- Trang Chủ
- Kinh tế - Thương mại
- Đồ án tốt nghiệp Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và khu vực mậu dịch tự do ASEAN (ASEAN free trade area: AFTA)
Xem mẫu
- Đồ án tốt nghiệp
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) và khu
vực mậu dịch tự do ASEAN
(ASEAN free trade area:
AFTA)
1
- MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chương I: Khái quát chung về AFTA
I. Khu vực hoá kinh tế và các hình thức chủ yếu của nó.
1. Nhận định chung
2. Các hình thức chủ yếu của nó
II. Xu hướng quốc tế hoá kinh tế và sự ra đời của AFTA.
1. Xu hướng quốc tế hoá kinh tế.
2. Sự ra đời của AFTA
III. Sự cần thiết ra nhập AFTA của Việt Nam
Chương II: HỘI NHẬP AFTA: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CÁC DOANH
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM.
I. Thực trạng, vị thế hiện nay của các doanh ngiệp công nghiệp Việt Nam trong khu vực.
1. Thực trạng hiện nay của các DNCNVN.
1.1. Thành tựu.
1.2. Hạn chế
1.3. Nguyên nhân
2. Vị thế hiện nay của các DNCNVN trong khu vực.
2.1. Về mậu dịch
2.2. Về sản xuất.
II. Cơ hội và thách thức đối với các DN CNVN khi hội nhập AFTA .
1. Cơ hội.
2. Thách thức
III. Những phương hướng và giải pháp cơ bản.
1. Về phía doanh nghiệp công nghiệp VN
2. Về phía nhà nước
KẾT LUẬN.
2
- LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu hướng quỗc tế hoá đời sống kinh tế thế giới, với những cấp độ toàn cầu hoávà
khu vực hoá, lực lượng sản xuất phát triển vượt ra ngoài phạm vi biên giới của mỗi quốc gia, sự
phân công lao động , quốc tế phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu; vai trò của các công ty đa quốc
gia được tăng cường, việc hình thành các liên kết khu vực ngày một phát triển, hầu hết các quốc
gia đang chuyển sang mô hình kinh tế với việc khai thác ngày càng triệt để lợi thế so sánh của mỗi
nước.Để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của thương mại quốc tế trên thị trường thế giới ngày
nay,các quốc gia trên hành tinh chúng ta trong quá trình phát triển đã từng bước tạo lập nên các
mối quan hệ song phươngvà đa phương, từng bước tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế với
nhiều mức độ khác nhau nhằm đưa lại lợi ích thiết thực cho mỗi bên.Chính các liên kết kinh tế
quốc tế là sự biểu hiện rõ nét của hai xu hướng: Khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức
sống động và đặc biệt quan trọng trong những năm gần đây.
Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của toàn cầu hoá, khu vực hoá, của hội nhập quốc tế, do vậy các
quốc gia đang phát triển sẽ không có sự lựa chọn nào khác hơn là lựa chọn mô hình công nghiệp
hoá theo hướng hội nhập quốc tế. Phù hợp với xu thế này Việt Nam đã và đang tham gia tích cực
và có hiệu quả cao vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (ASEAN free trade area: AFTA) Đây là sự kiện và bước ngoặt đáng ghi nhận. Đồng thời
cũng là vấn đề hết sức mới mẽ đôí với các doanh nghiệp Việt Nam vốn vẫn quen với “vòng tay
bảo hộ ”của Nhà Nước. Theo ý kiến của các chuyên gia, nhiều DNCNVN còn hoạt động như thời
bao cấp, kém năng động, phần lớn đến nay vẫn chưa sẵn sàng cho hội nhập. Do vậy khi tham gia
vào AFTA , thực hiện biểu thuế ưu đãi có hiệu lực chung(CEPT) Tức khi nhà nước phải giảm và
tiến tới xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan ngăn cách buôn bán giữa Việt Nam và các
nước ASEAN thì việc nghiên cứu , xem xét, thảo luận, phân tích đánh giá những cơ hội, thách
thức đối với các DNCNVN, đồng thời đưa ra nhiều những phương hướng và giải pháp để các
DNCNVN phát huy được thế mạnh, tận dụng được cơ hội của mình cũng như hạn chế những ảnh
hưởng xấu, vượt qua thách thức để tồn tại trong môi trường mới là hết sức cần thiết.
Vì đây là nghiên cứu mang tính khoa học đầu tiên và cùng với những hạn chế về kiến thức
cũng như kinh nghiệm thực tiễn nên đề án còn nhiếù sai sót, em mong cô giáo Thạc sĩ Nguyễn
Thu Thuỷ giúp đỡ, chỉ bảo để đề án được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
3
- CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ AFTA
I / Khu vực hoá kinh tế và các hình thức chủ yếu của nó
Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới đang diễn ra ở những cấp độ khác nhau với
xu hướng toàn cầu hoá đi đôi với xu hướng khu vực hoá.
Toàn cầu hoá kinh tế là hình thành một thị trườngthế giới thống nhất, một hệ thống tài
chính, tín dụng toàn cầu , là việc phát triển và mở rộng phân công lao động quốc tế theo chiều sâu,
là sự mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học công nghệ giữa các nước trên quy mô toàn cầu;là việc
giải quyết các vấn đề kinh tế –xã hội có tính chất toàn cầu như vấn đề dân số,tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ mội trường sinh thái…Trong khi đó , khuvực hoá kinh tế chỉ diễn ra trong một
không gian địa lý nhất định dưới nhiều hình thức như: khu vực mậu dịch tự do, đồng minh (Liên
minh) thuế quan, đồng minh tiền tệ,thị trường chung, đồng minh kinh tế…Nhằm mục đích hợp
tác,hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, từng bước xoá bỏ những cản trở trong việc di chuyển tư
bản,lực lượng lao động, hàng hoá dịch vụ …Tiến tới tự do hoá hoàn toàn những di chuyển nói trên
giữa các nước thành viên trong khu vực.
Ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển (hay còn gọi là các quốcgia công nghiệp
phát triển), thì xu hướng tham gia hội nhập vào nềnkinh tế các nước trong khu vực và bảo hộ mậu
dịch ngày càng gia tăng. Việc tham gia mạnh mẽ và rộng rãi vào các khối liên kết kinh tế khu vực,
từng bước tiến tới sự nhất thể hoá cao thông qua các văn bản,hiệp định kí kết đã đưa lại cho các
quốc gia trong liên minh sự ổn định, hợp tác cùng phát triển. Trong điều kiện đó, các doanh
nghiệp của các quốc gia thành viên được hưởng những ưu đãi về thương mại cũng như phải gánh
vác các nghĩa vụ về tài chính, giảm thuế cũng như các miễn giảm khácv.v..(các quốc gia trong
hiệp hội mậu dịch tự do Bắc Mỹ NAFTA ), các quốc gia trong liên minh châu âu(EU) là những
liên kết phản ánh rõ nét các xu hướng trên). Kinh tế giữa các nước thành viên.Theo thoả thuận hợp
tác này, các quốc gia trong liên minh bên cạnh việc xoá bỏ thuế quan và những hạn chế về mậu
dịch khác giữa các quốc gia thành viên, còn cần phải thiết lập một biểu thuế quan chung của khối
đối với các quốc gia ngoài liên minh ,tức là phải thực hiện chính sách cân đối mậu dịch với các
nước không phải là thành viên.
Thị trường chung: Đây là một liên minh quốctế ở mức độ cao hơn liên minh thuế quan,tức
là ngoài việc áp dụng các biện pháp tương tự như liên minh thuế quan trong trao đổi thương maị,
hình thức liên minh này còn cho phép tư bản và lực lượng lao động tự do di chuyển giữa các nước
4
- thành viên thông qua từng bước hình thành thị trường thống nhất (các quốc gia trong cộng đồng
kinh tế Châu Âu).
Liên minh tiền tệ: Đây là một liên minh chủ yếu trên lĩnh vực tiền tệ. Theo thoả thuận này
các nước thành viên phải phối hợp chính sách tiền tệ thống nhất trong toàn khối, thống nhất đồng
tiền dự trữ và đồng tiền sử dụng chung trong khối.
Liên minh kinh tế: Đây là một liên minh quốc tế với một mức độ cao hơn về sự tự do di
chuyển hàng hoá,dịch vụ, tư bản và lực lượng lao động giữa các quốc gia thành viên, đồng thời
thống nhất biểu thuế quan chung áp dụng cho cả nước không phải là thành viên. Ngoài ra, các
nước thành viên còn thực hiện thồng nhất các chính sách kinh tế; tài chính, tiền tệ.(Liên minh
Châu Âu: EU từ năm 1994 được coi là liên minh kinh tế ).
II/ Xu hướng quốc tế hoá kinh tế thế giới và sự ra đời của AFTA
1. Xu hướng quốc tế hoá kinh tế thế giới
Có thể nói rằng toàn cầu hoá, khu vực kinh tế là xu hướng đang chiếm ưu thế trong nền kinh
tế hiện đại, do đó thương mại quốc tế ngày càng được tự do hoá. Đã xuất hiện nhiều tổ chức kinh
tế manh tính khu vực như EU, APEC, AFTA , Asean…. Trình độ quốc tế càng cao thì tỷ trọng
trao đổi giữa các quốc gia càng lớn. Theo một báo cáo về tình hình kinh tế thế giới trong giai đoạn
1990-2000 của WB (lấy giá năm 1988 làm chuẩn) thì thị trường thế giới về các ngành công ngiệp
quan trọng nhất tăng từ 6.188 tỷ USD năm 1973 lên 7683 tỷ năm 1980 và 9852 tỷ USD năm 1988
và dự kiến năm 2000 sẽ tăng lên tới 14522 tỷ USD trong đó trao đổi giữa các quốc gia chiếm tỷ
trọng ngày càng tăng từ 15,3% năm 1973 lên 22,8% năm 1988 và dự kiến đến năm 2000 sẽ là
28,5% .
Điều gì đã làm cho thương mại thế giới phát triển như ngày nay ? Đó là sự bùng nổ của tự do
hoá trương mại khu vực và toàn cầu thể hiện qua việc xuất hiện ngày càng nhiều các tổ chức kinh
tế mang tính khu vực. Tự do hoá thương mại được khởi xướng ở Bắc Mỹ và Châu Âu. Ở Châu Á,
tiếp sau Nhật Bản là Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kong, Singapo đã theo đuổi chính sách hướng
ngoại, mở cửa và tích cực hội nhập vào thị trường quốc tế ; thực hiện tự do hoá từng bước . Kết
quả bốn nước này đã tăng thu nhập đầu người từ mức 20% so với các nước công nghiệp vào năm
1965 lên 70% vào năm 1995. Con đường hướng ngoại,thực hiện tự do hoá thương mại được thực
hiện tiếp nối ở Chi Lê, Malayxia và Thái Lan vào đầu thập niên 70 và sau đó là Trung Quốc vào
đầu thập niên 80. Nhiều người cho rằng khi hội nhập vào kinh tế khu vực sẽ giảm bảo hộ sản xuất
trong nước, do đó sẽ tăng thất nghiệp và giảm tăng trưởng. Lịch sử đã chứng minh không một
nước nào có thể đạt tốc độ phát triển nhanh mà không mở cửa kinh tế, không tích cực hội nhập .
5
- Theo WB số người sống ở mức nghèo khổ ở Châu á (dưới 1USD/ ngày) đã giảm từ 700tr người
xuống còn 300tr người năm 1995. Trung quốc nhờ thoả thuận với Mỹ mở cửa thị trường hơn nữa
và chuẩn bị ra nhập WTO sẽ làm cho thu nhập quốc dân tăng thêm 30% năm nhờ vậy tăng thêm
12 triệu việc làm.
Rõ ràng xu hướng khu vực hoá Kinh tế là tất yếu. Nó mang lại những lợi ích kinh tế to lớn
cho cả người sản xuất và người tiêu dùng trong các nước thành viên . Một quốc gia nào đó gia
nhập các nước thực hiện ưu đãi mậu dịch thường đưa lại những lợi ích chủ yếu sau đây:
Một là, tạo lập quan hệ mậu dịch giữa các nước thành viên, mở rộng hơn nữa khả năng xuất
nhập khẩu hàng hoá của các nước trongliên minh với các nước, các khu vực khác trên thế giới.
Cũng trong điều kiện này mà tiềm năng kinh tế của các nước thành viên được khai thác một cách
có hiệu quả. Chính việc tạo lập mậu dịch tự do hội nhập khu vực đã làm tăng thêm phúc lợi thông
qua việc thay thế các ngành, trước hết là công nghiệp của các nước chủ nhà có chi phí cao (lãng
phí nguồn lực) bằng những ngành có chi phí thấp hơn (tức có hiệu quả hơn) của những quốc gia
nhận được sự ưu đãi. Cũng trong điều kiện này, lợi ích của người tiêu dùng cũng được tăng lên
nhờ hàng hoá của các nước thành viên đưa vào nước chủ nhà luôn nhận được sự ưu đãi. Do đó giá
hàng hoá giảm xuống làm cho người dân ở nước chủ nhà có thể mua được khối lượng hàng hoá
lón hơn mức chi phí thấp hơn.
Hai là, Hội nhập khu vực còn góp phần vào việc chuyển hướng mậu dịch. Sự chuyển hướng
này diễn ra phổ biến khi hình thành liên minh thuế quan, vì khi đó các điều kiện buôn bán giữa các
nước thành viên trong liên minh sẽ trở nên thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn.
Ngay cả trong trường hợp một nước nào đó trong liên minh tiến hành nhập khẩu những sản
phẩm của các quốc gia ngoài liên minh với giá thấp hơn, nhưng nay được thay thế bằng nhập khẩu
những sản phẩm cùng loại của các quốc gia trong liên minh mà giá cả lại cao hơn (do được hưởng
chính sách ưu đãi thuế quan…) Chính những ưu đãi này giữa các nước thành viên trong liên minh
đã đưa tới sự chuyển hướng mậu dịch nói trên (tức là thay thế những người cung cấp sản phẩm
cùng loại có chi phí thấp hơn nhưng không được hưởng các chính sách ưu đãi bằng những người
cung cấp những sản phẩm với chi phí cao hơn (kém hiệu quả ) nhưng được hưởng sự ưu đãi của
khối.
Có thể đưa ra một ví dụ giản đơn để minh hoạ như sau: Trước đây Singapo thường nhập cà
phê của Braxin với giá thấp hơn của Việt Nam vì giá cà phê cuả Braxin là 1500 USD/ tấn còn Việt
Nam là 1600USD/tấn với mức thuế nhập khẩu cho cả hai trường hợp là 20%. Nhưng sau khi Việt
Nam ra nhập liên minh thuế quan thì bây giờ giá ca phê nhập khẩu từ Việt Nam không bị đánh
6
- thuế nữa và chỉ là 1600 USD/tấn thấp hơn giá cà phê nhập từ Braxin (1800USD/ tấn) vì có thuế
nhập khẩu là 20%. Chính vì vậy, việc nhập khẩu cà phê của Singapore sẽ chuyển hướng từ thị
trường Braxin sang thị trường Việt Nam.
Cần phải nhận thấy rằng việc chuyển hướng mậu dịch chỉ đưa lại lợi ích cục cho các quốc
gia trong nội bộ liên minh. Còn xét một cách tổng thể trên phạm vi thế giới thì liên minh thuế
quan cục bộ đã làm giảm phúc lợi chung của thế giới nếu như liên minh đó đưa tới xu hướng
khuyến khích các ngành sản xuất kém hiệu quả.
Như vậy, những tác động tích cực và tiêu cực do thương mại đưa lại là sự kết hợp chặt chẽ
của sự thay đổi cả trong lĩnh vực sản xuất và trong lĩnh vực tiêu dùng. Đó là sự thay thế của các
ngành sản xuất trong nước bằng ngành hàng của các nước đối tác trong liên minh (tác động về sản
xuất) và sự thay thế tiêu dùng hàng nội địa bằng hàng của các nước đối tác (tác dụng với tiêu
dùng).
Tác động tổng thể đối với các nước thành viên phụ thuộc chủ yếu vào mức độ tác động tích
cực và tiêu cực mà thương mại tạo ra. Nếu những tác động tích cực đưa lại những lợi ích lớn hơn
những lợi ích tổn hại do tác động tiêu cực gây ra đối với một nước thành viên nào đó, thì khi đó
hiệp định mậu dịch tự do xét một cách tổng thể là có lợi đối với quốc gia thành viên đó. Tổng quát
lại có thể khẳng định rằng hội nhập vào khu vực, tham gia tích cực vào khu vực mậu dịch tự do
chỉ mang lại hiệu quả cao nếu những người sản xuất có hiệu quả nhất (chi phí thấp nhất) là các
nước thành viên hoặc khi hiệp định về mậu dịch không làm giảm đi những hoạt động buôn bán
giữa các nước thành viên với các khu vực và các quốc gia còn lại trên thế giới.
Ba là, hội nhập vào khu vực, thực hiện tự do hoá thương mại tạo điều kiện cho mỗi quốc gia
thành viên có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp thu vốn, công nghệ, trình độ quản lý,… từ quốc
gia khác trong liên minh. Về lâu dài tự do trương mại góp phần tăng năng xuất lao động , tăng
trưởng kinh tế. Tự do hoá thương mại thúc đẩy tăng trưởng kinh té bằng hai cách: tăng xuất khẩu
và tăng năng xuất cận biên của hai yếu tố sản xuát là vốn và lao động. Trước hết, việc đâỷ mạnh
xuất khẩu sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất của từng quốc gia, điều đó được thể hiện:
- Thực hiện tự do hoá thương mại đang gây ra áp lực lớn đối với mỗi quốc gia trong liên
minh trong các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, buộc các ngành phải phấn đấu giảm giá hoặc giữ
giá ở mức tương đối thấp. Muốn vậy các ngành này phải nhanh tróng thay đổi công nghệ, áp dụng
rộng rãi những kinh nghiệm quản lý, những thành tựu mới và hiện đại của cuộc cách mạng khoa
học – công nghệ.
7
- - Trong điều kiện hội nhập, các quốc gia thành viên đang có xu hướng tập trung đầu tư và
phát triển các ngành sản xuất hàng xuất khẩu có hiệu quả nhất và phát huy tối ưu những lợi thế về
nguồn lực của mình.
- Việc hội nhập vào khu vực sẽ cho phép mỗi quốc gia thành viên năng cao hiệu quả xuất
khẩu theo quy mô và do đó thúc đẩy tăng trưởng sản xuất.
- Đẩy mạnh xuất khẩu có hiệu quả tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia tăng vốn tích luỹ và
do đó thúc đẩy tái sản xuất mở rộng không ngừng.
- Tăng cường xuất khẩu góp phần tạo lập cân bằng cán cân thanh toán theo hướng tích cực,
tăng dự trữ ngoại tệ cho quốc gia đây là điều kiện quan trọng để giảm lãi xuất cho vay khuyến
khích người sản xuất kinh doanh vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tốc độ tăng
trưởngvà phát triển kinh tế… Tiếp đến việc tăng hiệu quả sản xuất nhờ nâng cao năng xuất cận
biên của hai yếu tố sản xuất cho phép mỗi quốc gia thành viênkhông cần phải thay đôỉ cơ cấu vật
chất của sản xuất, thậm chí không tăng thêm chi phí sản xuất mà vẫn đạt hiệu quả kinh tế cao.
Tuy nhiên bất cứ vấn đề gì cũng có tính hai mặt của nó. Việc hội nhập kinh tế khu vực
cũng có mặt trái của nó, cũng có những thách thức mà một quốc gia phải lường trước, tính toán để
hạn chế , vượt qua. Đó là :
- Các nước thành viên phải nhanh chóng điều chỉnh lại các cân đối trong nền kinh tế trên
cơ sở xoá bỏ những hạn chế về thương mại như thuế quan, hàng rào phi thuế quan, trong đó phải
kể đến sự điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu vùng,cơ cấu giá và tỷ giá hối đoái.
- Vấn đề việc làm và giải quyết thất nghiệp .
- Cải cách hệ thống tài khoá, đặc biệt là những trường hợp thuế quan mậu dịch có tỷ trọng
đáng kể trong nguồn thu ngân sách và do đó làm nảy sinh những khó khăn cho việc cân đối ngân
sách của chính phủ.
- Cần phải thiết lập khuôn khổ pháp lý chung (luật chơi chung) đối với các nước thành
viên trước hết cần giải quyết một số vấn đề có liên quan tới các quy định thuế quan, hải quan,
chuẩn mực lao động, môi trường sinh thái, chất lượng sản phẩm.
- Vấn đề giải quyết công bằng, bình đẳng trong xã hội và giữa các nước trong nội bộ khu
vực. Khả năng thu được lợi ích tối đa của mỗi quốc gia khi hội nhập vào nền kinh tế các nước
trong khu vực. Do diều kiện cụ thể của mỗi nước, do trình độ phát triển kinh tế còn khác nhau, các
doanh nghiệp tham gia hoạt động trong điều kiện hội nhập cũng không giống nhau nên mức độ thu
lợi cũng có thể khác nhau. Chính vì vậy việc điều hoà các lợi ích giữa các quốc gia và trong nội bộ
quốc gia xét cả ở trên tầm vĩ mô và vi mô trở nên cực kỳ quan trọng.
8
- 2. Sự ra đời của AFTA .
Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế giới đã đặt ra những thử thách to lớn
không thể vượt qua với hiệp hôị các quốc gia Đông Nam á. Nếu không có sự cố gắng chung của
toàn hiệp hội , đó là sự xuất hiện của những tổ chức hợp tác khu vực như EU,NAFTA mà ASEAN
e ngại sẽ trở thành các khối thương mại khép kín. Do đó sẽ làm cho hàng hoá của ASEAN vấp
phải những trở ngại khi thâm nhập các thị trường này. Mặt khác AEAN đang mất dần lợi thế so
ánh về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực để thu hút đầu tư nước ngoài so với Trung Quốc, Nga
và các nước Đông Âu. Kinh tế ASEAN tăng trưởng với nhịp độ cao nhưng vẫn phụ thuộc vào
nguồn vốn bên ngoài. Năm 1992 theo sáng kiến của Thái lan , hội nghị thượng đỉnh các nước
ASEAN họp tại Singapo đã quyết định thành lập khối mậu dịch tự do Asean: AFTA với ba mục
tiêu cơ bản:
Tự do hoá thương mại Asean bằng việc loại bỏ các hàng rào thúê quan trong nội
bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế quan .
Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một khối thị
trường thống nhất.
Làm cho Asean thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi đặc
biệt là phát triển các thoả thuận thương mại khu vực trên thế giới.
Để biến ASEAN thành khu vực mậu dịch tự do và thực hiện các mục tiêu của AFTA thì các
nước thành viên đã kí kết Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT. Đây là động lực
quan trọng nhất. Nội dung của CEPT là trong vòng 10 năm (19 93-2003) giảm thuế quan trong
thương mại nội bộ Asean xuống còn từ 0- 5% đối với sáu nước thành viên cũ Asean vào năm 2006
đối với Việt Nam và muộn hơn với Lào, Campuchia đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định
lượng và các hàng rào phi thuế quan. Để thực hiện chương trình giảm thuế này, toàn bộ các mặt
hàng trong doanh mục biểu thuế quan của mỗi nước được chia vào 4 danh mục sau:
1. Danh mục các sản phẩm giảm thuế gồm các mặt hàng được đưa vào cắt giảm thuế
quan ngay với lịch trình giảm nhanh và giảm bình thường.
2. Danh mục sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế gồm các mặt hàng tạm thời sẽ chưa
phải giảm thuế và sau một thời gian nhất định các quốc gia phải đưa toàn bộ các mặt hàng này vào
danh mục giảm thuế.
3. Danh mục sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm, các mặt hàng trong doanh
mục này có thời hạn cắt giảm thuế quan muộn hơn, cụ thể là năm 2010 hoăc muộn hơn nữa đối
với mặt hàng nhạy cảm cao.
9
- 4. Danh mục loại trừ hoàn toàn gồm những sản phẩm không tham gia Hiệp định
CEPT. Đây là có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức…
Bên cạnh việc cắt giảm thuế quan ,CEPT còn quy định việc xoá bỏ hạn chế về số lượng
nhập khẩu , các rào cản phi thuế quan khác và lĩnh vực hợp tác trong lĩnh vực hải quan.
Hiệp định CEPT áp dụng mọi sản phẩm chế tạo kể cả sản phẩm nông sản. Muốn được
hưởng ưu đãi giảm thuế trong khuôn khổ CEPT cần thoả mãn hai điều kiện sau.
1. Phải là sản phẩm nằm trong doanh mục sản phẩm giảm thuế và được hội đồng
AFTA xác nhận.
2. Các sản phẩmphải có tối thiểu 40%giá trị được chế tạo từ các nước thành viên
Asean.
3. Sản phẩm đó phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế của cả nước nhập và nước
xuất khẩu, và phải có mức thuế quan(nhập khẩu)bằng hoặc thấp hơn 20%.
III. Sự cần thiết gia nhập AFTA của Việt Nam.
Chuyển sang nền kinh tế mở, Việt nam đanh từng bước hội nhập vào xu thế tự do hoá
thương mại toàn cầu, trong đó việc tham gia AFTA của VN được coi là bước khởi đầu quan trọng
nhất, có thể ví như cuộc diễn tập toàn diện đầy đủ để chuẩn bị gia nhập diễn đàn hợp tác Châu Á -
TBD cũng như tổ chức thương mại thế giới WTO.
Ngày 28.7.1995, VN trở thành thành viên chính thức, với tư cách là thành viên của hiệp
hội, tháng 12 năm 1995 tại hội nghị thượng đỉnh các nước ASEAN lần thứ 5, VN đã thực hiện
chương trình ưu đãi về thuế quan có hiệu lực chung CEPT bắt đầu 1/1/1996 công bố danh mụcvà
tiến hành cắt giảm thuế quan cho cả lộ trình 1996-2000.
Việt Nam tham gia Asean, thực hiện AFTA/ CEPT trong hoàn cảnh kinh tế không giống
các nước thành viên khác. Hiện nay Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của công cuộc CNH, HĐH
đất nước. Nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu rất nhiều so với các nước trong khu vực Thu nhập
quốc dân của nước ta còn rất thấp, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn rất nhỏ bé, cơ cấu kinh tế còn
rất lạc hậu , mặc dù công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao 18,7% năm 2000 so với 1999, nhưng tỷ
trọng ngành Công Nghiệp trong toàn bộ nền KTQD còn thấp. Ngành công nghiệp chế biến chiếm
80,5% toàn ngành Công nghiệp và chiếm 18,7 % tổng sản phẩm quốc dân.
Kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ bé. Tổng kim ngạch XK hai chiều bình quân của giai đoạn
1996-2000 là 22,5 tỷ USD. Tỷ trọng XK trong GDP bình quân 1996 -2000 là 37,6%.
Tình hình xuất khẩu thời kì 1995- 2000
10
- Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Kim ngạch 5448 7255 9185 9361 11523 14308
Tốc độ tăng(%) 34,4 33,2 26,6 21,9 23,1 23,9
Nguồn niên giám thống kê 1998 và báo cáo của Bộ Thương Mai
Tỷ lệ hàng sơ chế trong tổng giá trị xuất khẩu vẫn cao 54,8% trong khi một số nước
Asean, tỷ lệ hàng chế biến hay đã tinh chế thường cao hơn như Indônêxia 52%, Malayxia 85%,
Philippin 75%, Singapo 80%, Thái Lan 71%.
Đặc biệt khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới thường thấp
do chất lượng thấp, giá cả cao, mẫu mã không phong phú hệ thống pháp luật yếu và chưa tương
thích với luật pháp của các quốc gia trong khu vực, đội ngũ cán bộ còn yếu kém.
Trong hoàn cảnh như vậy ,Việt Nam tham gia vào AFTA là một tất yếu không những vì Việt
Nam đã là thành viên của ASEAN mà còn do những tác động tích cực của nó đối với sự phát triển
kinh tế của đất nước ta. Chính những thực trạng khó khăn trên của Việt Nam lại là cơ hội để Việt
Nam tham gia AFTA
Hội nhập AFTA là điều kiện để Việt Nam đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HDH, phấn đấu đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp vào năm 2002.
Do Việt Nam phải cắt giảm thuế theo hiệp định CEPT nên giá cả hàng hoá Asean nhập vào
Việt Nam sẽ trở nên rẻ làm tăng số dư của người tiêu dùng.
Hội nhập AFTA sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá sang các nước Asean vì
hàng rào của họ cũng được cắt giảm thuế bảo hộ như của mình.
Một thị trường rộng lớn với đòi hỏi không quá cao về chất lượng sẽ được mở ra cho các
DNVN, thị trường tiêu dùng được mở rộng ra là một yếu tố giúp VN huy động tiềm năng lao động
và tài nguyên dồi dào của mình và tăng xuất khẩu kể cả đối với các hàng hoá xuất khẩu sang thị
trường ngoài Asean thì lợi ích mà AFTA mang lại cho Việt Nam là giảm giá thành sản xuất nhờ
mua được vật tư đầu vào với gía hạ hơn từ các nước Asean. Chính điều đó làm cho Việt Nam hấp
dẫn hơn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Trước sự cạnh tranh khốc liệt khi nhà nước giảm thuế theo CEPT sẽ buộc cả phiá nhà nước
và phía các doanh nghiệp công nghiệp cố gắng hội nhập, có những thay đổi trong tư duy, trong
chính sách , chiến lược để tạo ra môi trường pháp lý, kinh doanh, đầu tư hiệu quả hơn, học hỏi,
tiếp thu nâng cao trình độ để có thể tham gia vaò cuộc cạnh tranh đầy khốc liệt.
11
- Hội nhập AFTA sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam hình thành mở rộng hơn nữa các mối quan
hệ giữa nền kinh tế Việt Nam với khuôn khổ nền kinh tế chung của khu vực và thế giới. Đây chính
là cơ hội nữa để nền kinh tế Việt Nam bắt kịp với những xu hướng chung của khu vực và thế giới,
tìm ra tiếng nói chung, chia sẻ trách nhiệm với cộng đồng quốc tế mà trước hết là với các nước
trong khối mậu dịch tự do Asean, mở ra một thế đứng vững vàng hơn trong quan hệ của Việt Nam
với các liên minh quốc tế khác, đặc biệt là với liên minh Châu Âu, khu vực Mậu dich tự do Bắc
Mỹ,NAFA , WTO, APEC..
12
- CHƯƠNG II: HỘI NHẬP AFTA –CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI CÁC DOANH
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
I. Thực trạng, vị thế của các DNCNVN trong khu vực
1/ Thực trạng :
a / Thành tựu: Từ khi nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường, nhà nước thực
hiện các chính sách mở cửa thì nền kinh tế nói chung và các DNCNVN nói riêng đã đạt được một
số thành tựu đáng mừng.
Tổng kim ngạch xuất khẩu hai chiều bình quân của giai đoạn 1999-2000 là 22,5 tỷ USD so
với 7,5 tỷ USD trong thời kỳ 1990- 1995. Tỷ trọng xuất khẩu trong GDP bình quân tăng từ 26,4%
trong 1990-1995 lên 37,6% năm 1996-2000. Chúng ta dã mở rộng quan hệ quốc tế , kí hiệp định
thương mại với 60 nước (đặc biệt mối quan hệ với Mỹ vào tháng 7/2000). Năm 1995 chúng ta có
quan hệ buôn bán với trên 100 nước và vùng lãnh thổ, nay là 170 nước và khắp các châu lục.
Công nghiệp có mức tăng trưởng cao đạt 15,7% năm 2000 so với 1999, khu vực doanh nghiệp nhà
nước tăng 9,5%, khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 11,5% , khu vực doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tăng 21,8%.
Các doanh nghiệp nhà nước đã được cải tổ, sắp xếp lại sản xuất nên số doanh nghiệp nhà
nước giảm từ 1993 năm 1995 xuống còn 1786 năm 2000. Vốn cũng được củng cố tăng cường,
nguồn vốn tăng 113% từ 59798 tỷ năm 1995 lên 127594 tỷ năm 2000.
Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được tăng lên về số lượng , giai đoạn
1996-2000 tăng thêm hơn 500 doanh nghiệp .Vốn đầu tư tăng 28,5%/ năm.
Khu vực tư nhân cũng ngày càng phát triển cả về số lượng và phạm vi hoạt động.
Thị trường trong nước thì các doanh nghiệp của ta ngày càng củng cố được vai trò và chỗ
đứng của mình, dần dần khôi phục lòng tin đối với khách hàng thông qua chỉ tiêu chất lượng ngày
càng được nâng cao, giá thành giảm xuống, mẫu mã phong phú phù hợp với thị hiếu, nhu cầu
khách hàng trong nước và quốc tế.
b/ Hạn chế:
Tuy nhiên, đó chỉ là những thành tựu bước đầu nhỏ bé so với các nước trong khu vực,
chúng ta vẫn còn một khoảng cách khá xa cần vượt qua. Các DNCNVN còn yếu thế và lực. Cơ sở
hạ tầng , máy móc thiết bị của các doanh nghiệp còn thiếu đồng bộ và lạc hậu. Ngoài các xí
nghiệp do nước ngoài đầu tư, các xí nghiệp công nghiệp trong nước chỉ có khoảng được coi là
trang thiết bị vào loại tương đối tiên tiến, tốc độ đổi mới thiết bị công nghệ còn khiêm tốn, khoảng
13
- 10 –11%. Điều này đã hạn chế rất nhiều đối với nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản
xuất. Nhiều sản phẩm sản xuất trong nước có giá cao hơn sản phẩm cùng loại nhập khẩu từ 20 –
40%.
Các DNCNVN hiện nay vẫn chưa coi trọng vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng
klhả năng cạnh tranh. Đến giữa năm 1999, cả nước mới có trên 100 doanh nghiệp được cấp chứng
nhận tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000, trong đó DNNN chiếm 70%, riêng vùng kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ mới có 16 xí nghiệp. Phần nhiều các DNCNVN phải dựa vào đối tác nước ngoài biểu
trưng, thiết kế sản phẩm, quy trình công nghệ tiếp thị và phân phối sản phẩm.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao và đang có xu hướng giảm dần. Theo báo cáo của
phòng Thương Mại Việt Nam số nợ phải trả của DNNN bằng 12% vốn của Nhà nước trong khi nợ
phải thu chiếm 60% nợ phải trả. Mặt khác qui mô vốn của DNNN rất nhỏ, số DNNN có vốn dưới
5 tỉ đồng chiếm 65,4 %, vốn trên 10 tỉ đồng chỉ có 20,89%.
Những khó khăn về vốn về thị trường cộng với sự yếu kém, lỏng lẻo, công kềnh của bộ máy
quản lý doanh nghiệp đã dẫn tới tình trạng thua lỗ. Hiệu quả sử dụng vốn rất thấp có đến hơn 50%
số DNNN có tỉ suất sinh lời trên tổng số vốn thấp hơn lãi suất tiết kiệm.
Hơn nữa, các DNNN đang gặp khó khăn trong quá trình chuyển đổi cơ cấu, phần lớn các
sản phẩm kém khả năng cạnh tranh do chí phí tăng cao (nhập nguyên nhiên liệu ,công suất sử
dụng máy móc thấp, kỹ năng quản lý, trình độ công nhân có tay nghề cao và khả năng tiếp thị còn
hạn chế) . Mặt khác, các DNNN mới tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực và Thế giới
vào đầu những năm 90, do đó gặp nhiều khó khăn về kinh nghiệm tiếp cận thị trường cũng như
các thông tin cần thiết liên quan đến quá trình hội nhập. Trong khi đó các DNVN cho đến nay vẫn
chưa xác định được nội dụng hoạt động và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trước sự cọ
sát với các đối tác doanh nghiệp trong khu vực.
c/ Nguyên nhân :
Các hạn chế trên một phần là do yếu tố khách quan đó là tác động của cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam á và Châu á đã làm giảm hẳn nguồn vốn đầu tư và dự án đầu
tư nước ngoài, hàng xuất khẩu bị chững lại, nguyên nhân chính là từ phía chủ quan của doanh
nghiệp và từ luật đầu tư và hệ thống pháp luật còn kém hấp dẫn sự chú ý của các nhà đầu tư. Dù
đã có những sửa đổi để phù hợp với luật đầu tư của khu vực và thế giới nhưng điều kiện ưu đãi ở
một số lĩnh vực chưa được hình thành đồng bộ, môi trường hợp tác cạnh tranh chưa được tạo lập
đầy đủ, còn tồn tại nhiều hình thức hành chính bao cấp mang tính xin cho với thủ tục phiền hà
thiếu tính công khai. Các DNQD chưa thực sự muốn bỏ lớp bảo vệ bên ngoài, chưa thực sự tiếp
14
- nhận cơ chế thị trường một cách tích cực, thiếu năng động sáng tạo ở mọi lĩnh vực, sự trì trệ trong
cơ chế thị trường sẽ không có sự tồn tại. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì vốn và qui mô
nhỏ, sợ thất bại chưa dám đầu tư sản xuất kinh doanh với những cơ hội đem lại lợi nhuận lớn và
độ rủi ro cao, thực sự chưa đáng coi là nhà kinh doanh của thời kỳ hiện đại.
2/Vị thế hiện nay của các doanh nghiệp CNVN trong khu vực,
2.1/ Về mậu dịch:
Trong thời gian trước đây, Việt Nam chủ yếu buôn bán với các nước thuộc Liên Xô cũ và
Đông Âu. Hàng hoá nhập khẩu thường là nông sản thô thông qua các nghị định thư kí kết giữa các
chính phủ. Toàn bộ kim ngạch xuất nhập khẩu nằm trong tay các DNNN.
Từ khi thực hiện chính sách đổi mới vào nằm 1996, số lượng các bạn hàng buôn bán của Việt
Nam được tăng lên đáng kể. Quan hệ thương mại Việt Nam Asean tăng mạnh với tốc độ khoảng
27%/năm và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cán cân thương mại. Thương mại Việt Nam –
Asean chiếm tới 1/3 kim ngạch ngoại thương của Việt Nam trong đó xuất khẩu chiếm và nhập
khẩu chiếm 1/3. Quan hệ Thương mại khu vực vẫn nằm trong tay các DNNN là chủ yếu.
Các mặt hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là chủ yếu là nông sản thô,
thực phẩm chiếm 48% , nhiên liệu chiếm 34% và các mặt hàng chế tạo chiếm 18% (số liệu năm
1994) nghĩa là khi tham gia vào CEPT, các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng ưu đãi về thuế
quan ít hơn so với các doanh nghiệp các nước trong khu vực.
Các mặt hàng xuất khẩu Việt Nam sang ASEAN bao gồm : dầu thô, đậu,cao su,chè, ngô, hạt
điều, tiêu, rau quả tươi,thuỷ sản, thép, gỗ ,than, thiếc, hàng thủ công. Như vậy trong số các sản
phẩm này, có rất ít các sản phẩm được coi là hàng công nghiệp chế biến - mặt hàng được ưu đãi
thuế quan ở mức cao và tiến hành nhanh nhất. Các mặt hàng này chỉ có tính chất bổ xung cho cơ
cấu kinh tế của các quốc gia ASEAN chứ không có vị thế cạnh tranh thực sự.
Khoảng cách giữa các mức thuế hiện hành và mức thuế dưới 5% sau khi thực hiện AFTA
đối với những mặt hàng công nghiệp chế biến mà một số doanh nghiệp Việt Nam có thể tăng
cường xuất khẩu trong tương lai gần như đồ nhựa, da, cao su, dệt may, đá quý,… không lớn.
Ngược lại, các mặt hàng này dễ bị ASEAN chiếm lĩnh ngay trên thị trường nội địa Viêt Nam khi
thuế nhập khẩu ở mức thấp. Các nhà sản xuất đồ nhựa của Việt Nam có thể rơi vào tình trạng như
cách đây vài năm khi đồ nhựa Thái Lan tràn ngập thị trường với chất lượng tốt, kiểu dáng phong
phú và giá thành tương đối rẻ. Mức độ cạnh tranh giữa các hàng hoá của ASEAN trên thị trường
nội địa sẽ càng trở nên gay gắt hơn khi AFTA được thực hiện đầy đủ.
15
- Hàng hoá nhập về từ ASEAN chủ yếu dùng làm đầu vào cho doanh nghiệp sản xuất và hàng
công nghiệp như: nhôm, xi măng, hoá chất, hàng điện tử, phân hoá học, thuốc chữa bệnh, giấy,
xăng dầu, các phương tiện vận chuyển. Hơn một nữa trong số này có mức thuế thấp hơn 5% và
857 mặt hàng đã được đưa vào danh sách tham gia CEPT kể từ 1/1996. Sự tham gia đó chỉ ảnh
hưởng rất nhỏ tới sản xuất trong nước cũng như buôn bán.
Đối với quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước ngoài ASEAN thì lợi ích thu được
đối với các doanh nghiệp sản xuất là giảm giá thành sản xuất nhờ mua được vật tư đầu vào với giá
hạ hơn từ các nước ASEAN góp phần tăng cường khối lượng hàng hoá xuất khẩu. Tuy nhiên các
nướcASEAN cũng xuất khẩu ra thị trường thế giới những sản phẩm tương tự Việt Nam cho nên
họ cũng tăng sức cạnh tranh khi ra nhập AFTA.
2.2/ Về sản xuất.
Như đã đề cập ở trên, hàng công nghiệp chế tạo xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm 18% tổng
kim ngạch xuất khẩu, một con số rất khiêm tốn nếu đem so sánh với con số tương ứngcủa các
nước ASEAN khác. Các mặt hàng công nghiệp chế tạo của Việt Nam hầu như chưa có mặt trên thị
trường ASEAN, ngược lại hàng hoá công nghiệp chế tạo của ASEAN đã thâm nhập khá sâu vào
Việt Nam. Trong số 15 nhóm hàng giảm thuế nhanh, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu
của Việt Nam trong thời gian tới khó có thể có sản phẩm để xuất khẩu. Hàng hoá do các doanh
nghiệp Việt Nam sản xuất vừa chưa có chất lượng được tin cậy lại chưa gây được ấn tượng về
hình thức, kiểu dáng. Ngành công nghiệp điện tử non trẻ của Việt Nam phải đương đầu với cú sốc
mạnh khi có sự nhập khẩu ồ ạt các sản phẩm điện tử ASEAN-một trong những sản phẩm mà các
nước ASEAN mạnh hơn chúng ta rất nhiều và rất chú trọng khai thác thị trường hơn 80 triệu dân
của Việt Nam.
Các Doanh Nghiệp Việt Nam có thế mạnh ở những ngành sử dụng nhiều lao động do tiền
lương ỏ Vệt Nam tươngđối thấp so với các nước ASEAN khác. Tuy nhiên sản phẩm của các
ngành này lại không được tiêu thụ chủ yếu ở ASEAN mà xuất sang các khu vực khác. Do vậy,
việc tham gia AFTA chưa có tác động quan trọng đến các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng
sử dụng nhiều lao động
II> Cơ hội và thách thức đối với các DNCNVN khi hội nhập AFTA
1/ Cơ hội.
Quan điểm của DNVN hiện nay cho rằng tham gia vào AFTA, DNVN sẽ gặp nhiều khó
khăn, thách thức hơn là cơ hội . Lý giải điều này bắt nguồn từ thực trạng yếu kém của DNCNVN
16
- cũng như năng lực cạnh tranh của DNCNVN trước các đối tác ASEAN, đặc biệt là ASEAN 5.
Tuy nhiên nếu xem xét nội dung AFTA đối chiếu vào hoạt động của DNCNVN có thể thấy nếu
các DNCNVN có những chiến lược, giải pháp đúng đắn có thể tận dụng được những cơ hội thuận
lợi.
Thứ nhất, AFTA tạo điều kiện thuận lợi mở cửa thị trường hàng hoá dịch vụ xuất khẩu cho các
DNCNVN hội nhập vào thương mại khu vực.
Nội dung của AFTA đã đưa lại những nguyên tắc về xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi
thuế quan, thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối sử trong thương mại, các tranh chấp thương
mại được giải quyết công bằng, thực hiện bình đẳng trong đàm phán. Thông qua các nguyên tắc
này, khi các doanh nghiệp Việt Nam tham gia AFTA , các sản phẩm sẽ được hưởng thuế suất ưu
đãi thấp hơn cả thuế suất tối hậu quốc (MFN) mà các nước ASEAN giành cho các nước thành
viên WTO, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá Việt Nam có thể thâm nhập thị trường các nước
ASEAN.
Thực tế thương mại hai chiều giữa Việt Namvà ASEAN kể từ khi Việt Nam là thành viên
chính thức của ASEAN(1995) và khi Việt Nam tham gia AFTA (1996) đến nay cho thấy các sản
phẩm đóng góp của DNCNVN trong thương mại nội bộ khu vực tăng lên
Năm XK(tỷ USD) NK(tỷ USD) Tổng số(tỷ USD)
1995 1,112 2,378 3,490(23,9%)
1996 1,364 2,788 4,152(33,4%)
1997 1,911 3,166 5,077(25,5%)
1998 2,372 3,749 6,122(29,1%)
1999 2,463 3,288 5,751(28,4%)
Nguồn (Vụ hợp tác đa biên, Bộ thương mại, tháng 5-2000 )
Thứ hai, thông qua AFTA, các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam có cơ thuận lợi mở
rộng hợp tác đầu tư, chuyển giao công nghệ, mua được nguồn nguyên liệu đầu vào rẻ hơn từ các
nước ASEAN, tận dụng lợi thế sẵn có về nhân công, tài nguyên thiên nhiên trong nước nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh.
Khi môi trường thương mại nội bộ khu vực ngày càng tự do, cũng có nghĩa là mức độ hội
nhập giữa các thành viên ngày càng tăng lên: Các hình thức liên kết khác như đầu tư nội bộ
ASEAN (AIA), hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO), tài chính , năng lượng, GWT… đang tạo
17
- điều kiện cho các DNCNVN một ’’sân chơi” rộng để có khả năng nâng cao hiệu quả và chất
lượng sản phẩm. Mặt khác, do có đảm bảo bằng cam kết đa phương nên các nhà đầu tư ASEAN
và nước ngoài yên tâm đầu tư và chuyển giao công nghệ tại thị trường Việt Nam cũng như các
DNCNVN đầu tư ra nước ngoài cũng được đối sử binh đẳng. Hơn nữa, các DNCNVN có thể hạ
giá thành sản phẩm do mua được nguyên liệu đầu vào rẻ hơn từ các nước ASEAN. Đây là cơ hội
không dễ có được đối với bất cứ một doanh nghiệp nào. Những khó khăn do khan hiếm nguyên
nhiên vật liệu cho sản xuất sẽ được loại bỏ khi gia nhập AFTA. Nếu các DNCNVN tận dụng được
cơ hội này, họ có thể vươn lên cạnh tranh tốt với các đối thủ ngoài khu vực.
Tính trong 10 năm qua (1989- 1999) phần FDI từ các nước ASEAN vào Việt Nam ngày
càng tăng chiếm 27,8% tổng số FDI tại Việt Nam. Bằng nguồn vốn này , ASEAN 5 đã đóng góp
17,5% doanh thu; 11,4% giá trị xuất khẩu; 13,4% việc làm; 19,3% thuế doanh thu; 13,2% thuế lợi
tức; 18,9% thuế xuất nhập khẩu và 50,9% các loại thuế khác so với tổng các chỉ tiêu tương ứng
FDI tại Việt Nam (Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư MPT, 12-1999)
Thứ ba, khi tham gia AFTA, các DNCNVN có khả năng rút ngắn khoảng cách tụt hậu, tranh
thủ và bổ sung các lợi thế sẳn có giữa các doanh nghiệp trong nội bộ khu vực.
Mặc dù có sự trùng lặp và cơ cấu ngoại thương giữa Việt Nam và ASEAN nhưng có nhiều
lĩnh vực các DNCNVN có thể khai thác từ thị trường ASEAN như Việt Nam có thế mạnh về các
sản phẩm nông sản, hàng dệt, may mặc trong khi đó ta cũng có nhu cầu nhập khẩu các thiết bị
máy móc hạng trung bình, các sản phẩm hoá chất, bán thành phẩm từ các nước ASEAN với giá
thấp hơn so với các khu vực khác trên thế giới. Nếu tranh thủ được các lợi thế này các DNCNVN
sẽ có lợi do tăng được khả năng cạnh tranh với các đối tác bên ngoài ASEAN về giá cả, chi phí
vận chuyển. Ngoài ra trong quá trình hội nhập kinh tế, các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam có
thể học hỏi kinh nghiệm quản lý, tiếp thu kỹ thuật công nghệ, đặc biệt đối với các Doanh nghiệp
vừa và nhỏ, từ các nước ASEAN
Thứ tư, tham gia AFTA sẽ tạo tạo sức ép buộc các DNCNVN phải tự đổi mới và nâng cao
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh,tích cực áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ và
cung cách làm ăn mới. Hơn nữa khi gia nhập AFTA sẽ buộc và khuyến khích các DNCNVN tập
trung vào những ngành được hưởng ưu đãi và ngừng sản xuất những mặt hàng không đủ sức cạnh
tranh. Sức ép to lớn từ phía AFTA đòi hỏi các DNCNVN phải cố gắng nỗ lực để đuổi kịp và vượt
các nước ASEAN về mẫu mã chất lượng giá cả hàng hoá. Các Doanh nghiệp Công nghiệp Việt
Nam sẽ trải qua quá trình sàng lọc tự nhiên thông qua cạnh tranh quốc tế Những doanh nghiệp vốn
vẫn được trợ cấp sẽ nhanh chóng bị thay thế bởỉ những doanh nghiệp nứơc ngoài hay doanh
18
- nghiệp trong nước có đủ khả năng, nếu không tự mình cố gắng đổi mới vươn lên. Nền sản xuất
trong nước sẽ hiệu quả hơn và thích ứng nhanh hơn đối với các điều kiện quốc tế thay đổi.
Thứ năm, vị thế của các Doanh nghiệp Công nghiệp Việt Nam được cải thiện nhờ quá trình đa
phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ khu vực và thế giới. Trên cơ sở nguyên tắc đồng thuận
cũng như sức mạnh tập thể của tổ chức ASEAN, các DNCNVN sẽ tạo được thế và lực trong đàm
phán thương mại song phương và đa biên với các cường quốc kinh tế cũng như các tổ chức quốc
tế như APEC,EU, WTO…
2/ Thách thức
Bên cạnh những cơ hội những thuận lợi có được khi tham gia AFTA thì với những hạn chế
còn tồn tại, các DNCNVN hiện nay đang phải đương đầu với một số khó khăn và thách thức chủ
yếu sau đây:
Thứ nhất, năng lực cạnh tranh yếu, năng suất lao động, hiệu quả của các sản phẩm, dịch
vụ của các DNCNVN còn thấp dẫn đến giá cả chất lượng mẫu mã của các sản phẩm hàng của các
DNCNVN khó có thể cạnh tranh được với hàng hoá của các nước ASEAN khi hàng rào thuế quan
và phi thuế quan được dỡ bỏ.
Thứ hai, hiện trạng các DNCNVN hiện có khoảng 53000 doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế với gần 3 triệu lao động. Tuy nhiên, nếu so sánh với các doanh nghiệp của các nước
ASEAN, phần lớn các DNCNVN là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu,
năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh. Về tỷ trọng của công
nghiệp chế tạo hiện nay chỉ bằng mức của Thái Lan 1970, tức là chỉ chiếm 15% GDP. Tài sản cố
định bình quân cho một lao động của Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), chỉ có 44 triệu đồng,
trong đó gần một nửa doanh nghiệp nhà nước chỉ có 20 triệu đồng. Đối với doanh nghiệp tư nhân,
bao gồm 23000 doanh nghiệp vốn tài sản cố định chỉ chiếm 16% tổng số vốn tài sản cố định của
doanh nghiệp nhà nước. Hơn nữa trang thiết bị máy móc của doanh nghiệp CNVN phần lớn lạc
hậu, tiêu hao năng lượng, nguyên liệu lớn hơn nhiều so với các doanh nghiệp của một số nước
ASEAN khác. trình độ công nghệ của các doanh nghiệp CNVN tụt hậu khoảng 25-30 năm so với
Thái Lan dẫn đến chi phí đầu vào cao hơn từ 30-50% so với các đối tác ASEAN khác
Nhómngành
Công nghệ Nước
Inđô Malai Philip Singapo Thái VN
CN thấp 47,7% 24,3% 45,2% 10,5% 42,7% 58,7%
19
- CN cao 29,7% 51,1% 29,0% 73,0% 30,8% 20,6%
CN TB 22,6% 24,6% 25,7% 16,5% 26,5% 20,7%
Nguồn : NGTK 1998 và báo cáo của bộ Thương Mại
Tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước thực hiện còn chậm do nhiều nguyên
nhân(cơ sở pháp lý, tâm lý do dự, thói quen bao cấp, khả năng kinh doanh… ). Do đó khả năng
cạnh tranh tính năng động của các DNCNVN nhìn chung còn yếu.Khi hội nhập vào AFTA với
môi trường kinh doanh mới mang tính cạnh tranh đầy khốc liệt thì nguy cơ các doanh nghiệp
CNVN thua ngay trên sân nhà do các sản phẩm hàng hoá của mình không thể cạnh tranh được với
sản phẩm của các nước ASEAN có giá thấp hơn chất lượng cao hơn, mẩu mã phong phú hơn, là
điều có thể thấy trước. Hiện tại hàng hoá nhập khẩu đang tràn ngập thị trường, bóp chết hoặc làm
điêu đứng không ít ngành công nghiệp bản địa (ngay cả khi hàng rào thuế quan còn được duy trì
khá cao) như hàng dệt, cơ khí, điện dân dụng …, đặc biệt đáng lo ngại là những ngành có hàm
lượng vốn , kỹ thuật cao. Bởi sự chênh lệch về trình độ hiện tại là rất rõ rệt và khi hàng rào bảo họ
mậu dịch bị xoá bỏ thì các ngành sản xuất trong nước sẽ chịu những sức ép lớn hơn nhiều. đó là
bài toán hết sức hóc búa mà các DNCNVN phải tìm được lời giải nếu không muốn bị phá sản, trao
thị trường vào các đối thủ cạnh tranh.
Thứ hai, vấn đề cân đối sử dụng vốn để đầu tư và tái đầu tư sản xuất của các DNCNVN còn
những điều bất ổn.
Nếu so sánh với tiềm năng, nguồn vốn của doanh nghiệp một số nước ASEAN khác
(Singapo, Thái Lan, Maliaxia…), vốn đầu tư của các DNCNVN đều trong tình trạng thiếu vốn
nghiêm trọng. Theo các số liệu, DNVN hiện nay cần phải huy động khoảng 20.000 tỷ VNĐ, chưa
kể các nguồn vốn đầu tư đến cơ sở hạ tầng , mặt bằng sản xuất….Riêng nguồn vốn lưu động của
các DNNN mới chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu. Đây là bài toán khó đặt ra cho ngân sách NN.
Tuy nhiên điều nghịch lý ở chỗ một số DNCNVN mặc dù thiếu vốn nhưng ngại vay vốn từ nhà
băng hoặc huy động vốn từ các nguồn khác. Thực tế cho thấy lãi suất cho vay của ngân hàng với
các doanh nghiệp hiện nay thấp khoảng 1% kèm theo các thủ tục vay vốn đơn giản nhưng cũng
không thu hút được nhiều doanh nghiệp vay vốn. Sở dĩ có tình trạng này là do các doanh nghiệp
lúng túng khi làm thủ tục giải ngân cũng như khó khăn tìm đầu ra cho nơi tiêu thụ sản phẩm. Mặt
khác, chính sách thẩm định nguồn vốn cho vay của nhà băng còn bộc lộ nhược điểm khi đánh giá
thực trạng và năng lực kinh doanh của từng xí nghiệp. Chúnh vì vậy dẫn đến tình trạng những
doanh nghiệp kinh doanh lành mạnh cần có vốn đầu tư chưa được đáp ứng kịp thời. Ngược lại có
20
nguon tai.lieu . vn