Xem mẫu
- Điện ảnh Trung Quốc
Quá trình hình thành và phát triển
Điện ảnh Trung Quốc tính cho đến trước năm 1949 là nền văn hóa và
công nghiệp điện ảnh nói tiếng Hoa của Trung Quốc đại lục, Hồng Kông và Đài
Loan. Kể từ năm 1949, điện ảnh Trung Quốc được hiểu là nền điện ảnh của Đại
lục do Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm quyền, nó tồn tại song song cùng hai nền
điện ảnh nói tiếng Hoa khác là điện ảnh Hồng Kông và điện ảnh Đài Loan. Sau
một thời gian dài phát triển chậm chạp vì những biến cố chính trị, hiện nay cũng
giống như nền kinh tế Trung Quốc, điện ảnh Trung Quốc cũng đang bùng nổ
mạnh mẽ và trở thành một cường quốc điện ảnh thực sự ở khu vực châu Á.
Khác với điện ảnh Hồng Kông vốn sử dụng tiếng Quảng Đông là bản ngữ
chính, các bộ phim của Trung Quốc và Đài Loan đều là những bộ phim sử dụng
tiếng Quan Thoại.
Mục lục
1. 1896-1945: Giai đoạn khởi đầu
2. Cuối thập niên 1940: Giai đoan hoàng kim thứ hai
3. Thập niên 1950 và 1960: Sự hình thành của điện ảnh Xã hội chủ nghĩa
4. Thập niên 1960 đến 1980: Cách mạng văn hóa và giai đoạn kế tiếp
5. Thập niên 1980 và 1990: Sự nổi lên của các đạo diễn Thế hệ thứ 5
6. Thập niên 1990 đến nay: Thế hệ thứ 6 và nền công nghiệp điện ảnh
- 1896-1945: Giai đoạn khởi đầu
Định Quân Sơn, bộ "phim" đầu tiên của điện ảnh tiếng Hoa
Kỹ thuật điện ảnh đến với Trung Quốc khá sớm, những thước phim đầu
tiên được quay ở Trung Quốc là tại Thượng Hải ngày 11 tháng 8 năm 1896. Bộ
"phim" đầu tiên, Định Quân Sơn (定军山), một vở kinh kịch quay lại bằng kỹ
thuật điện ảnh, được thực hiện tháng 11 năm 1905. Trong giai đoạn đầu này, phần
lớn các công ty làm phim nằm trong tay những người phương Tây, mãi đến năm
- 1916 nền điện ảnh nội địa của Trung Quốc mới thực sự hình thành với các hãng
phim tập trung ở Thượng Hải, trung tâm công nghiệp và là thành phố lớn nhất của
vùng Viễn Đông châu Á.
Trong số các hãng phim mới ra đời này đáng chú ý có Công ty điện ảnh
Minh Tinh (明星) và Tianyi Film Company, tiền thân của hãng phim Thiệu Thị
(邵氏) nổi tiếng sau này. Minh Tinh chính là hãng phim đã sản xuất Lao công chi
ái tình (劳工之爱情, 1922), bộ phim điện ảnh cổ nhất của điện ảnh tiếng Hoa còn
lưu giữ đến ngày nay.
Phải chờ đến thập niên 1930 nền điện ảnh nói tiếng Hoa mới thực sự khởi
sắc với trào lưu nghệ thuật cấp tiến của những người cánh tả, tiêu biểu là các bộ
phim Xuân tằm (春蠶, 1933, dựa theo tiểu thuyết của Mao Thuẫn), Đại lộ (大路,
1935, một tác phẩm của đạo diễn Tôn Du) hay Thần nữ (神女, 1934, do Ngô Vĩnh
Cương đạo diễn). Các bộ phim theo trào lưu cấp tiến này đã mang lại màu sắc mới
cho điện ảnh Trung Quốc khi khắc họa rõ nét sự xung đột tầng lớp trong giai đoạn
chuyển đổi chính trị từ phong kiến sang cộng hòa, đồng thời đề cập trực tiếp đến
cuộc sống đời thường, như một gia đình nuôi tằm trong Xuân tằm hay nghề mại
dâm trong Thần nữ.
Với những thành công của các bộ phim mang đề tài xã hội này, thập niên
1930 có thể coi là giai đoạn hoàng kim đầu tiên của điện ảnh tiếng Hoa. Đây cũng
là giai đoạn chứng kiến sự ra đời lớp diễn viên điện ảnh nói tiếng Hoa nổi tiếng
đầu tiên với các ngôi sao điện ảnh như Nguyễn Linh Ngọc, Chu Tuyền hay Triệu
Đan.
Năm 1937, Chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ, trung tâm điện ảnh Thượng
Hải rơi vào tay quân đội Nhật và giai đoạn hoàng kim đầu tiên của điện ảnh tiếng
Hoa chấm dứt. Hầu như tất cả các hãng phim lớn (trừ hãng Tân Hoa) đóng cửa cơ
- sở tại Thượng Hải và rất nhiều nhà làm phim phải chạy khỏi thành phố này để đến
lánh nạn ở Hồng Kông hoặc Trùng Khánh.
Tuy vậy một số nhà điện ảnh vẫn ở lại các khu tô giới của người nước
ngoài ở Thượng Hải để tiếp tục thực hiện các tác phẩm mới. Đáng chú ý đạo diễn
Bốc Vạn Thương đã cho ra đời bộ phim Mộc Lan tòng quân (木兰从军, 1939) lấy
từ điển tích Mộc Lan tòng quân chống ngoại xâm để kêu gọi lòng yêu nước ngay
giữa Thượng Hải bị chiếm đóng.
Ngày 7 tháng 12 năm 1941, sau khi Thế chiến thứ hai chính thức bùng nổ
giữa phe Trục và phe Đồng minh, các khu tô giới bị quân Nhật tịch thu nốt và việc
làm phim của các nhà điện ảnh cấp tiến ở Thượng Hải phải ngừng lại. Điện ảnh ở
Đại lục thời gian này gần như chỉ có hãng Mãn Châu Quốc (株式會社滿洲映畫協
會) là hoạt động với những bộ phim gây nhiều tranh cãi vì chịu ảnh hưởng của
chính quyền Nhật hoàng.
Cuối thập niên 1940: Giai đoan hoàng kim thứ hai
Sau khi quân Nhật đầu hàng năm 1945, ngành công nghiệp điện ảnh Trung
Quốc, đặc biệt là ở Thượng Hải nhanh chóng phục hồi. Nhiều hãng phim mới
được thành lập, còn Tân Hoa, hãng phim đã ở lại Thượng Hải trong giai đoạn
chiếm đóng, trở thành công ty có quyền lực bậc nhất của cả nền điện ảnh tiếng
Hoa. Năm 1946, đạo diễn nổi tiếng Thái Sở Sinh trở về từ Hồng Kông đã tái lập
hãng phim Liên Hoa, sau đổi tên thành Côn Luân, một trong các hãng phim quan
trọng nhất của điện ảnh Trung Quốc với nhiều bộ phim đáng nhớ như Nhất giang
xuân thủy hướng đông lưu (一江春水向東流, 1947) hay Ô nha dữ ma tước (烏鴉
与麻雀, 1949).
- Những bộ phim này đều tiếp tục với xu hướng thiên tả và thể hiện sự không
đồng tình với chính sách đàn áp của Quốc Dân Đảng Trung Quốc do Tưởng Giới
Thạch đứng đầu.
Cùng lúc này, một số hãng phim khác như hãng Văn Hóa lại tách khỏi trào
lưu cấp tiến để phát triển các bộ phim chính kịch riêng. Tác phẩm đáng nhớ nhất
theo hướng đi này có lẽ là Tiểu thành chi xuân (小城之春, 1948), bộ phim sau này
đứng đầu trong danh sách Phim tiếng Hoa hay nhất nhân kỉ niệm 100 năm ngày ra
đời điện ảnh Trung Quốc.
Thập niên 1950 và 1960: Sự hình thành của điện ảnh Xã hội chủ nghĩa
Sau chiến thắng của quân đội Cộng sản trước quân Quốc Dân Đảng năm
1949, điện ảnh tiếng Hoa chứng kiến bước ngoặt quan trọng khi nó bị tách thành 3
nền điện ảnh gần như riêng biệt, điện ảnh xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc đại lục,
điện ảnh Đài Loan và điện ảnh Hồng Kông. Từ năm 1951, toàn bộ các bộ phim
sản xuất trước 1949, các phim Hồng Kông và phim Hollywood bị cấm tại đại lục,
thay vào đó là các bộ phim tuyên truyền hoặc có đề tài tập trung vào 3 giai cấp
nông dân, công nhân và quân đội. Công ty phim đầu tiên của nhà nước Trung
Quốc mới, hãng Trường Xuân (长春) được thành lập năm 1950.
Điểm đáng chú ý trong giai đoạn này là sự gia tăng đáng kể của số lượng
người dân đến với điện ảnh, lượng khán giả từ 47 triệu người năm 1949 tăng đến
415 triệu người năm 1959. Trong vòng 17 năm kể từ ngày thành lập nhà nước mới
đến khi Cách mạng văn hóa bùng nổ, đã có tổng cộng 603 bộ phim và 8342 cuộn
phim tài liệu và thời sự được thực hiện, trong đó đa phần là các phim tuyên truyền.
Nếu như trước năm 1949, phần lớn các nhà điện ảnh Trung Quốc học hỏi kinh
nghiệm và kĩ thuật từ điện ảnh Mỹ thì sau khi thành lập nhà nước Xã hội chủ
- nghĩa, các nhà điện ảnh Trung Quốc mới được gửi sang Moskva để đào tạo với sự
giúp đỡ của điện ảnh Liên Xô.
Năm 1956, Học viện Điện ảnh Bắc Kinh được thành lập. Điện ảnh Trung
Quốc cũng bắt đầu tìm được bản sắc riêng với các bộ phim về đề tài lịch sử hoặc
dựa theo các tiểu thuyết, điển tích cũ, tiêu biểu là bộ phim hoạt hình nổi tiếng Đại
náo thiên cung (大鬧天宮, 1961). Bộ phim cực ăn khách này được thực hiện bởi
Vạn Lại Minh, cha đẻ của nền phim hoạt hình Trung Quốc. Một nhân vật tiêu biểu
khác của điện ảnh Trung Quốc thời gian này là Tạ Tấn, đạo diễn của bộ phim
Hồng sắc nương tử quân (红色娘子军, 1961).
Thập niên 1960 đến 1980: Cách mạng văn hóa và giai đoạn kế tiếp
Năm 1966, Cách mạng văn hóa bùng nổ đã đưa cả nền văn hóa Trung Quốc,
trong đó có điện ảnh, rơi vào chỗ khủng hoảng nặng nề. Gần như toàn bộ các tác
phẩm điện ảnh bị cấm lưu hành, chỉ có rất ít các bộ phim mới được sản xuất (trong
đó có phiên bản vũ kịch của Hồng sắc nương tử quân năm 1971). Nền điện ảnh
của Trung Quốc đại lục gần như chững lại trong giai đoạn 1967-1972, việc làm
phim chỉ bắt đầu được khởi động trở lại sau khi Bè lũ bốn tên bị xét xử và chỉ thực
sự hoạt động bình thường từ năm 1976.
Trong thập niên 1980, công nghiệp điện ảnh Trung Quốc gặp khó khăn
trước sự cạnh tranh từ các loại hình giải trí khác trong khi những bộ phim có tính
giải trí cao (như phim kinh dị hoặc phim võ thuật) lại rất khó vượt qua được sự
kiểm duyệt của chính quyền. Vì vậy để thu hút công chúng, các nhà điện ảnh
Trung Quốc tập trung khai thác đề tài xã hội mà tiêu biểu là các bi kịch trong giai
đoạn Cách mạng văn hóa trước đó cũng như di chứng của cuộc biến động này. Bộ
phim đáng chú ý nhất theo thể loại này là bộ phim của đạo diễn Tạ Tấn, Phù Dung
- trấn (芙蓉镇, 1986), bộ phim đã đưa Khương Văn và Lưu Hiểu Khánh trở thành
các ngôi sao điện ảnh mới của Trung Quốc.
Thập niên 1980 và 1990: Sự nổi lên của các đạo diễn Thế hệ thứ 5
Từ nửa cuối thập niên 1980, điện ảnh Trung Quốc bắt đầu thực sự khởi sắc
với các đạo diễn Thế hệ thứ 5, những người mới tốt nghiệp Học viện Điện ảnh Bắc
Kinh thời gian trước đó (phần lớn là năm 1982). Có thể kể tới các đạo diễn Trần
Khải Ca, Trương Nghệ Mưu, Trương Quân Chiêu và Điền Tráng Tráng. Họ là thế
hệ nhà làm phim đầu tiên tốt nghiệp sau Cách mạng văn hóa và đã sớm khẳng định
được mình bằng phong cách làm phim và đề tài mang tính đột phá.
Hai bộ phim mở đầu cho thành công của thế hệ đạo diễn này là Nhất cá hòa
bát cá (一个和八个, 1983, do Trần Đạo Minh thủ vai chính) của Trương Quân
Chiêu và Hoàng thổ (黄土地, 1984, bộ phim xếp thứ 4 trong danh sác phim tiếng
Hoa hay nhất 100 năm qua[7]) của Trần Khải Ca. Nhà quay phim cho cả hai bộ
phim này là Trương Nghệ Mưu, người sau đó cũng có những thành công của riêng
mình với Cao lương đỏ (红高粱, 1987), Cúc Đậu (菊豆, 1989) và Đèn lồng đỏ
treo cao (大红灯笼高高挂, 1991).
Không chỉ thành công trong nước, các đạo diễn này còn giành rất nhiều giải
thưởng lớn tại các liên hoan phim uy tín, Cao lương đỏ của Trương Nghệ Mưu
giành giải Gấu bạc tại Liên hoan phim Berlin, Thu Cúc đi kiện (秋菊打官司,
1992) cũng của Trương Nghệ Mưu giành giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim
Venezia và đặc biệt Bá Vương biệt cơ (霸王別姬, 1993) của Trần Khải Ca đã
giành giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes.
- Cùng với các đạo diễn thế hệ thứ 5, một thế hệ ngôi sao điện ảnh mới của
Trung Quốc cũng thực sự khẳng định được vị trí của mình. Tiêu biểu trong số này
là Củng Lợi, nữ diễn viên đóng vai chính trong hầu hết các bộ phim của Trương
Nghệ Mưu hay Khương Văn, người sau này cũng trở thành một đạo diễn xuất sắc
của điện ảnh Trung Quốc.
Thập niên 1990 đến nay: Thế hệ thứ 6 và nền công nghiệp điện ảnh
Giữa thập niên 1990, thế hệ đạo diễn tiếp theo của Trung Quốc, Thế hệ thứ
6, bắt đầu thể hiện khả năng với các bộ phim mang đề tài hiện thực và cách nhìn
mới mẻ về một xã hội Trung Quốc đang phát triển nhanh chóng. Tác phẩm tiêu
biểu của thế hệ thứ 6 có thể kể tới Xe đạp Bắc Kinh (十七岁的单车, 2001) của
Vương Tiểu Suất, Đông cung Tây cung (東宮西宮, 1996) của Trương Nguyên, Tô
Châu hà (苏州河, 2000) của Lâu Diệp.
Cùng với việc Hồng Kông trở về với Trung Quốc năm 1997 và sự phát
triển kinh tế của Trung Quốc đại lục, ba nền điện ảnh tiếng Hoa bắt đầu có những
tác phẩm hợp tác, đặc biệt là về đề tài phim lịch sử và phim kiếm hiệp vốn là sở
trường của điện ảnh Trung Quốc ngay từ thời kì đầu.
Năm 1999, tác phẩm hợp tác Ngọa hổ tàng long (臥虎藏龍) với đạo diễn
Lý An người Đài Loan, được quay ở Trung Quốc, có dàn diễn viên nổi tiếng đến
từ cả ba khu vực như Châu Nhuận Phát (Hồng Kông), Chương Tử Di (Trung
Quốc) và Trương Chấn (Đài Loan), đã thành công vang dội trên thị trường quốc tế
và giúp điện ảnh ba khu vực này tìm được hướng đi mới, đó là các bộ phim kiếm
hiệp pha trộn lịch sử có tính thương mại cao và tận dụng thế mạnh của mỗi nền
điện ảnh.
- Năm 2002 bộ phim Anh hùng (英雄) của Trương Nghệ Mưu theo hướng đi
mới này đã thành công và đánh dấu sự hình thành của ngành công nghiệp điện ảnh
mới ở Trung Quốc. Lấy bối cảnh lịch sử đời Tần Thủy Hoàng với rất nhiều cảnh
quay đẹp ở Trung Quốc và dàn diễn viên toàn sao như Lý Liên Kiệt, Chương Tử
Di, Trương Mạn Ngọc, Lương Triều Vỹ, Anh hùng đã phá kỉ lục doanh thu ở
Trung Quốc, đồng thời đạt được doanh thu rất cao ở châu Á và thậm chí là thị
trường phim Mỹ.
nguon tai.lieu . vn