- Trang Chủ
- Luận Văn - Báo Cáo
- Đề tài về 'Vận dụng phương pháp dãy số thời gian phân tích biến động giá trị sản xuất công nghiệp của Bình Lục - Hà Nam thời kỳ 2000-2004'
Xem mẫu
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Vận dụng phương pháp dãy số thời gian
ĐỀ TÀI:
phân tích biến động giá trị sản xuất công
nghiệp của Bình Lục - Hà Nam thời kỳ
2000-2004
- §Ò ¸n m«n häc
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các công ty đều có xu hướng cung cấp
sản phẩm của mình qua những người trung gian nhằm mở rộng thị trường và tạo
hiệu quả cao trong việc đảm bảo phân phối hàng rộng lớn và đưa hàng tới các thị
trường mục tiêu. Đồng thời thông qua một hệ thống kênh phân phối phù hợp,
công ty sẽ đạt được lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
Thực tế cho ta thấy, trong giai đoạn cạnh tranh hiện nay, các chiến lược quảng
cáo sáng tạo, khuyến mãi, giảm giá bán chỉ có lợi thế ngắn hạn bởi các doanh
nghiệp khác cũng nhanh chóng làm theo khiến cho các chiến lược này bị mất tác
dụng. Vì vậy, các doanh nghiệp hiện nay đang tập trung phát triển hệ thống kênh
phân phối để có thể đạt được lợi thế trong dài hạn. Hệ thống kênh phân phối
hoàn thiện, một chính sách phân phối đúng đắn sẽ giúp cho doanh nghiệp thành
công trong kinh doanh.
Bia là sản phẩm thuộc loại đồ uống giải khát. Đây là lĩnh vực kinh doanh khá sôi
động hiện nay. Ngày nay người dân Việt Nam đã khá quen với việc tiêu dùng
bia như một loại nước giải khát. Nhất là đối tượng người tiêu dùng là nam giới
với bất cứ nghề nghiệp như thế nào và khu vực cư trú ở đâu. Cùng với sự phát
triển của nền kinh tế nước ta, thị trường bia cũng không ngừng tăng trưởng và
điều đó đồng nghĩa với việc ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào thị
trường các công ty bia của nhà nước, các công ty liên doanh, các công ty bia địa
phương và các xưởng bia tư nhân hợp thành một quần thể cạnh tranh sôi động
trong thị trường để tiêu thụ sản phẩm của mình. Họ cố gắng dành lấy "miếng
bánh" lớn hơn phần của mình đã có trong thị trường đó. Một điều hiển nhiên là ở
đây sẽ xuất hiện những người được và cũng sẽ có người mất phần của mình do
sự yếu kém hơn trong cạnh tranh, trong đó hệ thống kênh phân phối có vai trò
cực kỳ quan trọng trong việc gia tăng lợi thế cạnh tranh đặc biệt là có lợi thế
cạnh tranh lâu dài bởi các đối thủ cạnh tranh không thể nhanh chóng thiết lập
được một hệ thống phân phối có hiệu quả.
Ph¹m Ngäc Líp Marketing 43A 1
- §Ò ¸n m«n häc
Công ty bia Việt Hà là một doanh nghiệp cụ thể hoạt động trong môi trường đó.
Chính vì vậy em nghiên cứu đề tài : “Một số giải pháp về kênh phân phối nhằm
tiêu thụ sản phẩm của công ty bia Việt Hà tại thị trường Hà Nội “.
Nội dung của bài viết bao gồm 3 phần:
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ KÊNH PHÂN PHỐI
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KÊNH PHÂN PHỐI CỦA CÔNG TY BIA VIỆT HÀ
CHƯƠNG III. ĐỀ XUẤT MỘT GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN KÊNH PHÂN PHỐI
CỦA CÔNG TY BIA VIỆT HÀ TẠI THỊ TRƯỜNG HÀ NỘI.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ KÊNH PHÂN PHỐI
I . VẤN ĐỀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM
Ph¹m Ngäc Líp Marketing 43A 2
- §Ò ¸n m«n häc
1. khái niệm
Tiêu thụ sản phẩm là quá trình thực hiện giá trị và gía trị sử dụng sản phẩm , qua
đó sản phẩm hàng hoá đó được từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ và
hoàn thành một vòng chu chuyển vốn sản xuất kinh doanh.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm là tổng thể các biện pháp về tổ chức kinh tế và kế
hoạch nhằm thực hiện việc nghiên cứu và nắm bắt nhu cầu thị trường , tổ chức
sản xuất , tiếp nhận sản phẩm , chuẩn bị hàng hoá và xuất bán theo yêu cầu của
khách hàng với chi phí kinh doanh nhỏ nhất .
2. Thực chất của tiêu thụ sản phẩm
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm là một trong những chức năng kinh tế cơ bản của
mỗi chủ thể kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường gắn liền với sự phát triển
của sản xuất hàng hoá và sự phân công lao động xã hội .
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm không đồng nhất với sự hoạt động kinh doanh mà
mới chỉ là một bộ phận trong các hoạt động cụ thể trong quá trình kinh doanh .
Nội dung kinh tế xơ bản của hoạt động tiêu thụ là việc thực hiện chuyển hoá
quyền sở hữu và quyền sử dụng một loại hàng hoá nào đó của chủ thể .
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm cần ba yếu tố :
Đối tượng thực hiện việc trao đổi sản phẩm hàng hoá và tiền tệ
Phải có các chủ thể kinh tế (có cung , có cầu và trung gian môi giới )
Phải có thị trường (môi trường thực hiện việc trao đổi mua bán )
Trên thị trường ,để quá trình hoạt động tiêu thụ có hiệu quả thì giữa người mua
và người bán phải có quan hệ tương hỗ lẫn nhau , nói cách khác phải có sự găp
gỡ giữa cung và cầu .
Ph¹m Ngäc Líp Marketing 43A 3
- §Ò ¸n m«n häc
3. Các quan điểm về hoạt động tiêu thụ sản phẩm
Quan điểm thứ nhất :
Quan điểm này cho rằng : Hoạt động tiêu thụ sản phẩm là hoạt động trao đổi
hàng hoá thông qua việc mua bán giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường .
Quan điểm thứ hai :
Quan điểm này cho rằng : Hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là một quá
trình trong đó người bán tìm cách khám phá , gợi mở và đáp ứng nhu cầu hay
ước muốn của người mua và đảm bảo quyền lợi thoả đáng lâu dài của người
mua lẫn người bán .
Hoạt động tiêu thụ bao gồm nhiều công việc khác nhau vừa mang tính chủ động
, vừa mang tính thụ động và được coi là quá trình thuyết phục khách hàng .
Quá trình tiêu thụ sản phẩm chỉ được thực hiện và diễn ra khi mà quyền lợi của
khách hàng và chủ bán hàng được giải quyết .
Hoạt động tiêu thụ là mối quan hệ cần được duy trì lâu dài .
4. Vị trí -vai trò và ý nghĩa của hoạt động tiêu thụ sản phẩm
a. vị trí và vai trò của tiêu thụ sản phẩm :
Tiêu thụ sản phẩm có vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh , nó
phản ánh sự thành công nhất định trên thương trường về sự chấp nhận của xã hội
,về sự đáp ứng của doanh nghiệp đối với xã hội .
Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của một vòng chu chuyển vốn kinh
doanh . Đây là khâu quan trọng quyết định đến quá trình sản xuất của doanh
nghiệp .Nếu không tiêu thụ được sản phẩm thì doanh nghiệp không thể thực
hiện được chu kỳ sản xuất tiếp theo .
Tiêu thụ sản phẩm giữ vai trò phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản
xuất kinh doanh .
Tiêu thụ sản phẩm giúp cho doanh nghiệp có điều kiện gần gũi với khách
hàng, hiểu biết và nắm bắt những mong muốn của khách hàng nhằm tăng khả
năng tiêu thụ và mở rộng thị trường .
Ph¹m Ngäc Líp Marketing 43A 4
- §Ò ¸n m«n häc
Tiêu thụ sản phẩm là động lực thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh . tiêu thụ sản phẩm tốt doanh nghiệp sẽ có lợi nhuận, sử dụng hợp lý
lợi nhuận để khuyến khích nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
b. Ý nghĩa :
* Tiêu thụ sản phẩm tạo điều kiện phát hiện những nhu cầu mới góp phần mở
rộng và xâm nhập thị trường : Mọi hoạt động của doanh nghiệp trong cơ chế thị
trường đều phải hướng vào thị trường , mỗi doanh nghiệp đều có thị trường của
mình .Thị trường như một bàn tay vô hình tác động đến nhà sản xuất dựa trên
quan hệ cung cầu, thông quamức cầu trên thị trường các nhà sản xuất kinh
doanh sẽ xác định phần thị trường của mình. Đồng thời quá trình tiêu thụ sản
phẩm giúp doanh nghiệp củng cố và mở rộng thị trường .
* Tiêu thụ sản phẩm tạo điều kiện nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật,
công nghệ mới, nâng cao chất lượng sản phẩm và hình thành nhiều loại sản
phẩm. Doanh nghiệp tổ chức tiêu thụ sản phẩm tốt sẽ có nhiều cơ hội tích luỹ để
đầu tư cho việc nghiên cứu khoa học ứng dụng những thành tựu công nghệ mới
để đáp ứng cho việc chế tạo sản phẩm nhằm gia tăng ngày càng nhiều khối
lượng sản phẩm đồng thớip ngày càng đát chất lượng cao , tăng sức cạnh tranh ,
tạo dựng uy tín cho doanh nghiệp trên thương trường.
II. VẤN ĐỀ VỀ KÊNH PHÂN PHỐI
1. Khái niệm và sự cần thiết của hệ thống kênh phân phối
Hiện tại có nhiều định nghĩa khác nhau về kênh marketing sau đây là một
trong những định nghĩa đó :
“Kênh marketing là một sự tổ chức hệ thống các quan hệ ngoài doanh nghiệp
để quản lý các hoạt động phân phối sản phẩm nhằm đạt các mục tiêu củadn
trên thị trường .
Khi nói bên ngoài nghĩa là kênh phân phối tồn tại bên ngoài doanh
nghiệp. Nói cách khác nó không phải là một phần cấu trúc tổ chức nội bộ doanh
nghiệp. Quản lý kênh phân phối tất nhiên liên quan tới sử dụng khả năng quản lý
giữa các tổ chức hơn là quản lý trong nội bộ một doanh nghiệp.
Ph¹m Ngäc Líp Marketing 43A 5
- §Ò ¸n m«n häc
Khi nói tổ chức quan hệ nghĩa là kênh phân phối gồm các công ty hay tổ
chức, nhứng người tham gia vào việc đưa hàng hoá và dịch vụ từ người sản xuất
đến người tiêu dùng cuối cùng. Họ có chức năng đàm phán, mua và bán hàng,
chuyển quyến sở hữu hàng hoá và dịch vụ. Nhưng thông thường chỉ nhứng công
ty hay nhứng tổ chức nào liên quan đến chức năng này mới là thành viên của
kênh. Số còn lại thực hiện các chức năng khác không phải là thành viên chính
thức của kênh.
Các hoạt động nghĩa là nhấn mạnh đến các hoạt động trong kênh. Hoạt
động có thể bao gồm từ sự phát triển ban đầu đến những quản lý chi tiết hàng
ngày của kênh. Vấn đề quan trọng nhất là người quản lý kênh phải cố gắng tránh
điều khiển không có ý thức các họat động của kênh.
Quản lý kênh phải có các mục tiêu phân phối nhất định. Kênh phân phối
tồn tại nhằm đạt các mục tiêu đó. Cấu trúc và quản lý kênh phân phối là nhằm
đạt các mục tiêu phân phối của công ty. Khi các mục tiêu này thay đổi, các yếu
tố trong tổ chức quan hệ bên ngoài, và cách quản lý các hoạt động cũng sẽ thay
đổi.
Tổng quát lại kênh marketing là một tập hợp các doanh nghiệp và cá nhân độc
lập phụ thuộc lẫn nhau mà qua đó doanh nghiệp sản xuất thực hiện bán sản
phẩm cho người sử dụng hoặc người tiêu dùng cuối cùng . Nói cách khác kênh
marketing là một hệ thống quan hệ của một nhóm các tổ chức và cá nhân tham
gia vào quá trình đưa hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng
. Kênh marketing là một hệ thống các mối quan hệ tồn tại giữa các tổ chức liên
quan trong quá trình mua và bán hàng hoá .Kênh marketing là đối tượng để tổ
chức , quản lý như một công cụ marketing trọng yếu của các doanh nghiệp trên
thị trường đồng thời là đối tượng nghiên cứu để hoạch định chính sách quản lý
kinh tế vĩ mô.
Như vậy, kênh marketing có vai trò rất quan trọng trọng trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Một doanh nghiệp có hệ thống kinh doanh
marketing hợp lý sẽ làm cho quá trình kinh doanh trở nên an toàn, tăng cường
Ph¹m Ngäc Líp Marketing 43A 6
- §Ò ¸n m«n häc
sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp làm cho quá trình lưu thông sản phẩm
diễn ra nhanh chóng và mở rộng thị trường của doanh nghiệp .
2. Cấu trúc kênh phân phối
Các kênh marketing của các doanh nghiệp có cấu trúc như các hệ thống mạng
lưới do chúng bao gồm các doanh nghiệp và các cá nhân độc lập , phụ thuộc lẫn
nhau , nói cách khác các thành viên có liên quan với nhau trong quá trình hoạt
động. Nó là một hệ thống các thành tó liên quan với nhau và phụ thuộc vào nhau
trong quá trình tạo ra kênh phân phốiết quả là sản phẩm dược người tiêu dùng
mua và sử dụng.
Như vậy, cấu trúc kênh phân phốiênh marketing mô tả tập hợp các thành viên
của kênh mà các công việc phân phối được phân chia cho họ được tổ chức như
thế nào ? Mỗi cấu trúc kênh marketing khác nhau có cách phân chia các công
việc phân phối cho các thành viên của kênh khác nhau.
Định nghĩa này nhấn mạnh trong sự phát triển của cấu trúc kênh , người quản lý
kênh đối mặt với quyết định phân công. Đó là một tập hợp các công việc phân
phối yêu cầu phải được thực hiện nhằm đạt các mục tiêu phân phối của một
công ty, mà người quản lý phải quyết định phân công.
Ví dụ : Nếu sau khi quyết định công việc phân phối ,cấu trúc kênh xuất hiện
như: Nhà sản xuất người bán buôn người bán lẻ người tiêu
dụng cuối cùng , Điều này có nghĩa là người quản lý kênh đã chọn phân chia
công việc cho công ty của mình cũng như cho người bán buôn , người bán lẻ và
người tiêu dùng .
Có ba yếu tố cơ bản phản ánh đến cấu trúc kênh:
- Chiều dài của kênh : Được xác định bởi số cấp độ trung gian có mặt trong
kênh . Khi số cấp độ trong kênh tăng lên , kênh được xem như tăng lên về
chiều dài.
- Bề rộng của kênh : Biểu hiện ở số lượng trung gian ở mỗi cấp độ của kênh
- Các loại trung gian ở mỗi cấp độ của kênh.
Sơ đồ cấu trúc kênh không có gì khác hơn là biểu hiện địa điểm của các công
việc phân phối
Ph¹m Ngäc Líp Marketing 43A 7
- §Ò ¸n m«n häc
Sơ đồ:
Nhà sản xuất Nhà sản xuất Nhà sản xuất Nhà sản xuất
Đại lý
Nhà bán buôn Nhà bán buôn
Nhà bán lẻ Nhà bán lẻ Nhà bán lẻ
NTDCC
(người tiêu
dùng cuối NTDCC NTDCC NTDCC
cùng )
Nguồn :giáo trình quản trị kênh Marketing
*Người sản xuất: được coi là người khởi nguồn của các kênh marketing họ cung
cấp cho thị trường những sản phẩm và dịch vụ nhưng họ thiếu cả kinh nghiệm
lẫn quy mô hiệu quả để thực hiện tất cả các công việc phân phối cần thiết cho
sản phẩm của họ bởi vì các kinh nghiệm trong sản xuất đã không tự động
chuyển thành kinh nghiệm trong phân phối . Do vậy, các doanh nghiệp sản xuất
thường chia sẻ những công việc phân phối cho những người trung gian .
Ph¹m Ngäc Líp Marketing 43A 8
- §Ò ¸n m«n häc
Người trung gian bao gồm các doanh nghiệp và các cá nhân kinh doanh thương
mại độc lập trợ giúp người sản xuất , người tiêu dùng cuối cùng thực hiện các
công việc phân phối cùng thực hiện các công việc phân phối sản phẩm và dịch
vụ . Họ được chia thành hai loại bán buôn và bán lẻ :
* Các trung gian bán buôn :
Bao gồm các doanh nghiệp và cá nhân mua hàng hoá để bán lại cho các doanh
nghiệp hoặc tổ chức khác (các nhà bán lẻ , các nhà bán buôn khác , các doanh
nghiệp sản xuất , các tổ chức xã hội và cơ quan nhà nước ) .
* Các trung gian bán lẻ :
Bao gồm các doanh nghiệp và cá nhân bán hàng hoá trực tiếp cho người tiêu
dùng cá nhân hoặc hộ gia đình . Vai trò của người bán lẻ trong kênh marketing là
phát hiện nhu cầu của khách hàng , tìm kiếm và bán những hàng hoá mà các
khách hàng , này mong muốn ,ở thời gian địa điểm và theo cách thức nhất định.
Người tiêu dùng cuối cùng bao gồm cả người tiêu dùng cá nhân và tiêu dùng
công nghiệp là điểm đếm cuối cùng thì quá trình phân phối mới hoàn thành .
Người tiêu dùng cuối cùng có vai trò quan trọng trong kênh marketing vì họ có
quyền lựa chọn những kênh khác nhau để cung cấp .
Một kênh marketing được chia làm hai khu vực chính : khu vực thương mại và
khu vực tiêu dùng . Khu vực thương mại bao gồm một tập hợp các thành viên
của kênh là các doanh nghiệp kinh doanh phải phụ thuộc vào các tổ chức khác để
đạt các mục tiêu của nó .
Một kênh marketing cũng có thể phân chia thành cấu trúc chính thức và cấu trúc
bổ trợ bao gồm các tổ chức khác thực hiện các dịch vụ bổ trợ cho các thành viên
kênh , tạo điều kiện dễ dàng cho hoạt động phân phối như là việc vận tải , lưu
kho ...
Các phân tích trên cho thấy cấu trúc kênh của một doanh nghiệp thường rất phức
tạp , trong đó có thể bao gồm nhiều kênh cụ thể khác nhau .Trong thực tế, các
doanh nghiệp thường sử dụng cấu trúc gồm nhiều cấu trúc kênh marketing song
song để đáp ứng nhu cầu của khách hàng mục tiêu (các hệ thống đa kênh).
3. Vai trò của các kênh marketing đối với doanh nghiệp
Ph¹m Ngäc Líp Marketing 43A 9
- §Ò ¸n m«n häc
Tổ chức và quản lý hệ thống kênh marketing đã và đang trở thành những
quyết địng chiến lược của doanh nghiệp, là một biến số cực kỳ quan trọng và
phức tạp của chiến lược marketing hỗn hợp của doanh nghiệp . Do cần nhiều
thời gian và tiền bạc để xác lập một kênh có hiệu quả và do các kênh rất khó
thay đổi một khi nó đã được xây dựng nên các quyết định về kênh giúp
doanh nghiệp tạo được lợi thế cạnh tranh dài hạn trên thị trường và thành
công trong kinh doanh . Tất nhiên, các quyết định kênh marketing nằm trong
mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau với các quyết định kinh doanh khác của
doanh nghiệp .Quyết định về kênh cũng liên quan đến nhiều biến số có ảnh
hưởng lẫn nhau cần phải được phối hợp trong chiến lược marketing-mix tổng
thể , như các quyết định về sản phẩm ,giá, xúc tiến.
4. Thiết lập hệ thống kênh phân phối
Thiết lập hệ thống kênh phân phối là quá trình kết hợp các quyết định về
địa điểm theo yếu tố địa lý và khách hàng để xác định và xây dựng phương án
kênh phân phối của doanh nghiệp.
Để thiêt kế được hệ thống kênh phân phối cần thực hiện tốt các nội dung cơ
bản sau:
a. Nghiên cứu phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn kênh
phân phối.
+ Giới hạn địa lý của thị trường - đặc điểm và yêu cầu của họ đối với sản
phẩm dịch vụ của doanh nghiệp như quy mô lô hàng, thời gian chờ đợi, sự thuận
tiện của đặc điểm giao dịch và nhận hàng, tính đa dạng sản phẩm, các dịch vụ
khác.
+ Lực lượng bán hàng của doanh nghiệp - thực trạng và tiềm năng phát
triển.
+ Các lực lượng người trung gian trên thị trường - khả năng đáp ứng và
hoà nhập vào hệ thống kênh của doanh nghiệp.
+ Các mục tiêu trọng điểm của doanh nghiệp về mức độ thoả mãn các
nhu cầu khách hàng, lợi nhuận phát triển thị trường.
Ph¹m Ngäc Líp Marketing 43A 10
- §Ò ¸n m«n häc
b. Xác định mục tiêu và tiêu chuẩn của hệ thống kênh phân phối.
Các mục tiêu của hệ thống kênh phân phối được xác định trên cơ sở mục
tiêu chung của doanh nghiệp và cac mục tiêu cụ thể về bán hàng.
Mục tiêu của hệ thống kênh phân phối có thể được xác định theo các
định hướng cơ bản:
+ Mức độ thoả mãn nhu cầu của khách hàng về thời gian địa điểm và các
dịch vụ bên cạnh sản phẩm hiện vật.
+ Doanh số bán tổng quát và cho từng nhóm sản phẩm, bán mối, duy trì
hay mở rộng doanh số.
+ Tăng cường khả năng chiếm lĩnh, kiểm soát thị trường hay phát triển
thị trường.
+Giảm chi phí bán hàng hay điều chỉnh chi phí vận chuyển.
Tuỳ theo đặc điểm sản phẩm, đặc điểm kinh doanh và thị trường, doanh
nghiệp có thể lựa chọn mục tiêu cho thích hợp. Mục tiêu cụ thể có thể định
hướng theo một trong những mục tiêu cơ bản trên đây để làm cơ sở cho việc
thiết kế hệ thống kênh phân phối. Tuy nhiên cần lưu ý đến mâu thuẫn có thể
phát sinh từ việc lựa chọn mục tiêu cho kênh phân phối. Một kênh phân phối có
thể đáp ứng yêu cầu mục tiêu định hướng khác. Bởi vậy, cần có sự cân nhắc kỹ
lưỡng khi lựa chọn mục tiêu.
c. Xác định dạng kênh và phương án kênh phân phối.
Từ các dạng kênh phân phối cơ bản và ưu nhược điểm của từng dạng
kênh đó; từ các kết quả nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến yêu cầu và
khả năng thiết lập kênh phân phối; kết hợp với mục tiêu và tiêu chuẩn kênh
phân phối đã được xác định, doanh nghiệp có thể lựa chọn các dạng kênh
phân phối sẽ sử dụng trong kinh doanh. Doanh nghiệp có thể sử dụng một
dạng kênh phân phối hoặc nhiề dạng kênh phân phối khác nhau cho các sản
phẩm khác nhau. Toàn bộ các kênh phân phối độc lập sẽ được liên kết lại
thành một hệ thống các kênh phân phối cuả doanh nghiệp. Để có thể lựa chọn
chính xác các dạng kênh và thiết lập hệ thống kênh phân phối, tốt nhất nên
Ph¹m Ngäc Líp Marketing 43A 11
- §Ò ¸n m«n häc
xây dựng các phương án khác nhau làm cơ sở để phân biệt và lựa chọn
phương án tối ưu về kênh phân phối.
d. Lựa chọn và phát triển các phần tử trong kênh phân phối.
Các phần tử chủ chốt trong kênh phân phối gồm hai nhóm cơ bản:
+ Lực lượn bán hàng của doanh nghiệp.
+ người mua trung gian.
Tuỳ theo dạng kênh phân phối trực tiếp hay gián tiếp mà phần tử trong
kênh phân phối có trung gian hay không. Nhưng ở đây chúng ta nghiên cứu vấn
đề một cách tổng quát về cả hai nhóm này.
* Lực lượng bán hàng của doanh nghiệp:
Trong bất cứ một dạng kênh nào, lực lượng bán hàng của doanh nghiệp
luôn đóng vai trò rất quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu suất hoạt động
của kênh phân phối.
Lực lượng bán hàng của doanh nghiệp thường được xác định bao gồm:
- Lực lượng bán hàng cơ hữu: Bao gồm tất cả những thành viên trong
doanh nghiệp có trách nhiệm trực tiếp tới hoạt động bán hàng.
Lực lượng này có thể chia thành hai bộ phận: Lực lượng bán hàng tại
văn phòng và lực lượng bán hàng ngoài doanh nghiệp. Mỗi lực lượng thuộc lực
lượng bán cơ hữu có vai trò và trách nhiệm khác nhau trong hệ thống phân phối.
Quy mô của lực lượng bán hàng cơ hữu có thể thay đổi ở từng dạng kênh
và từng phương án phân phối khác nhau. Bởi vậy cần có những quyết định cụ
thể để lựa chọn quy mô thành viên của lực lượng bán hàng cũng như các chiến
lược phát triển lực lượng này.
- Các đại lý bán hàng có hợp đồng: bao gồm các cá nhân hay tổ chức
độc lập không thuộc hệ thống tổ chức cơ hữu của doanh nghiệp nhận bán hàng
cho doanh nghiệp để hưởng hoa hồng các đại lý theo hợp đồng để ký kết giữa
hai bên.
Bộ phận này được xác định thuộc lực lượng bán hàng của doanh nghiệp
bởi họ bán hàng cho doanh nghiệp trong điều kiện họ không mua hàng của
doanh nghiệp - hàng hoá không phải chuyển quyền sở hữu họ không đủ yếu tố
Ph¹m Ngäc Líp Marketing 43A 12
- §Ò ¸n m«n häc
để xác định vào nhóm người mua trung gian - họ là những người làm thuận lợi
cho quá trình phân phối, bán hàng của doanh nghiệp.
Đại lý bán hàng có hợp đồng là một phần tử (thành viên) có vị trí tích
cực trong hệ thống phân phối của doanh nghiệp. Ưu điểm nổi bật của phần tử
này là:
- Giúp doanh nghiệp có khả năng mở rộng bans hàng trực tiếp đến các
khách hàng của mình, phát triển bán hàng đến các khu vực.
- Giúp cho doanh nghiệp giữ vững và tăng cường khả năng kiểm soát hệ
thống phân phối và chiến lược Marketing của mình trên toàn bộ hệ thống phân
phối.
- Tuy nhiên, cần lưu ý một số vấn đề nảy sinh ảnh hưởng đến hiệu quả
thực tế của kênh phân phối.
- Tính không ổn định: Người trung gian có thể sẵn sàng gia nhập kênh
nhưng cũng sẵn sàng rời bỏ kênh nếu không đạt được lợi ích riêng.
- Mục tiêu của nhà đại lý có hợp đồng thường không đồng nhất với mục
tiêu phát triển kênh của doanh nghiệp.
- Động lực bán hàng cho doanh nghiệp có thể không cao.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật và kỹ năng bán hàng có thể hạn chế...
* Người mua trung gian trong kênh phân phối
Người mua trung gian bao gồm tất cả những người mua hàng của doanh
nghiệp để bán lại cho người khác nhằm kiếm lời (kinh doanh thương mại).
Có các dạng mua trung gian khác nhau mà doanh nghiệp có thể sử dụng
trong hệ thống kênh phân phối của mình:
- Các nhà buôn
- Các nhà đại lý
- Các nhà bán lẻ.
Khi xây dựng kênh phân phối doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu
để đưa ra quyết định về vấn đề:
- Sử dụng dạng người mua trung gian như thế nào?
Ph¹m Ngäc Líp Marketing 43A 13
- §Ò ¸n m«n häc
- Lựa chọn người mua trung gian nào trong các dạng người mua trung
gian trên các phân đoạn thị trường cụ thể để đưa vào kênh phân phối của mình.
* Xác định dạng người mua trung gian
Xác định dạng người mua trung gian trong hệ thống kênh phân phối, liên
quan đến hệ thống kênh phân phối đã được lựa chọn của doanh nghiệp. ở các
dạng kênh khác nhau, dạng người mua trung gian trong kênh phân phối sẽ khác
nhau. Vấn đề đặt ra ở đây là vấn đề cần cụ thể hoá một cách chi tiết vị trí, nhiệm
vụ của từng dạng người mua trung gian trong hệ thống phân phối. Các doanh
nghiệp khác nhau và đối với các dòng sản phẩm khác nhau, trên khu vực thị
trường khác nhau, vai trò quan trọng thứ yếu của từng dạng người mua trung
gian có thể xác định khác nhau nhằm đảm bảo hiệu suất hoạt động của kênh.
Tương ứng với vai trò và nhiệm vụ của từng dạng người mua trung gian
trong kênh phân phối, doanh gnhiệp có thể đưa ra các chính sách khuyến khích,
động viên và kiểm soát hoạt động của họ một cách thích ứng nhằm đạt được
mục đích xây dựng kênh và mục tiêu bán hàng của doanh nghiệp.
* Lựa chọn người trung gian cho kênh phân phối
Mỗi dạng gười mua trung gian bao gồm rất nhiều nhà kinh doanh (tổ
chức) độc lập. Đặc điểm của mỗi tổ chức trung gian độc lập thường là khác
nhauvề quy mô tiềm lực, uy tín trên thương trường, kinh nghiệm tổ chức quản
lý...
Đặc điểm cụ thể của mỗi tổ chức trung gian có thể ảnh hưởng đến những
khả năng thực hiện khác nhau vai trò đã được xác định của họ trong kênh phân
phối của doanh nghiệp. Bởi vậy cần tiến hành lựa chọn một cách chính xác “ai”
trong số các người mua trung gian trên thị trường để định hướng đưa vào làm
thành viên trong kênh phân phối của doanh nghiệp.
Để thực hiện nhiệm vụ này, doanh nghiệp có thể phân tích và lựa chọn
từ các người mua trung gian hiện có trên thị trương chưa hoặc tham gia vào
kenh phân phối của doanh nghiệp từ trước, đang tham gia vào các hệ thống kênh
Ph¹m Ngäc Líp Marketing 43A 14
- §Ò ¸n m«n häc
phân phối của những doanh nghiệp khác (kể cả đối thủ cạnh tranh) hoặc có thể
là những người hoàn toàn mới trong lĩnh vực lưu thông.
e. Điều chỉnh hệ thống kênh phân phối
Hệ thống kênh phân phối không phải là bất biến. Các doanh nghiệp
thường sử dụng hệ thống kênh phân phối với các thành viên trong kênh như là
một truyền thống và ít quan tâm tới khả năng điều chỉnh kênh để đạt được hiệu
quả cao hơn. Điều này có thể phản ánh đến khả năng phát triển bán hàng và hiệu
quả mong đợi của doanh nghiệp. Sau khi đã đưa các kênh phân phối vào hoạt
động cần đảm bảo khả năng kiểm soát hoạt đọng của kênh và thường xuyên
phân tích hiệu quả của từng kênh bán hàng cũng như toàn bộ hệ thống. Đáng
chú ý là kênh có thể ít thay đổi và mức độ đòi hỏi điều chỉnh không cao nếu
không có biến động lớn. Nhưng việc điều chỉnh các thành viên trong kênh phân
phối luôn là việc làm cần thiết mà doanh nghiệp phải thực hiện nếu muốn thành
công trong chiến lược phân phối.
Ph¹m Ngäc Líp Marketing 43A 15
- §Ò ¸n m«n häc
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG KÊNH PHÂN PHỐI CỦA CÔNG TY BIA VIỆT HÀ
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG BIA
1. Nhu cầu về bia
Nhu cầu về bia ở nước ta nói chung và ở Hà nội nói riêng đang tăng nên
cả về quy mô lẫn cơ cấu dó nhiều nguyên nhân:
Thứ nhất, bia là nước giải khát cao cấp được đông đảo người tiêu dùng ưa
chuộng và nó chứa nhiều chất dinh dưỡng.
Thứ hai, dân số tăng nhanh, thu nhập tăng, nhu cầu của con người ngày
càng cao,đời sống nhân dân được cải thiện . Mặt khác cơ cấu dân cư thay đổi,
xuất hiện những tầng lớp người có thu nhập cao do thích ứng được với cơ chế
thị trường nên yêu cầu của họ ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Không chỉ
đơn giản là chất lượng mà còn cả về chủng loại sản phẩm mới, các dịch vụ gắn
liền với quá trình tiêu dùng sản phẩm cũng tăng nên.
Thứ ba, trong những năm gần đây, môi trường kinh tế rất thuận lợi cho
việc phát triển ngành bia như: Hệ thống thông tin, đường xá phương tiện vận
chuyển, bảo quản...vv . Nhiều trung tâm thương mại, văn phòng đại diện xuất
hiện làm biến động nhu cầu nói chung và nhu cầu về bia nói riêng tăng mạnh.
Thứ tư, môi trường văn hoá- xã hội, luật pháp cũng là yếu tố ảnh hưởng
đến nhu cầu về bia
Mặc dù những giá trị văn hoá cốt lõi khá bền vững, song vẫn có những
biến đổi nhất định. Môi trường văn hoá Việt Nam không nằn ngoài xu hướng
này. Trong nền kinh tế thị trường vịc du nhập nền văn hoá ngoại lai là truyện rất
phổ bíên, trong đó nó bao hàm cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. ở đây chúng ta
chỉ bàn đến những mặt tích cực của giá trị văn hoá tác động đến nhu cầu tiêu
dùng bia như thế nào.Theo nghiên cứu thị trường ,trước đây nhu cầu tiêu thụ bia
của người dân Việt Nam là chưa phổ biến, nhưng cho đến nay nhu cầu về bia
của người dân đã tăng lên rõ rệt khoảng 10 lít/ năm một người, nhu cầu chủ yếu
là ở các thành phố trung tâm,thị trấn.
Ph¹m Ngäc Líp Marketing 43A 16
- §Ò ¸n m«n häc
Bên cạnh đó trong một vài năm gần đây Nhà nước có những chủ trương
chính sách có tác dụng khuyến khích tiêu dùng bia như: Cho phép thành lập các
nhà mày bia liên doanh với các Công ty nước ngoài, đầu tư mở rộng cho một số
nhà máy bia lớn của nhà nước. Chính điều này đã làm cho nhu cầu về bia ngày
càng tăng .
Ví dụ: Nhu cầu tiêu thụ bia bình quân đầu người ở Việt Nam
và một số quốc gia khác
S Tên quốc gia Mức tiêu thụ bình quân ( lít/ năm/
TT người)
1 Việt Nam 10
2 Trung Quốc 14
3 Thái Lan 19
4 Đức 144
Nguồn: Tạp chí công nghiệp số 13/2000
Nhu cầu về bia chịu ảnh hưởng theo mùa:
Vào những ngày mưa dầm gió rét sản phẩm bia tiêu thụ chậm, nhu cầu về
bia giảm đi rõ rệt. Đến mùa hè thì nhu cầu sản phẩm bia lại tăng lên rất nhiều,
do nhu cầu khách hàng tiêu thụ rất lớn. Do vậy mà sản lượng tăng gấp ba đến
bốn lần so với mùa đông. Chính sự co dãn của cung cầu này ảnh hưởng rất lớn
đến kế hoạch sản xuất của công ty.
Ngoài tính chất thời vụ, đặc điểm sản xuất và tiêu thụ bia còn liên quan
đến vấn đề thu nhập. Những người có thu nhập cao thường tiêu dùng loại bia
ngon, tiện lợi trong tiêu dùng, còn những người có mức thu nhập trung bình thì
mặt hàng tiêu dùng chính của họ là bia hơi vì chất lượng và giá cả cũng phù hợp
Ph¹m Ngäc Líp Marketing 43A 17
- §Ò ¸n m«n häc
với họ. Như vậy bia hơi của công ty hiện nay được tiêu dùng rất mạnh, do công
ty đang tập trung khai thác thị trường bình dân
2.Tình hình cung cấp bia trên thị trường
Hiện nay, ngành sản xuất bia, nước giải khát là một trong những ngành
mang lại lợi nhuận khá cao và có thời gian quay vòng vốn nhanh. Dó đó, có rất
nhiều cơ sở thành lập, những nhà máy bia liên doanh liên kết với nước ngoài để
tạo ra nguồn vốn, trình độ công nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại nhằm sản xuất
và đưa ra thị trường những loại bia cao cấp để phục vụ cho nhu cầu ngày càng
tăng của người tiêu dùng.
Nếu như trước đây tổng sản lượng bia cung cấp ra thị trường Hà Nội chủ
yếu là do là Nhà máy Bia Hà nội thì hiện nay trên thị trường có rất nhiều nhãn
hiệu lớn xuất hiện:Việt Hà ,Việt Đức ,Hu Da,Anchor...và đã đáp ứng được phần
nào của thị trường.
Sau đâylà số liệu về khả năng cung cấp bia hơi của hai nhà máy lớn tại Hà
Nội: Công suất Đơn vị: triệu lit/năm
Nhà máy bia hơi
NM Bia Hà Nội 18
NM Bia Việt Hà 15
Nguồn: Tài liệu của hiệp hội Rượu-
Bia- Nước giải khát Việt Nam
3.Tình hình cạnh tranh giữa các loại bia trên thị trường
Ngành sản xuất bia ở Việt Nam hiện nay đang có những bước phát triển
mạnh mẽ.Thực tế cho thấy trong vàinăm gần đây đẫ có sự cạnh tranh sôi động
và quyết liệt trên thị trường giữa các nhà máy bia. Sở dĩ như vậy vì nhu cầu tiêu
dùng bia không ngừng tăng lên.dự báo mức tiêu thụ sẽ còn tăng rất nhiều trong
thời gian tới. thấy được tiềm năng phát triển của ngàng đầy sức hấp dẫn,nếu
kinh doanh sẽ rất có thể thu được lợi nhuận cao nên nhiều nhà doanh nghiệp
muốn nhảy vào, làm cho cường độ cạnh tranh càng lên cao.
Ph¹m Ngäc Líp Marketing 43A 18
- §Ò ¸n m«n häc
Công ty bia Việt Hà cũng như rất nhiều Nhà máy bia khác có rất nhiều đối
thủ cạnh tranh khác nhau. Sự cạnh tranh đó không những chỉ diễn trong nội bộ
ngành bia với nhau mà còn có sự cạnh tranh giữa ngành bia với các ngành sản
xuất khác như ngành sản xuất nước giải khát. Do vậy việc hiểu được người tiêu
dùng như thế nào thông qua các quyết định mua thì công ty dễ dàng phat hiện ra
các đối thủ cạnh tranh cản trở việc bán sản phẩm của công ty.
Đối với sản phẩm bia thì sự cạnh tranh giữa nội bộ ngành là sự cạnh tranh
giữa các nhà máy sản xuất bia với nhau. Ở thị trường Hà Nội với công ty bia
Việt Hà đối thủ cạnh tranh chủ yếu của họ là công ty bia Hà Nội, ngoài ra còn
một số đối thủ khác như ANCHOR,BIA cỏ, bia tươi ...
II. THỰC TRẠNG KÊNH PHÂN PHỐI CỦA CÔNG TY BIA VIỆT HÀ
1. Quá trình hình thành và phát triển
Sự ra đời và phát triển của công ty bia Việt Hà có thể chia làm 3 giai
đoạn:
- Giai đoạn 1, tiền thân của nhà máy là hợp tác xã cao cấp Ba Nhất
chuyên sản xuất dấm, mỳ, nước chấm để phục vụ nhân dân thành phố Hà Nội
và các tỉnh lân cận. Tháng 6/1966 UBND thành phố Hà Nội quyết định
chuyển sở hữu tập thể lên sở hữu toàn dân và HTX cao cấp Ba Nhất được đổi
tên thành Xí nghiệp nước chấm trực thuộc sở công nhgiệp Hà Nội, chuyên
kinh doanh những mặt hàng chủ yếu là nước chấm, dấm, tương…với phương
tiện lao động thủ công, đơn sơ, sản xuất theo chỉ tiêu pháp lệnh, giao nộp để
phân phối theo chế độ tem phiếu.
Nghị quyết hội nghị trung ương VI và nghị quyết 25, 26 CP ngày
21/10/1981 của Chính phủ cho phép các xí nghiệp tự lập kế hoạch, một phần tự
khai thác vật tư nguyên liệu và tự tiêu thụ. Thực hiện nghị quyết này xí nghiệp
đã áp dụng cơ chế đa dạng hóa sản phẩm với nhiều chủng loại mặt hàng như:
rượu, mỳ sợi, dầu ăn, bánh phồng tôm, kẹo các loại…phù hợp với thị hiếu người
tiêu dùng. Với thành tích đó ngày 256/4/1982 Xí nghiệp được đổi tên thành nhà
máy thực phẩm Hà Nội theo quyết định 1652 QĐUB của UBND thành phố Hà
Ph¹m Ngäc Líp Marketing 43A 19
nguon tai.lieu . vn