nhìn chung, đầu tư vào các lĩnh
vực ngoài điện của EVN đều hiệu quả, kinh doanh có lãi nhưng cũng cần được
kiểm soát chặt chẽ.
Theo nhóm nghiên cứu CEPR (Trung tâm Nghiên cứu và chính sách) của Đại
học Quốc gia Hà Nội thì EVN chiếm 74% sản lượng điện sản xuất, chiếm 100%
về truyền tải và 94% về phân phối điện trên cả nước.
Sơ đồ:
Nguồn IPP: nhà máy điện độc EVN: 74%
lập
Truyền EVN
tải
Phân phối EVN
Khách hàng
Sản lượng điện sản xuất theo nguồn
Sản lượng điện sản
Nguồn xuất (triệu kWh)
Tổng điện phát và mua 52 050
Sản lượng điện của các nhà máy thuộc
41183
EVN
4
- Thuỷ điện 16 130
Nhiệt điện than 8 125
Nhiệt điện dầu (FO) 678
Tua bin khí (khí+dầu) 16 207
Diesel 43
Sản lượng điện của các IPP 10 867
Với tỷ trọng:
Bệnh độc quyền:
2.2
Độc quyền thì có nhiều biểu hiện nhưng ở đây Nhóm 4 xin nêu ra 4 “căn
bệnh độc quyền” chủ yếu nổi bật nhất của EVN đó là :
- Độc quyền ở khâu mua , bán và phân phối điện.
- Thiếu trách nhiệm.
- Đưa đề án xin tăng giá điện trong khi chưa hoàn thành trách nhiệm.
- Thiếu minh bạch về số liệu thống kê.
2.2.1 Căn nguyên của “bệnh độc quyền”:
- Do được Nhà nước giao cho độc quyền gần như tuyệt đối, chi phối hoàn
toàn ngành điện nên EVN dường như không phải lo đối phó với bất kỳ đối thủ
cạnh tranh cùng ngành nào. Chính điều đó có lẽ đã gây ra những hạn chế về quản
lý cũng như hiệu quả đầu tư, không tạo động lực cho việc phát triển sản xuất
kinh doanh điện năng.
- Bên cạnh đó do ngành điện là ngành độc quyền tự nhiên , do vậy khi các
cty muốn đầu tư vào ngành này thì phải có nguồn vốn đầu tư mới rất lớn chủ yếu
5
- là đầu tư vào cơ sở hạ tầng và mạng lưới phân phối điện .Chính vì thế mà nó đã
tao ra rào cản cho các cty khác đầu tư vào ngành này.
- Một phần cũng do tư duy quản lý của Nhà nước: chưa tạo ra sự cạnh
tranh, vẫn dung túng cho tình trạng độc quyền, cho phép tập đoàn phát triển ra các
lĩnh vực khác mà quên tập trung vào lĩnh vực kinh doanh cốt lõi của mình ( theo TS
Nguyễn QuangA – http://tuanvietnam.net/vn/sukiennonghomnay/3247/index.aspx)
2.2.2 Biểu hiện của độc quyền:
a. Độc quyền trong khâu mua , bán và phân phối điện năng:
Tình trang cắt điện dường như đã trở thành căn bệnh kinh niên của ngành
điện. Trong thời gian gần đây, điện sinh hoạt vẫn bị cắt trên diện rộng từ khu vực
thành thị đến nông thôn, đặc biệt vào giờ cao điểm, hệ thống điện thiếu khoảng
từ 800 – 1800MW. Trước đây, tình trạng cắt điện này thường chỉ xảy ra vào đợt
cao điểm nắng nóng. Vấn đề này xảy ra đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống sinh
hoạt của người dân lẫn việc sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Biểu hiện độc quyền của EVN ở khâu bán và khâu phân phối điện năng:
- Về phương diện là người cung cấp điện cho nhân dân , độc quyền được
thể hiện ở chổ EVN đã nhiều lần cắt điện đột ngột mà không báo trước như vào
ngày 7/8, Phòng Thương mại và Công nghiệp Cần Thơ đã tổ chức một buổi tọa
đàm với các doanh nghiệp. Một con số được nêu ra: trong năm 2007 khu công
nghiệp Trà Nóc chịu 275 lần cắt điện đột xuất. Độc quyền làm cho khách hàng
không có lựa chọn nào khác, vì nếu không muốn mua điện thì cũng chẳng thể mua
ở nơi nào khác. Việc cúp điện không báo trước này đã kéo theo một loạt hậu quả
nghiêm trọng làm ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của người dân chẳng hạn
như từ ngày 16-19/7, tại Đà Nẵng đã liên tục xảy ra cúp điện trên diện rộng. Công
việc sản xuất của hàng loạt doanh nghiệp gặp nhiều thiệt hại do bị mất điện
không được báo trước. Đáng bức xúc nhất là việc cắt điện không báo trước đã
khiến Công ty cấp nước Đà Nẵng bị động, không thể hoạt động liên tiếp nhiều
ngày. Không điện, không nước sinh hoạt, đời sống người dân đảo lộn, khốn
đốn.Tại Khu công nghiệp Đà Nẵng, hàng ngàn công nhân phải nghỉ việc hoặc rơi
vào tình trạng có ngày công mà không có ngày lương. Vì không có lịch cắt điện cụ
thể nên họ cứ đến công ty, không có điện thì… ngồi chờ hoặc quay về.
- Do là độc quyền nên EVN có quyền chi phối việc cung cấp điện cho
người dân điều đó dẫn đến tình trạng không công bằng trong việc cung cấp và
ngưng cung cấp điện cho người sử dụng do việc thiếu nợ tiền điện quá thời hạn
với công ty . Một doanh nghiệp ở tỉnh Đồng Nai đã nợ quá hạn tiền điện của công
ty lên đến 85 tỷ đồng, nhưng vẫn không hề bị cắt điện, trong khi đó nếu một hộ
sử dụng điện bình thường khi không thanh toán tiền điện đúng hạn sẽ được gửi
giấy báo cắt điện và sau 10 ngày nhân viên ngành điện sẽ đến và cắt điện sử
dụng. Hộ muốn sử dụng lại điện thì phải đến nộp tiên phạt mới được cung cấp
lại dịch vụ. điều này được quy định rất rõ ràng trong Luật nhưng dường như phải
tuỳ trường hợp thì EVN mới đưa Luật ra thi hành.
Độc quyền ở khâu thâu mua điệm :
6
- - Độc quyền không chỉ trong vai trò nhà cung cấp điện mà EVN còn thể
hiện căn bệnh ấy từ vị trí là một người đi mua điện từ các nhà máy điện .Hiện nay
trên thị trường chỉ có duy nhất một mình cty EVN là nhà thu mua và cung cấp điện
cho người sử dụng .Bên cạnh đó lại có nhiều nhà cung cấp điện đầu vào nên việc
lựa chọn công ty đối tác đều hoàn toàn phụ thuộc vào EVN. Do đó mà độc quyền
ở khâu thu mua xảy ra là một điều hiển nhiên. Không chỉ chi phối thị trường thu
mua mà EVN còn chi phối đến việc sản xuất của chính cty đối tác của mình .
- Chẳng hạn như Tập Đoàn Dầu Khí quốc Gia ( PetroVietnam)- là chủ đầu
tư cho nhà máy điện Cà Mau 1 và 2 , cho biết dù đang trong tình trạng thiếu điện
như vào tháng 8/08 vừa rồi nhưng EVN lại không mua hết sản lượng điện mà
Nhiệt điện Cà Mau 1 cung cấp cho dù khả năng mà tập đoàn này là rất cao như
theo lời ông Phùng Đình Thực , Phó Tổng Giám Đốc phụ trách công nghiệp khí cho
biết “Tuy nguồn khí cung cấp cho Nhà máy điện Cà Mau đủ để đạt công suất
720MW nhưng trong tháng 5/2008, EVN chỉ huy động khoảng 450MW/ngày. Nhà
máy chỉ chạy hết công suất trong 4 giờ cao điểm (từ 4 giờ chiều tới 8 giờ tối), các
giờ còn lại chỉ huy động từ 300-400MW. Cụ thể, ngày 6/5 chỉ huy động 10 triệu
KWh, ngày 8/5 là 9,3 triệu KWh, trong khi chúng tôi có khả năng cung cấp khí để
sản xuất 15 triệu KWh “. Tháng 8-2008, Tập đoàn Dầu khí VN đã kêu trời vì khi
cao điểm EVN mua hết công suất, còn giờ thấp điểm EVN… không mua, nhà máy
đối mặt nguy cơ lỗ vì ế điện” .
- Bên cạnh đó EVN lại đi thu mua điện từ các nguồn bên ngoài cụ thể là từ
Trung Quốc cho dù giá lại đắt hơn của công ty cung cấp. Giải thích vấn đề này
ông Phạm Lê Thanh, tổng giám đốc EVN lúc đó, cho rằng đây là hành động hợp lý
của EVN, và vấn đề giá điện mua ngoài từ Trung Quốc cao hơn là không hợp lý.
Dẫn chứng cho vấn đề này ông đã đưa các số liệu như sau : hiện nay giá mua điện
bình quân từ Trung quốc là 4.5 cent/KWh , còn giá mua điện từ nhiệt điện Cà Mau
1 thì bình quân 6.5 cent/ KWh , riêng tháng 2 thì tăng lên 8 cent/ KWh ( chưa kể các
chi phí như truyền tải ,quản lý , thất thoát,…). Trong khi đó giá bán trên thị trường
bình quân chỉ khoảng 5 cent/kWh . Như vậy, nếu tính cả truyền tải, thất thoát thì
mua điện của Trung Quốc về bán coi như “huề vốn”, còn mua điện của Cà Mau 1,
mỗi năm EVN đã lỗ trên 3.000 tỷ đồng. Nếu đúng như vậy thì việc EVN mua điện
của Trung Quốc nhiều hơn là điều tất yếu. Theo ông Thanh, vì giá các nhà máy
của Dầu khí cao hơn nên khi thấp điểm EVN phải huy động điện từ hệ thống của
mình và mua ngoài từ Trung Quốc cho… tiết kiệm.
b. Độc quyền => thiếu trách nhiệm:
Khoảng giữa tháng 9/2008, dư luận xôn xao vì EVN từ chối đầu tư 13 dự
án điện với lý do thiếu vốn. Lý do EVN đưa ra dường như không thuyết phục
nhiều người. Bởi lẽ ngay khi EVN “buông tay” với 13 dự án điện thì Tập đoàn
dầu khí Việt Nam đã nhảy vào cuộc. Không bàn đến khả năng thu xếp nguồn vốn
của 2 tập đoàn này ai hơn ai, vấn đề cần quan tâm là trách nhiệm của EVN. Việc
tiếp nhận các dự án điện cho quốc gia không chỉ đơn thuần là công việc kinh
doanh mà nó là trách nhiệm của 1 tập đoàn Nhà nước được giao độc quyền phụ
trách cung cấp điện năng. Như Ông Nguyễn Đình Xuân” Tôi không biết lí do thực
sự của việc trả lại 13 dự án, nhưng về nguyên tắc họ phải giải trình được điều
đó. Nhiệm vụ nhà nước giao cho anh phát triển nguồn điện để có điện cho nhân
7
- dân, cho sản xuất, cho phát triển kinh tế, chứ không phải quyền lợi mà anh trả.”
Vì vậy không thể vì chút khó khăn mà EVN “chối bỏ trách nhiệm”.
Vấn đề thiếu trách nhiệm này còn được EVN biểu hiện ở việc thường
xuyên cắt điện không báo trước, đổ lổi việc thiếu hụt điện cung cấp cho người
tiêu dùng vì không tiết kiệm .Chủ tịch HĐQT Tập Đoàn Điện Lực Việt Nam EVN
Đào Văn Hưng trả lời với báo chí: “Giá gas từ năm ngoái đến nay đã tăng lên gấp
đôi. Những hộ nào chuyển sang dùng điện để nấu nướng... Chúng ta không thể
nào chạy kịp do sự chuyển hướng tiêu dùng như vậy. Ngày hôm nay, lạnh hoặc
nóng người ta mua điều hoà lắp vào. Gia đình dùng bóng đèn không đáng bao nhiêu
điện nhưng nếu lắp điều hoà, bình nóng lạnh... lượng điện tiêu thụ lớn hơn rất
nhiều, công suất tăng gấp đôi. Việt Nam có khoảng 18 triệu hộ gia đình như vậy.
Lượng điện tiêu thụ tăng lên một con số rẩt lớn.”(Theo Vietnamnet). Ngành điện
đưa ra giải pháp là “vận động nhân dân tiết kiệm điện”.
Khuyến khích người dân tiết kiệm điện là việc làm đúng và rất cần thiết,
nhưng đặt trường hợp EVN là doanh nghiệp được Nhà nước giao độc quyền sản
xuất và cung cấp điện cho cả nước thì lý lẽ trên có lẽ chỉ có ngành điện chấp
nhận được. Thay vì tự kiểm điểm năng lực bản thân thì ngành điện lại đổ lỗi cho
nhân dân – chính là những khách hàng mua sản phẩm của mình. Nhu cầu của khách
hàng tăng cao, ngành điện lại than phiền. Phải chăng là một nghịch lý? Yếu kém
của EVN chính là đã không thể dự đoán được nhu cầu về điện của người dân.
EVN cũng đã chối bỏ trách nhiệm của mình cho những thiệt hại trong sinh hoạt và
sản xuất kinh doanh của người tiêu dùng điện phải chịu do việc cắt điện thường
xuyên gây ra. Thay vì làm tốt việc của mình thì ngành điện lại chỉ chú tâm vào việc
hô hào người dân tiết kiệm điện.
Một nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng thiếu điện là do các dự án điện
hoàn thành chậm so với cam kết. EVN giải thích là do khó khăn trong việc huy
động vốn, giải phóng mặt bằng… mặc dù Nhà nước đã hết sức tạo điều kiện cho
các dự án điện bằng việc ra quyết định 797 (cho phép chỉ định tổng thầu xây lắp)
và QĐ 1195 (cho hưởng các cơ chế đặc thù về thủ tục chuẩn bị đầu tư, lựa chọn
nhà thầu, nguồn vốn..). Báo cáo mới nhất của EVN cho thấy, năm 2008, EVN có
nguy cơ thiếu 9.046,55 tỉ đồng vốn vay và trái phiếu. Câu hỏi đặt ra là EVN có
đang thực sự thiếu vốn hay thiếu chuyên nghiệp trong công tác quản lý và huy
động vốn? Chình vì thế mà EVN gấp rút đưa đề án xin tăng giá điện cho chính
Phủ.
c. Gấp rút trình dự án xin tăng giá điện :
Dư luận đã phản ứng mạnh mẽ trước đề xuất tăng giá điện lên trung bình
20 – 30% trong 2 năm 2009 – 2010 của ngành điện.
Bảng so sánh giá điện sinh hoạt bậc thang do EVN đề xuất:
8
- ( Nguồn : http://www.asset.vn/StockMarket/NewsDetail.aspx?
ContentID=901&CompanyID=413 )
Chuyên gia Nguyễn Trung từng đặt câu hỏi "liệu có quốc gia nào giống
Việt Nam, suốt ngày người dân phải đuổi theo giá? Can cớ của nó không gì khác
chính là cơ chế độc quyền".( theo Vũ Dũng_ Đức Thành 29/10/2008
http://www.tuanvietnam.net/vn/sukiennonghomnay/5172/index.aspx )
Trong một báo cáo gửi Văn phòng Quốc hội mới đây, Tập đoàn Điện lực
VN (EVN) cho biết giá điện bình quân trong những tháng đầu năm 2008 là 868,47
đồng/kWh (tăng 13,99 đồng/kWh so với năm 2007, tăng 3,6 đồng/kWh so với kế
hoạch năm 2008) và cho rằng giá điện còn thấp như hiện nay không hấp dẫn các
thành phần kinh tế tham gia đầu tư công trình điện, không khuyến khích sử dụng
điện tiết kiệm. Trong khi đó, nhu cầu vốn đầu tư theo quy hoạch của ngành điện
rất lớn.
Có ý kiến cho rằng ngành điện thiếu vốn để sản xuất điện nhưng lại có
thể đem tiền đầu tư vào các lĩnh vực khác như viễn thông…( đầu tư 3.000 tỷ đồng
để phát triển mạng thông tin di động CDMA ).
9
- Theo ông Vương Đình Huệ -Tổng KTNN Việt Nam thì mức tổn thất điện
hiện nay vẫn còn cao (10,56%), nếu giảm tỉ lệ tổn thất xuống còn 8% theo mục
tiêu đến năm 2010 của Thủ tướng chính phủ thì mỗi năm EVN sẽ tiết kiệm được
1500 tỉ đồng”. Vấn đề này rất quan trọng vì tỉ lệ tổn thất được tính vào giá thành
bán điện, có nghĩa là người tiêu dùng sẽ phải gánh chịu. Nếu có giải pháp khắc
phục thì sẽ có lợi cho cả EVN và người tiêu dùng điện.
Một ý kiến khác cho rằng: “Tăng giá điện có thể ảnh hưởng đến tốc
độ tăng trưởng kinh tế” – đây là kết luận của nhóm nghiên cứu CEPR (trung tâm
nghiên cứu và chính sách) của ĐHQG Hà Nội.
TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC TĂNG GIÁ ĐIỆN LÊN GDP
Ðiện tiêu dùng: tăng 20%
GDP CPI tăng:
Phương án 1
giảm: 0,04% 0,13%
Sản xuất: không tăng
Ðiện tiêu dùng: tăng 20%
GDP CPI tăng:
Phương án 2
giảm: 0,15% 0,73%
Sản xuất: tăng 10%
Ðiện tiêu dùng: tăng 20%
GDP CPI tăng:
Phương án 3
giảm: 0,16% 1,25%
Sản xuất: tăng 20%
( Nguồn: tuoitreonline Thứ 7, 25 tháng 10 năm 2008).
Tuy nhiên nhóm nghiên cứu cũng không đưa ra ý kiến là có tăng hay không
tăng giá điện.
10
- Trong phần trả lời chất vấn Quốc hội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng
cho biết, với lợi nhuận 5%, là mức thấp với EVN. Với giá thành và giá bán hiện
nay trong khi ngân sách không bù lỗ mà bù chéo, bán cao bù cho bán thấp, ngành
điện đang gặp nhiều khó khăn. Và khả năng tăng giá điện là khó tránh khỏi.
Tăng giá điện là cần thiết vì giá điện thấp có thể khiến người dân sử dụng
lãng phí và các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam sản xuất để xuất khẩu.
Hiện nay giá điện của nước ta thấp hơn một nước trong khu vực như theo
báo Lao động thì “Giá điện bán lẻ bình quân ở Việt Nam khoảng 3 cent/kWh, rẻ
nhất khu vực: Trung Quốc 8-9 cent/kWh, Campuchia 13 cent/kWh”. Vấn đề đặt ra
là mức tăng theo đề xuất của ngành điện là đã hợp lý hay chưa?
Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Trần Viết Ngãi (chủ tịch Hiệp hội Năng lượng
VN) cho biết: “Giá điện chỉ nên tăng bình quân 10-15% là phù hợp với điều kiện
kinh tế nước ta hiện nay. Hơn nữa, nên tăng làm nhiều đợt, ví dụ tăng 15% có thể
chia làm vài ba đợt, chứ nếu cùng một lúc đòi tăng ngay 20%, thậm chí 30%, thì rất
khó chấp nhận”.
Tuy nhiên, trong dài hạn, khi nguồn sản xuất điện (thuỷ điện, than…)
không còn dồi dào như ban đầu thì tăng giá là tất yếu. Người tiêu dùng sẵn sàng
trả giá cao hơn cho chất lượng tốt hơn nhưng sẽ không chấp nhận tăng giá khi
vẫn chịu cảnh cắt điện với lý do “tiết kiệm chi phí”.
d. Độc quyền nên thiếu minh bạch:
Với người tiêu dùng, lợi nhuận, hiệu suất, cơ cấu giá thành, tổn thất điện
năng, các cơ chế bù chéo... trong ngành điện đến nay vẫn là “ẩn số”.
TS. Nguyễn Quang A cho rằng muốn tăng giá điện phải xem xét lại tận gốc
rễ của vấn đề, bắt đầu từ việc hạch toán, kế toán của EVN xem lỗ lãi ra sao, thất
thoát điện thế nào. Việc EVN kêu thiếu vốn đầu tư, liên tục đề nghị tăng giá điện
và phải bỏ 13 dự án, trong khi đòi trích lập quỹ phúc lợi khen thưởng 1.002 tỉ đồng
từ khoản 2.763 tỉ đồng chênh lệch giá điện năm 2007 là không bình thường. Theo
Luật Doanh nghiệp, các doanh nghiệp chỉ được trích quỹ thưởng 5%, trong khi
ngành điện kêu lỗ mà lại đòi trích đến 36%!
Ngày 20/10/2008, trả lời trước báo chí, ông Đinh Quang Trí – Phó TGĐ
EVN khẳng định: “từ năm 1995 đến nay, EVN chưa lỗ”, ông còn cho biết nếu
không phải chịu ảnh hưởng từ việc giá dầu tăng và phải mua điện ngoài với giá
cao làm dội chi phí thì còn lãi hơn. Việc xin trích 1002 tỉ đồng là để đảm bảo
quyền lợi cho người lao động. Việc báo cáo lỗ của EVN là ở phần mua điện giá
cao và bán với giá thấp, nhưng về tổng thể thì không lỗ. ( theo SGGP online ngày
21/10/2008 http://sggp.org.vn/xahoi/2008/10/169089/).
3. KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP:
3.1 Kết luận:
11
- Trong vấn đề này việc ai đúng, ai sai vẫn chưa ngã ngũ. Nhưng độc quyền
điện vẫn là một vấn đề cấp bách, nó vừa hạn chế năng suất cung cấp điện của
các nhà máy, vừa gây ra nhiếu vấn đề tiêu cực trong cuộc sống hằng ngày cũng
như hợp tác phát triển trong thời kì mở của hòa nhập toàn cầu của nước ta.
3.2 Giải pháp:
Hiện nay, EVN là tập đoàn độc quyền về điện. Trục truyền tải điện là độc
quyền tự nhiên ,cả bốn khâu gồm phát điện, truyền tải, phân phối điện và điều độ
quốc gia đều nằm trong tay của EVN, họ chưa có bất kỳ một đối tượng nào để
cạnh tranh. Điều này gây bất lợi lớn cho người tiêu dùng điện bởi EVN có trong
tay những đăc quyền của “nhà độc quyền”, vì vậy phải cần có giảm pháp nhằm
phá thế độc quyền này. Sau đây là một số giải pháp mà nhóm 4 đề xuất nhằm phá
thế độc quyền trên :
Phá thế độc quyền trong phân phối điện năng.
-
- Giảm mạnh tỷ lệ của evn, chia nhỏ evn thành nhiều công ty, tổng công
ty độc lập cạnh tranh mua bán với nhau. Từng bước cổ phần hoá các nhà máy
điện, chuyển các nhà máy điện của EVN thành các nhà máy điện độc lập.
- Khâu điều độ quốc gia phải giao cho Cục Điều tiết điện lực của Bộ
Công thương trực tiếp làm. Cần nguồn nào, mua bán ở đâu..., cơ quan này đều
phải điều tiết trên hệ thống điện của quốc gia.
Nhà nước cần kiểm soát chặt chẽ, thường xuyên các hoạt động của
-
ngành điện, nhằm đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng, đảm bảo sự hấp dẫn đầu tư
trong cũng như ngoài nước
Với những giải pháp trên Nhóm 4 thiết nghĩ sẽ tạo ra một môi trường cạnh
tranh trong việc mua và bán điện tại ngành điện . Như vậy vừa có thể giải quyết
triệt để vấn đề thiếu điện như hiện nay vừa có thể phá được vị trí độc quyền của
ngành điện trong nước .Từ đó người dân cũng như các hộ kinh doanh có thể lựa
chọn cty cung cấp điện phù hợp với mức giá và chất lượng tốt hơn hiện nay.
12
nguon tai.lieu . vn