Xem mẫu
- DO là lượng oxy hoà tan trong nước
cần thiết cho sự hô hấp của các sinh
vật nước (cá, lưỡng thê, thuỷ sinh, côn
trùng v.v...) thường được tạo ra do sự
hoà tan từ khí quyển hoặc do quang
hợp của tảo. Nồng độ oxy tự do trong
nước nằm trong khoảng 8 - 10 ppm,
và dao động mạnh phụ thuộc vào nhiệt
độ, sự phân huỷ hoá chất, sự quang
hợp của tảo và v.v... Khi nồng độ DO
thấp, các loài sinh vật nước giảm hoạt
động hoặc bị chết. Do vậy, DO là một
- chỉ số quan trọng để đánh giá sự ô
nhiễm nước của các thuỷ vực.
BOD (Biochemical oxygen Demand-
nhu cầu oxy sinh hoá) là lượng oxy
cần thiết để vi sinh vật oxy hoá các
chất hữu cơ theo phản ứng:
Vi khuẩn
Chất hữu cơ + O2 ố CO2 + H2O + tế
bào mới + sản phẩm trung gian
Trong môi trường nước, khi quá trình
oxy hoá sinh học xảy ra thì các vi sinh
vật sử dụng oxy hoà tan, vì vậy xác
- định tổng lượng oxy hoà tan cần thiết
cho quá trình phân huỷ sinh học là
phép đo quan trọng đánh giá ảnh
hưởng của một dòng thải đối với
nguồn nước. BOD có ý nghĩa biểu thị
lượng các chất thải hữu cơ trong nước
có thể bị phân huỷ bằng các vi sinh
vật.
COD (Chemical Oxygen Demand -
nhu cầu oxy hóa học) là lượng oxy cần
thiết để oxy hoá các hợp chất hoá học
trong nước bao gồm cả vô cơ và hữu
cơ. Như vậy, COD là lượng oxy cần
- để oxy hoá toàn bộ các chất hoá học
trong nước, trong khi đó BOD là lượng
oxy cần thiết để oxy hoá một phần các
hợp chất hữu cơ dễ phân huỷ bởi vi
sinh vật.
Toàn bộ lượng oxy sử dụng cho các
phản ứng trên được lấy từ oxy hoà tan
trong nước (DO). Do vậy nhu cầu oxy
hoá học và oxy sinh học cao sẽ làm
giảm nồng độ DO của nước, có hại
cho sinh vật nước và hệ sinh thái
nước nói chung. Nước thải hữu cơ,
nước thải sinh hoạt và nước thải hoá
- chất là các tác nhân tạo ra các giá trị
BOD và COD cao của môi trường
nước.
nguon tai.lieu . vn