Xem mẫu

Tài liệu được tải về tại http://quanhang.tk – email vithienquan@yahoo.com.vn ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP Khi còn nhỏ công việc chính của Bạn là đi học. Khi lớn lên ai cũng mong muốn phấn đấu vào đại học. Tại sao vậy? Vì muốn sau này dễ kiếm việc làm. Chung quy lại mục đích để kiếm tiền. Có 3 cách kiếm tiền: * Cách 1: Làm công (Dùng sức kiếm tiền) Với cách này thì sau 30 đến 40 năm công tác, khi về hưu sẽ có một khoản tiền gọi là lương hưu nho nhỏ để sinh sống. * Cách 2: Làm chủ (Dùng tiền đẻ ra tiền) - Làm chủ lớn: là làm chủ của các tập đoàn lớn, các công ty Đa Quốc Gia. - Làm chủ nhỏ: Là làm chủ của các công ty nhỏ, các cơ sở sản xuất, tiệm tạp hóa, quán ăn, nhà hàng, khách sạn.. - Làm Nhà Phân Phối của một công ty Kinh Doanh Theo mạng. Tại sao 3 hình thức này đều được gọi là làm chủ là vì có đặc điểm chung sau đây. + Có tính đầu tư: Đầu tư công sức, đầu tư tiền bạc, đầu tư vật chất. + Tự chịu trách nhiệm về công việc mình làm. + Và có quyền thừa kế Với cách thức đi làm công ăn lương thì Bạn không bao giờ giàu có được. Vậy muốn thật sự giàu có và tự do tài chánh thì chỉ có con đường duy nhất là làm chủ nhưng làm chủ lớn thì khả năng Bạn không nên nghĩ đến vội. Vậy chỉ còn làm chủ nhỏ và làm Nhà Phân Phối. Nếu làm chủ nhỏ của bất kỳ ngành nghề nào Bạn cũng cần cò vốn, kiến thức, kinh nghiệm ngoài ra thời gian luôn bị gò bó, cạnh tranh khắc nghiệt và rủi ro có thể đến bất cứ lúc nào. Thế nhưng làm Nhà Phân Phối của một công ty kinh doanh theo mạng nào đó, Bạn sẽ loại trừ đước tất cả những khó khăn trên và đây cũng là con đường ngắn nhất để giúp Bạn thành công. LỊCH SỬ NGÀNH KINH DOANH THEO MẠNG Kinh doanh theo mạng (Multi-level marketing) hay còn gọi là kinh doanh đa cấp, tiếp thị đa tầng, tiếp thị hệ thống. Trước khi bắt tay tham gia vào một công việc kinh doanh nào thì điều quan tâm đầu tiên là ngành kinh doanh đó có ổn định và lâu dài không? Trước khi lựa chọn sự nghiệp của mình là kinh doanh mạng thì bạn cũng cần hiểu rõ về lịch sử hình thành và phát triển của ngành kinh doanh mạng như thế nào. Tài liệu được tải về tại http://quanhang.tk – email vithienquan@yahoo.com.vn • LỊCH SỬ NGÀNH KINH DOANH THEO MẠNG. Lịch sử của ngành KDTM gắn liền với tên tuổi của nhà hóa học người Mỹ có tên là Carl Renborg (1887-1973). Ông là người đầu tiên đã đưa tư tưởng của KDTM vào trong cuộc sống, tạo ra một hệ thống kinh tế, một ngành kinh doanh được gọi là có triển vọng nhất của thế kỷ 21. Ông Renborg có một thời gian 20 năm sống tại Trung Quốc và làm việc tại nhiều công ty khác nhau (dầu hỏa, đóng tàu.). Giữa thập niên 1920-1930 ông và một số người nước ngoài khác bị bắt vào tù khi chính quyền thuộc về tay lực lượng cách mạng Tưởng Giới Thạch. Trong điều kiện sống trong tù rất thiếu thốn, ông đã thực nghiệm nhiều kiểu ăn khác nhau và đã nhận thấy giá trị thực tiễn rất lớn của dinh dưỡng cần thiết đối với sức khỏe con người. Nhưng lấy các chất dinh dưỡng gồm các vitamin và các khoáng chất đó ở đâu ra? Ví dụ như sắt? Ông Renborg đã tìm ra lối thoát duy nhất: đó là ông cạo từng ít chất sắt từ những chiếc đinh rỉ để cho vào khẩu phần ăn dành cho người tù và thỏa thuận với cai tù để xin một ít các loại rau cỏ khác nhau. Vì vậy ông và một số ít người làm theo phương pháp của ông còn sức đề kháng và sống sót được đến ngày trở về tổ quốc, đa số những người khác đều bị chết. Năm 1927 Ông Renborg về lại Mỹ và bắt đầu chế biến các chất bổ sung dinh dưỡng khác nhau dựa trên cỏ linh lăng là một loại cỏ có chứa rất nhiều vitamin, khoáng chất, đạm và nhiều thành phần có ích khác. Ông đề nghị những người quen của ông thử nghiệm miễn phí sản phẩm nhưng ông đã thất bại: Không ai dám dùng thử vì chẳng có ai muốn mình làm vật thí nghiệm. Sau nhiều cố gắng liên tục mà không đem lại được kết quả, ông hiểu ra rằng chẳng ai chịu đánh giá tốt những thứ cho không, vì vậy ông đã nghĩ ra một tư tưởng vĩ đại và ngày nay đã trở thành một xu thế kinh doanh tất yếu của thời đại: Ông Renborg đề nghị các bạn của ông tự truyền bá thông tin về chất bổ sung dinh dưỡng này cho người quen của họ, còn nếu người quen của họ mua sản phẩm thì ông hứa sẽ trả hoa hồng cho họ. Ông cũng quyết định trả hoa hồng cho các người quen của bạn mình nếu truyền bá sản phẩm tiếp theo quan hệ của họ. Kết quả thật bất ngờ: thông tin về các chất bổ sung dinh dưỡng có lợi bắt đầu được truyền bá rộng rãi (vì mỗi người bạn của ông lại có nhiều người bạn khác và bạn của bạn của bạn là vô hạn). Doanh thu bán hàng của công ty tăng vượt quá sức tưởng tượng, mọi người đềnghịgặp ông để tham khảo về thông tin sản phẩm mới này. Từ đó ngành KDTM bắt đầu ra đời. Năm 1934 ông Karl Renborg sáng lập ra công ty "Vitamins California" và nhờ hệ thống bán hàng kiểu mới này, khi người tiêu dùng cũng trở thành người truyền bá sản phẩm (Distributor-Nhà phân phối độc lập), công ty của ông đã nhanh chóng đạt doanh số 7 triệu USD mà không hề mất một đồng quảng cáo nào. Sự độc đáo ở chỗ nhờ tiết kiệm được quảng cáo và các khâu trung gian (đại lý bán buôn, bán lẻ, kho bãi.) nên những người tham gia vào hệ thống của ông có thể nhận được thù lao rất cao. Cuối năm 1939 đầu 1940 ông Renborg đổi tên công ty mình thành công ty "Nutrilite Products" theo tên sản phẩm và vẫn giữ nguyên phương pháp tiêu thụ. Những công tác viên của ông tự tìm người mới, chỉ cho người mới đầy đủ thông tin về sản phẩm và dạy cho người mới phương pháp xây dựng mạng lưới bắt đầu từ những người quen của mình. Công ty đảm bảo cho tất cảnhà phân phối độc lập có đủ sản phẩm và nhận hoa hồng không chỉ lượng sản phẩm họ bán ra mà còn trả hoa hồng cho lương sản phẩm được bán ra của những người do họ trực tiếp tìm ra. Những người tham gia mạng lưới của công ty nhận được sự giúp đỡ hướng dẫn tận tình của người bảo trợ. Phương pháp tiêu thụ của ông Renborg chính là khởi điểm của kinh doanh theo Tài liệu được tải về tại http://quanhang.tk – email vithienquan@yahoo.com.vn mạng (Muti-level Maketing), ở đây ông chỉ mới áp dụng một tầng, và trong nhiều tài liệu thì năm 1940 được xem như là năm khởi đầu của KDTM và ông Renborg là ông tổ của ngành này. Lịch sử tiếp theo của KDTM gắn liền với tên tuổi của hai cộng tác viên của "Nutrilite Products" là Rich De Vos và Jey Van Andel. Sau một thời gian làm việc có hiệu quả với công ty "Nutrilite Products" hai ông đã nhận thấy sức mạnh rất lớn của Muti-level Maketing và đã sáng lập ra công ty riêng của mình là "American Way Corporation", viết tắt là Amway và hiện nay Amway đã trở thành một công ty hàng đầu thế giới về KDTM với chi nhánh trên 125 nước trên toàn thế giới. Cuối thập niên 60, nhờ nỗ lực của ông Glen Terner-một người đã hướng dẫn nhiều những kỹ năng làm việc mới vào kinh doanh mạng, KDTM đã mang bản chất mới. Ông nhận thấy rõ vai trò của thành đạt cá nhân trong cuộc sống con người. Ông chỉ cho mọi người thấy những chân trời mới trong cuộc sống và khẳng định rằng mỗi người đều có tiềm năng lớn lao để đạt được mọi mục đích. Ông thành lập công ty và dạy cho mọi người kỹ năng thành đạt, giúp cho mọi người khai thác khả năng tiềm ẩn rất lớn trong mỗi con người. Rất nhiều người nhờ áp dụng chương trình huấn luyện của ông đã tìm thấy và đánh thức được những bản chất tốt đẹp nhất và đạt nhiều thành quả lớn. Chương trình huấn luyện của ông vẫn còn được áp dụng cho đến ngày nay. Vào những năm đầu của thập niên 70, KDTM bắt đầu bị sự phản đối mãnh liệt. Năm 1975 trong hội đồng liên bang Hoa Kỳ có những nhân vật phản đối KDTM và đồng nghĩa KDTM với hình tháp ảo là hình thức lừa đảo đang bị cấm ở Hoa Kỳ. Đây là đòn đánh đầu tiên của chính phủ vào KDTM. Bắt đầu cuộc chiến dũng cảm của các công ty KDTM để khẳng định chân lý, tính đúng đắn của mình. Công ty Amway đứng mũi chịu sào, suốt bốn năm liền hầu tòa từ năm 1975-1979. Cuối năm 1979 toà án thương mại liên bang hoa kỳ công nhận phương pháp kinh doanh của Amway không phải là hình tháp ảo và được chấp nhận về mặt luật pháp. Từ đó Bộ luật đầu tiên về KDTM đã ra đời tại Mỹ. Ông Richard Poe, phóng viên của báo Success - một tờ báo rất nổi tiếng tại Mỹ- Trong cuốn: "Làn sóng thứ ba-Kỷ nguyên của KDTM" đã chia KDTM ra làm ba thời kỳ. Làn sóng thứ nhất (Thời kỳ thứ nhất) là thời kỳ bắt đầu hình thành của ngành KDTM: từ 1940 cho đến năm 1979 chỉ có khoảng 30 công ty KDTM ra đời tại Mỹ. Làn sóng thứ II (Thời kỳ thư hai): từ 1979 - 1990 là thời kỳ bùng nổ của KDTM. Mỗi đêm ngủ dậy chúng ta có thể thấy hàng trăm công ty KDTM bố cáo thành lập với đủ loại sản phẩm và sơ đồ kinh doanh. Đây là thời kỳ phát triển và chọn lọc tự nhiên. Làn sóng thứ III (Thời kỳ thứ ba): từ 1990 trở đi, nhờ tiến bộ của công nghệ thông tin truyền thông, KDTM đã mang màu sắc mới. Các nhà phân phối độc lập có thể đơn giản hóa công việc của mình nhờ vào điện thoại, điện đàm, hội thảo vô tuyến, internet và nhiều phương tiện khác. Nếu như ở làn sóng thứ II, những nhà phân phối độc lập giỏi phải là nhà hùng biện và họ phải đi lại như con thoi đến các mạng lưới thì ở làn sóng thứ III, bất cứ ai cũng có thể sử dụng thời giờ nhàn rỗi của mình để tham gia KDTM. Hàng ngàn công ty đã áp dụng KDTM để truyền bá sản phẩm của mình. Các công ty áp dụng phương pháp bán hàng truyền thống như Ford, Colgate, Canon, Coca-cola và nhiều công ty nổi tiếng khác đã bắt đầu áp dụng phương pháp KDTM để phân phối những mặt hàng độc đáo của mình. Một số thống kê vào 1998 (Tổng hợp từ các tạp chí kinh tế thế giới ): • Trên thế giới có hơn 30.000 công ty KDTM, trong đó có 5.000 công ty lớn. Doanh số toàn ngành KDTM đạt hơn 400 tỷ USD. • Tốc độ tăng hàng năm từ 20% - 30% • Mỹ: hiện Có 2.000 công ty hoạt động và cứ 10 gia đình có 1 người làm KDTM chiếm khoảng 15% dân số, có 500.000 người trở thành triệu phú nhờ KDTM. • NHẬT: 90% hàng hoá & Dvụ theo KDTM, có 2,5 triệu Nhà Phân Phối đạt Doanh thu 30 tỷ Tài liệu được tải về tại http://quanhang.tk – email vithienquan@yahoo.com.vn USD. • ĐÀI LOAN: Cứ 12 người có 1 người làm KDTM. • MALAISIA: Có hơn 1 triệu NPP đạt Doanh thu 1tỷ USD. • ÚC: Doanh thu từ KDTM đạt 1,5 tỷ USD. • ĐỨC, PHÁP, Ý: mỗi nước đạt trên 2 tỷ USD. • ANH: Doanh thu đạt trên 1 tỷ USD. • NGA: Có trên 100 Cty KDTM với hơn 2 triệu NPP. • VIỆT NAM: Tại thời điểm hiện nay có khoảng 20 Cty KDTM và trên 100.000 NPP • Mỗi ngày trên thế giới có 60.000 người tham gia KDTM. Cũng theo thống kê thì cứ 100 người đang là triệu phú trên thế giới thì có đến 40 người xuất phát theo ngành KDTM và trong thế kỷ 21 này thì 70% hàng hóa và dịch vụ sẽ phát triển theo phương thức kinh doanh này. Tại sao hệ thống mạng lưới tiêu thụ có thể phát triển thành công ở các nước trên thế giới trên 60 năm qua? Đó chính là nhờ vào việc vận dụng 2 nguyên lý sau: • NGUYÊN LÝ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG MẠNG LƯỚI Nguyên lý thứ nhất gọi là nguyên lý chia sẻ (truyền khẩu): và để quý vị hiểu rõ, chúng tôi xin đưa ra ví dụ sau đây. Vào một ngày đẹp trời nào đó, vô tình bạn ghé vào một cửa tiệm bán quần áo, tiệm được trang trí gọn gàng, nhân viên bán hàng xinh đẹp và đặc biệt rất niềm nở chu đáo. Sau khi giúp bạn thử quần áo đến 50 lần mà vẫn tươi cười vui vẻ. Cuối cùng bạn cũng lựa chọn được bộ quần áo vừa ý, chất liệu vải rất tốt, màu sắc rất đẹp, thế nhưng thật ngạc nhiên vì giá cả cũng rất rẻ. Bạn cảm thấy rất hài lòng với bộ quần áo mới mua đó. Rồi khi về nhà bạn nói chuyện lại cho bạn bè, đồng nghiệp và những người thân trong gia đình, và như vậy là bạn đã vô tình quảng cáo cho cửa hàng đó. Đến một ngày nào đó, bạn bè, đồng nghiệp và người thân của bạn cũng có nhu cầu và họ tìm đến cửa hàng này. Kết quả là họ cũng rất hài lòng và rồi lại giới thiệu đến những người khác. Đó chính là tâm lý chung của mỗi con người chúng ta. Khi chúng ta dùng một sản phẩm hay một dịch vụ nào tốt mà chúng ta cảm thấy hài lòng, chúng ta thường có thói quen kể lại, chia sẻ lại, truyền miệng lại cho những người bạn, đồng nghiệp và gia đình chúng ta. Đó được gọi là nguyên lý chia sẻ. Nguyên lý thứ hai gọi là nguyên lý phát triển theo cấp số nhân (Bội tăng): Tăng theo cấp số nhân là như thế nào, có một câu chuyện kể như thế này: Ngày xưa ở nước Ấn Độ có một ông vua rất thích chơi cờ. Một hôm có một người nông dân phát minh ra một cách chơi cờ mới mà ngày nay được gọi là cờ vua, ông ta liền mang đến dâng cho Quốc Vương. Quốc Vương rất hài lòng và nói rằng: "Nhà ngươi muốn ta ban thưởng gì". Người nông dân đáp rằng: "Thần không ước muốn gì cao xa, chỉ xin Quốc Vương đặt lên ô bàn cờ thứ nhất 1 hạt gạo, ô thứ hai 2 hạt gạo, ô thứ ba 4 hạt và cứ thế, mỗi ô sau số hạt gạo được đặt gấp đôi ô trước. Khi đặt đầy 64 ô cờ là hạ thần mãn nguyện vô cùng". Vừa nghe xong Quốc Vương liền cười lên và gật đầu đồng ý. Thế nhưng rồi khi đem ra thực thi thì Quốc Vương nọ đã phải vét kho đến hạt gạo cuối cùng rồi mà vẫn không trả đủ cho người nông dân ấy. Qua câu chuyện trên chúng ta thấy được uy lực mạnh mẽ của cấp số nhân. Nó đã tập trung được sức mạnh của nhiều người trong khoảng thời gian ngắn nhất để tạo nên một hiệu quả nhanh nhất. Tài liệu được tải về tại http://quanhang.tk – email vithienquan@yahoo.com.vn Đối với công việc phát triển mạng lưới cũng vậy, thời điểm ban đầu rất chậm vì bạn phải tuyển chọn từng người một cho đến khi có được người thật sự thích thú với công việc giống như bạn. Khi bạn tìm được 2 người tích cực thì từ 2 người này sẽ phát triển thành 4 người, và 4 người thành 8 người. Công việc thật chậm chạp và chán nản. Thế nhưng khi bạn đã có 500 người trong mạng lưới thì từ 500 thành 1000 và từ 1000 thành 2000 rất là nhanh. SO SÁNH KINH DOANH TRUYỀN THỐNG (KDTT) VÀ KINH DOANH THEO MẠNG ĐỐI VỚI HÀNG HÓA LƯU THÔNG QUA HỆ THỐNG KDTT Tc: Quảng Cáo + Các Khâu Trung Gian Chiếm 70% - 80% Giá Thành Sản Phẩm ĐỐI VỚI HÀNG HÓA NHẬP KHẨU Tc: Quảng Cáo + Các Khâu Trung Gian Chiếm 70% - 80% Giá Thành Sản Phẩm ĐỐI VỚI HÀNG HÓA LƯU THÔNG QUA HỆ THỐNG KDTM hình thức kinh doanh truyền thống thì bất kỳ sản phẩm nào nó cũng được xuất xưởng từ một nhà máy. Ví dụ đối với những sản phẩm nhập khẩu thì nó sẽ được nhập về bởi một công ty nhập khẩu, từ đó được phân phối đến các đại lý khu vực - Đại lý bán sỉ - rồi đến các cửa hàng bán lẻ. Chúng ta là người tiêu dùng đơn thuần, chúng ta sẽ mua hàng trực tiếp tại các cửa hàng bán lẻ. Để kiếm được lợi nhuận thì các nhà kinh doanh thường tăng giá ở các khâu trung gian. Thông thường các khâu này chiếm từ 30% - 40% giá bán ra của một sản phẩm. Bên cạnh đó người tiêu dùng còn phải gánh chịu một khoản chi phí khác nữa, đó là chi phí dành cho quảng cáo, tiếp thị, tuyên truyền và khuyến mãi. Khoản chi phí này cũng rất đáng kể, thường chiếm khoảng 40% giá bán ra của một sản phẩm. Ví dụ như chi phí quảng cáo trên Tivi vào giờ cao điểm với khoảng thời gian 30 giây là 21 triệu đồng. Mà theo các nhà tâm lý thì một mẫu quảng cáo muốn tạo được ấn tượng nơi người xem thì thường xuyên phải được quảng cáo từ 4 - 10 lần trong 1 ngày và kéo dài liên tục trong nhiều tháng. Như vậy chi phí cho quảng cáo rất lớn cộng với việc tăng giá ở mỗi khâu trung gian đã đẩy giá thành tăng lên từ 70-80%, trong khi giá thành sản xuất ra một sản phẩm tại nhà máy thường chỉ ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn