Xem mẫu
- ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở
NƯỚC TA
Posted on 25/05/2009 by Civillawinfor
GS.TS. CHU VĂN CẤP – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Việc thừa nhận kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có
của chủ nghĩa tư bản đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ nghiên cứu,
vận dụng tốt kho tàng tri thức về kinh tế thị trường và các quy luật
của nó nhằm thực hiện mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh".
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội, trong đó quá trình
sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua
thị trường. Vì thế kinh tế thị trường không chỉ là "công nghệ", là "phương
tiện" để phát triển kinh tế – xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế – xã
hội, nó không chỉ bao gồm các yếu tố của lực lượng sản xuất, mà còn cả
một hệ thống quan hệ sản xuất. Như vậy, chứng tỏ không có và không
thể có một nền kinh tế thị trường chung chung, thuần túy, trừu tượng
tách rời khỏi hình thái kinh tế – xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị – xã
hội của một nước. Do đó, để phân biệt các nền kinh tế thị trường khác
nhau, trước hết phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế – xã hội
mà nhà nước và nhân dân lựa chọn làm định hướng, chi phối sự vận
động phát triển của nền kinh tế đó.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức
nền kinh tế – xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh
tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa
xã hội. Bởi vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai
nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung
cho nhau. Đó là, nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố
của xu hướng mới đang vận động, đang phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ nhất đóng vai trò "động lực" thúc đẩy
sản xuất xã hội phát triển nhanh, hiệu quả; nhóm thứ hai đóng vai trò
"hướng dẫn", "chế định" sự vận động của nền kinh tế theo những mục
tiêu đã xác định, bổ sung những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu
cực của thị trường, hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói rằng: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta vừa mang những đặc trưng chung của kinh tế thị trường, vừa mang
tính đặc thù, đó là định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội
chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật kinh
tế thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị
trường ở nước ta với các nước khác.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta thể
hiện trước hết ở việc xác định nội dung các mục tiêu chiến lược phát
triển kinh tế thị trường và đặc trưng xã hội của nền kinh tế thị
trường.Như trên đã phân tích, trong nhiều đặc tính có thể dùng làm tiêu
thức để phân biệt nền kinh tế thị trường này với nền kinh tế thị trường
- khác, phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế – xã hội mà nhà
nước và nhân dân đã lựa chọn làm định hướng chi phối sự vận động của
nền kinh tế. TrongCương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới"(1).
Cương lĩnh cũng xác định rõ mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc
thời kỳ quá độ là "xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ
nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa
phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn
vinh"(2).
Với những định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nêu trên, thì
mục tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được xác định
là giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế,
động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở
vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội tạo ra sự phát triển năng động,
hiệu quả cao của nền kinh tế, trên cơ sở đó, cải thiện từng bước đời
sống của nhân dân, từng bước thực hiện sự công bằng, bình đẳng và
lành mạnh các quan hệ xã hội. Từ đó sẽ khắc phục được tình trạng tự
túc tự cấp của nền kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát
triển, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động. Áp dụng
khoa học, công nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất
lao động xã hội, tăng số lượng, chủng loại và chất lượng hàng hóa, dịch
vụ. Thúc đẩy tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa
các địa phương, các vùng lãnh thổ, với các nước trên thế giới. Động viên
mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài. Phát
huy tinh thần năng động, sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn vị
kinh tế, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế,
tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Đưa nước ta thoát
khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển, thực hiện được mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy,
có thể nói, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là "đòn xeo"để phát
triển kinh tế nhanh và bền vững, là phương tiện để thực hiện xã hội hóa
xã hội chủ nghĩa nền sản xuất, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội.
Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
ở chỗ đem thành quả của tăng trưởng kinh tế cao đến với mọi người
bằng cách không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các
vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội. Chủ trương của
Đảng ta là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Thực hiện tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi sản xuất và đời sống nhân dân như nước với
thuyền, "nước đẩy thuyền lên", tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và
công bằng xã hội, động viên, khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền
với xóa đói, giảm nghèo.
Ở nước ta, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, Nhà nước chủ động giải quyết ngay từ đầu mối quan hệ giữa
tăng trưởng với bảo đảm an sinh và công bằng xã hội. Bởi vấn đề bảo
đảm xã hội, công bằng, bình đẳng trong xã hội không chỉ là "phương
tiện" để phát triển mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội xã hội chủ
nghĩa.
Bởi vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có
ba điểm rất cơ bản là: lấy chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ
yếu làm nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế
quốc dân; kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, thực hiện tốt các chính
sách xã hội; Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì
dân thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể luận giải ba điểm trên như sau:
Thứ nhất, chế độ đa sở hữu và đa thành phần kinh tế. Cốt lõi của kinh
tế thị trường là sản xuất hàng hóa, trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ
trên thị trường theo quy luật thị trường. Sản xuất và trao đổi chỉ xảy ra
khi mọi chủ thể tham gia vào nền kinh tế thị trường độc lập với nhau, và
vì vậy muốn thỏa mãn nhu cầu xã hội thì phải trao đổi sản phẩm gọi là
hàng hóa. Các chủ thể, bởi thế, phải ý thức rõ ràng về sở hữu vật đem
trao đổi, cũng như lợi ích từ việc trao đổi đó. Người lao động có thể là
một người lao động cá thể hay một người lao động tổng thể. Xét trên
phạm vi cả xã hội thì chỉ thông qua trao đổi lao động tư nhân mới biểu
hiện thành lao động xã hội, mới chứng tỏ lao động tư nhân đó được xã
hội thừa nhận.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên nhiều hình
thức sở hữu, như: sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại diện chủ sở hữu,
sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp, song chế độ sở hữu
công cộng (công hữu, toàn dân) về tư liệu sản xuất chủ yếu đóng vai trò
nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Từ các hình thức sở hữu cơ bản
hình thành nhiều thành phần kinh tế với các hình thức tổ chức sản xuất,
kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp.
- Việc thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần dựa trên cơ sở giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa
nguồn lực bên trong và bên ngoài để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.
Bên cạnh đó phải chủ động đổi mới, củng cố và phát triển kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể để chúng trở thành nền tảng của nền kinh tế, có
khả năng hướng dẫn các thành phần kinh tế khác phát triển theo đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và
phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, các lĩnh vực dịch vụ xã
hội cần thiết cũng như an ninh – quốc phòng, mà các thành phần kinh tế
khác không có lợi thế hoặc đầu tư không có hiệu quả. Xác lập, củng cố
và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã
hội, thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn.
Thứ hai, kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế là chính; thực hiện tốt các chính sách
xã hội. Muốn cho nền kinh tế thị trường không ngừng nâng cao đời sống
nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và thực hiện công bằng xã hội,
thì Nhà nước phải chủ động thực hiện và điều tiết các quan hệ phân
phối, cụ thể như:
- Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích của sự kết hợp
này là vừa bảo đảm cho các chủ thể tham gia kinh tế thị trường có điều
kiện đua tranh phát huy tài năng và có lợi nhuận cao, vừa tạo được điều
kiện chính trị – xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế.
- Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và
nguyên tắc của kinh tế thị trường, như: phân phối theo lao động, theo
vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội… trong đó, phải
làm sao để quan hệ phân phối theo lao động đóng vai trò chủ đạo. Thừa
nhận sự tồn tại của các hình thức thuê mướn lao động, các quan hệ thị
trường sức lao động, nhưng không để chúng biến thành quan hệ thống
trị, dẫn đến tình trạng không kiểm soát được sự phân hóa xã hội thành
hai cực đối lập.
- Nhà nước chủ động điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Một
mặt, Nhà nước phải có chính sách để giảm bớt khoảng cách chênh lệch
giữa lớp người giàu và lớp người nghèo, không để diễn ra sự chênh lệch
quá mức giữa các vùng, miền, các dân tộc và các tầng lớp dân cư, thực
hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Mặt khác, phải có chính sách, biện
pháp bảo vệ thu nhập chính đáng, hợp pháp cho người giàu, khuyến
khích người có tài năng.
Việc điều tiết phân phối thu nhập được thực hiện theo hai kênh: Nhà
nước xã hội chủ nghĩa là chủ thể duy nhất tiến hành tổ chức điều tiết
phân phối thu nhập trên phạm vi toàn xã hội, nhằm bảo đảm công bằng
xã hội; thị trường có những nguyên tắc riêng trong điều tiết phân phối thu
nhập. Chế độ phân phối trong xã hội là sự kết hợp giữa cơ chế thị
trường và sự quản lý, điều tiết của Nhà nước.
- Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực
hiện công bằng xã hội không thể chỉ dựa vào chính sách điều tiết và
phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư, mà còn phải thực hiện
tốt các chính sách phát triển xã hội, nhằm giải quyết hài hòa các mối
quan hệ xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, phấn đấu
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đối tượng của các chính sách xã hội là toàn thể nhân dân, bởi vậy các
chính sách ấy bao gồm:
Chính sách lao động và việc làm là chính sách xã hội cơ bản. Nó có
nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nguồn lao động có kiến thức, kỹ năng và
lương tâm nghề nghiệp ngày càng cao, tạo ra nhiều việc làm mới, đồng
thời sử dụng hiệu quả nguồn lực ấy, giảm dần tỷ lệ thất nghiệp và thiếu
việc làm, vươn tới toàn dụng lao động xã hội. Đó chính là biện pháp quan
trọng để vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa "phát triển sự phong phú
của bản chất con người" trong lao động sáng tạo ra mọi của cải có giá trị
cho bản thân, gia đình và xã hội.
Chính sách xóa đói, giảm nghèo không đơn thuần chỉ là một chính sách
từ thiện, mà là một hệ thống chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị
và môi trường nhằm tác động trực tiếp và gián tiếp đến các nguyên nhân
cơ bản dẫn đến đói nghèo, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người. Đó là
các chính sách giao quyền sử dụng đất, tạo vốn, chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật, hỗ trợ về giáo dục và y tế, hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng thiết
yếu, phát huy quyền làm chủ cho người nghèo và cộng đồng nghèo để
giúp họ tự vươn lên thoát nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ
phát triển, về thu nhập và mức sống giữa các tầng lớp dân cư, các thành
phần dân tộc, các vùng miền trong cả nước.
Chính sách an sinh xã hội phải từng bước tạo ra "mạng lưới" gồm nhiều
tầng, nhiều lớp, nhiều hình thức phong phú về bảo hiểm xã hội, cứu trợ
xã hội, ưu đãi xã hội nhằm bảo đảm cuộc sống xứng đáng cho những
người về hưu, người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, người gặp
rủi ro bất hạnh và đặc biệt là những người có công với nước.
Chính sách phòng chống các tệ nạn xã hội phải kết hợp sử dụng nhiều
biện pháp giáo dục, hành chính và pháp luật để giữ vững sự ổn định, an
toàn của một xã hội có kỷ cương; xây dựng lối sống lành mạnh theo quy
phạm đạo đức và chuẩn mực xã hội tiến bộ, văn minh, có tác dụng cảm
hóa những người lầm lỗi, tạo điều kiện cho họ tái hòa nhập cộng đồng.
Thứ ba, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân
thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực
hiện cơ chế đó sẽ bảo đảm tính định hướng, điều khiển hướng tới đích
xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế theo phương châm: nhà nước điều tiết
vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp.
- Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể
hiện trên các mặt, như Nhà nước đóng vai trò là "nhân vật trung tâm" và
quản lý kinh tế vĩ mô, thông qua các chức năng:
- Tạo môi trường pháp lý, kinh tế – xã hội ổn định, thuận lợi cho các chủ
thể kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường;
- Định hướng và hướng dẫn sự phát triển kinh tế – xã hội bằng việc soạn
thảo, ban hành các kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển
kinh tế – xã hội và các chính sách (đặc biệt là các chính sách tài chính,
tiền tệ, tín dụng) để hướng các chủ thể kinh tế vào thực hiện các kế
hoạch, quy hoạch và các chương trình phát triển kinh tế – xã hội đã đặt
ra;
- Tổ chức là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nước về kinh tế,
nó bao gồm: Nhà nước sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị kinh tế, đặc biệt
là sắp xếp, củng cố các doanh nghiệp nhà nước; phân phối các khu công
nghiệp tập trung, các vùng kinh tế nhằm tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, phù
hợp với nền kinh tế thị trường; tổ chức lại hệ thống quản lý, sắp xếp lại
các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế. Đổi mới thể chế và thủ tục
hành chính. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức quản lý
nhà nước và quản lý doanh nghiệp; thiết lập mối quan hệ kinh tế với các
nước và các tổ chức kinh tế quốc tế.
- Điều tiết kinh tế, điều hành vĩ mô nền kinh tế, trong đó Nhà nước cần
cân nhắc kỹ lưỡng những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động
thị trường được diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật giá
trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh; bảo đảm nguyên tắc vận hành của
nền kinh tế là nguyên tắc thị trường "tự điều chỉnh". Mặt khác, do thị
trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không
phải là thị trường tự điều tiết hoàn toàn, mà còn phải phục vụ các mục
tiêu kinh tế – xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, do đó nó còn phải
chịu sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do vậy, không thể xem
các quan hệ thị trường hoạt động theo quy luật kinh tế khách quan một
cách biệt lập với sự điều tiết của Nhà nước bằng các chính sách kinh tế
của mình.
- Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát nhằm thiết lập kỷ
cương trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn chặn các hiện tượng vi
phạm pháp luật và làm sai chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích
của nhân dân, góp phần tăng trưởng kinh tế và từng bước thực hiện
công bằng xã hội.
Cơ chế thị trường là nhân tố "trung tâm" của nền kinh tế, đóng vai trò
"trung gian" giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước ta quản lý nền
kinh tế – xã hội theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát
huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo vệ lợi ích của người lao động và của toàn thể nhân dân.
Quan điểm cho rằng, khi chuyển sang kinh tế thị trường thì Nhà nước
không cần phải can thiệp vào kinh tế và không cần thiết phải kế hoạch
hóa vĩ mô nền kinh tế… là hoàn toàn sai lầm và không có căn cứ lý luận,
- thực tiễn. Trong tất cả các mô hình kinh tế đã được đúc kết trên thế giới
có hai dạng điều tiết kinh tế: thứ nhất, điều khiển trực tiếp bằng kế
hoạch hóa và các biện pháp hành chính; thứ hai, điều tiết gián tiếp thông
qua thị trường, vận dụng cơ chế thị trường để tác động đến hoạt động
của các doanh nghiệp, dùng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích hoặc
gây áp lực buộc các doanh nghiệp phát triển trong khuôn khổ pháp luật
và theo hướng kế hoạch do Nhà nước đề ra. Hai dạng điều tiết kinh tế
này chỉ khác nhau ở mức độ, liều lượng và hình thức của mỗi dạng trong
cơ chế chung. Sở dĩ như vậy là vì, với tư cách là công cụ điều tiết kinh tế
vĩ mô, là biện pháp, thủ đoạn kinh tế, cả kế hoạch hóa và thị trường đều
có cả ưu thế lẫn khuyết tật. Bởi vậy, chúng cần bổ sung cho nhau để
hạn chế những khuyết tật.
Thực chất của vấn đề kế hoạch hóa trong kinh tế thị trường, xét từ góc
độ Nhà nước, có thể được coi là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp
bằng kế hoạch và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối
với các hoạt động kinh tế trong xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý kinh tế theo nguyên tắc kết hợp kế
hoạch với thị trường sẽ tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng lực lượng
sản xuất, đẩy nhanh sự phát triển kinh tế – xã hội đúng hướng.
nguon tai.lieu . vn