Xem mẫu

  1. Đề tài "VAI TRÒ CHỨNG MINH CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ – VẤN ĐỀ CƠ BẢN NHẤT CỦA TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY"
  2. VAI TRÒ CHỨNG MINH CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ – VẤN ĐỀ CƠ BẢN NHẤT CỦA TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY CÔNG TRÌNH DỰ THI GIẢI THƯỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC” ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI. NĂM 2009 Người thực hiện: Quách Mạnh Giới tính: Nam Dân tộc: Kinh Quyết Lớp: DS31B Năm thứ: 3/4 Khoa: Luật Dân Sự Người hướng dẫn: Trần Phương THS. GV Khoa: Luật Dân Thảo Sự
  3. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI 1. Tính cấp thiết của đề tài Luật tố tụng dân sự (TTDS) bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Là luật hình thức độc lập mang tính tổng hợp của nhiều ngành luật nội dung khác nhau như: Luật Dân Sự, Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, Luật Thương Mại, Luật Lao Động… Nhưng những luật nội dung này đều mang những đặc trưng cơ bản của Luật Dân Sự như tính bình đẳng, tự quyết và thoả thuận giữa các bên… đòi hỏi Luật tố tụng dân sự cũng phải thể hiện được bản chất tương ứng trong việc đánh giá và xác định vai trò quan trọng của các đương sự, đặt họ vào vị trí trung tâm của toàn bộ quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách và hoàn thiện hệ thống tư pháp Việt Nam mà Đảng và Nhà Nước đã đề ra trong giai đoạn hiện nay. Quá trình tố tụng kéo dài từ khi toà án thụ lý vụ việc dân sự cho đến khi có phán quyết giải quyết hoặc chấm dứt (bãi nại) tranh chấp. Trong đó, hoạt động chứng minh là hoạt động cơ bản, trước tiên và quan trọng nhất mà các chủ thể tiến hành và tham gia hướng tới. Hoạt động này là cơ sở để đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như là căn cứ để toà án đưa ra các phán quyết của mình. Có thể nói mục đích của hoạt động tố tụng là chứng minh và bản án, quyết định của toà án chính là kết quả cuối cùng của quá trình chứng minh đó. Kế thừa có chọn lọc các quy của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (1989), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (1994) và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (1996) không thể phủ nhận về tính hoàn thiện và phát triển đúng đắn của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Mặc dù vậy, là một ngành luật còn non trẻ, kinh nghiệm lập pháp còn thiếu trong khi các quan hệ xã hội lại phát sinh và thay đổi một cách nhanh chóng nên qua một thời gian áp dụng Bộ luật đã bộc lộ nhiều điểm chưa hợp lý nói chung và cách nhìn nhận về vai trò, vị trí của đương sự trong hoạt động chứng minh nói riêng. Một mặt không phản ánh được đúng đắn bản chất của tố tụng dân sự, không phát
  4. huy được vai trò chủ động và tích cực của đương sự trong việc tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình, mặt khác đã tạo gánh nặng cho cơ quan tiến hành tố tụng khi phải làm thay nhiều nhiệm vụ của đương sự. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng tồn đọng các vụ việc dân sự tại toà án ngày càng nhiều, tính minh bạch và thiếu khách quan còn phổ biến thể hiện ở việc các toà án cấp trên huỷ, sửa bản án của các toà cấp dưới với số lượng lớn. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả đã đi vào tìm hiểu, nghiên cứu và đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành, các quy định của nhà nước qua từng thời kỳ, tham khảo luật tố tụng dân sự của một số nước trên thế giới để hoàn thiện đề tài “ Vai trò chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự – vấn đề cơ bản nhất của tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay” với mong muốn góp phần hoàn thiện các vấn đề về lý luận và thực tiễn đối với chế định quan trọng này. 2. Đối tượng nghiên cứu Là một vấn đề khó trong tố tụng dân sự, hoạt động chứng minh còn nhiều điểm đang tranh luận cũng như chưa thống nhất nên trong phạm vi còn hạn chế về kỹ năng cũng như kinh nghiệm nghiên cứu, tác giả không có tham vọng nghiên cứu tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề chứng minh nói chung. Đối tượng nghiên cứu của đề tài được xác định cụ thể là những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành về hoạt động chứng minh của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng, từ đó chỉ rõ vai trò trung tâm và quan trọng nhất của đương sự. Trong thực tiễn, khái niệm về đương sự trong tố tụng dân sự còn có nhiều tranh luận về mặt nội hàm (như ngoài nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn có người yêu cầu, người bị yêu cầu, người liên quan trong việc dân sự, người kế thừa quyền và nghĩa vụ…) [1]. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Tố Tụng Dân Sự 2005 thì đương sự là nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan – những tư cách tố tụng chỉ được xác lập khi có vụ án dân sự xảy ra. Mặt khác, trong thủ tục “phi tụng” – giải quyết yêu cầu trong tố tụng dân sự, trong nhiều trường hợp người bị yêu cầu không xuất hiện (yêu cầu tuyên bố một người chết, mất tích…) nên tính chất đối lập
  5. trong tố tụng (đối tụng) giữa các bên không được thể hiện rõ ràng cũng như vai trò chứng minh của đương sự rất mờ nhạt. Vì lẽ đó, đề tài đi vào nghiên cứu, đánh giá những vấn đề liên quan đến hoạt động chứng minh trong việc giải quyết vụ án dân sự chứ không phải toàn bộ vụ việc dân sự (bao gồm yêu cầu về việc dân sự và vụ án dân sự ) Để làm nền tảng cho việc đánh giá, nhận xét được khách quan, đề tài tìm hiểu các quy định của hoạt động tố tụng về lĩnh vực dân sự của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, đối chiếu, so sánh các quy định trong luật tố tụng của một số nước có nền lập pháp tiên tiến trên thế giới trong cùng lĩnh vực. Khảo sát những số liệu thực tế nhằm bổ trợ cho những vấn đề lý luận. 3. Mục đích nghiên cứu Đề tài đi xây dựng, phân tích những khái niệm cơ bản như tố tụng dân sự, đương sự, đặc điểm, bản chất của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự… từ đó, chỉ rõ vai trò quan trọng, trung tâm của đương sự trong hoạt động này dựa trên sự so sánh, đối chiếu với các chủ thể khác của hoạt động chứng minh. Phân tích rõ những tác động của xu thế thời đại ảnh hưởng đến vai trò chứng minh của đương, đồng thời đưa ra những luận điểm để giải thích về vai trò quan trọng nhất của đương sự. Đề tài hướng đến giải quyết tính thực tế của vấn đề. Sau khi xây dựng và đánh giá về vấn đề lý luận chung, chỉ rõ vai trò chứng minh của đương sự là quan trọng nhất và ngày càng quan trọng hơn, khái quát những mặt được và những mặt hạn chế của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã mạnh dạn đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao nhận thức về vai trò của đương sự cũng như tạo cơ chế để họ có thể thực hiện tốt nhất quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình, giảm gánh nặng cho hệ thống tòa án. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, quy nạp, thống kê…
  6. 5. Tình hình nghiên cứu Pháp luật tố tụng liên quan đến việc giải quyết các vấn đề dân sự đã được xây dựng và áp dụng từ lâu nhưng mới chính thức được pháp điển hóa một cách có hệ thống và đồng bộ trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 nên các đề tài nghiên cứu còn rất hạn chế. Những bài viết, công trình mang tính toàn diện và có hệ thống trước đây như “Chứng cứ và hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam” - Luận văn thạc sĩ của Vũ Trọng Hiếu (1998), “Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự” – Phạm Hữu Thư, tạp chí Dân chủ và pháp luật (số 9/1998)… xây dựng trên Pháp lệnh TTGQVADS (1989), TTGQVAKT (1994) và TTGQTCLĐ (1996) đã hết hiệu lực nên chỉ còn mang tính chất tham khảo. Trong những năm gần đây, có một số bài viết, công trình liên quan như “Các quy định về chứng minh trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Công Bình, tạp chí Luật học năm 2005, “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự” của tác giả Hoàng Ngọc Thỉnh, Tạp chí Luật học năm 2004, “Chế định chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam”, Nguyễn Thị Minh Hằng, luận án tiến sĩ luật học năm 2007… Mặc dù đây là những công trình nhìn nhận các vấn đề về chứng minh ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau nhưng là cơ sở tham khảo quan trọng để tác giả có thể hoàn thành tốt phần nghiên cứu của mình. 6. Khả năng phát triển của đề tài Đề tài là công trình nghiên cứu nhìn nhận đầy đủ về vai trò tính chất quan trọng của đương sự trong quá trình chứng minh, phản ánh đầy đủ bản chất của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Việc nghiên cứu một cách toàn diện và quy mô sẽ tạo ra những cơ chế mới phát huy toàn diện tính tích cực của đương sự trong tố tụng dân sự, cán bộ tòa án sẽ không phải mất quá nhiều thời gian cho một vụ việc mà vẫn đảm bảo được sự “tâm phục khẩu phục” của đương sự, giảm đi sự tồn đọng các vụ án dân sự ngày càng nhiều, tăng thêm lòng tin của nhân dân và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, theo đề án về việc cải cách cơ cấu của ngành tòa án tại Nghị Quyết số 49- NQ/TW của Bộ Chính Trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong thời gian tới sẽ có 4 cấp tòa án được thành lập là tòa sơ thẩm khu vực, tòa phúc thẩm, tòa thượng
  7. thẩm và tòa án nhân dân tối cao. Việc thành lập thêm một cấp tòa án đồng nghĩa với việc phát sinh nhiều hơn các cơ quan, cán bộ, thêm nhiều gánh nặng cho ngân sách nhà nước vốn đã ngày càng eo hẹp. Khi hệ thống tòa án phát triển theo chiều cao thì đề tài đi vào giải quyết vấn đề theo chiều rộng, giảm bớt công việc cho ngành tòa án trao trả về cho phía đương sự. Như vậy, cho dù có thêm cấp tòa thì cũng vẫn đảm bảo được về vấn đề nhân sự, cơ cấu. 7. Cơ cấu của đề tài Ngoài phần danh mục chữ viết tắt, giới thiệu chung, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài gồm 3 phần: Phần thứ nhất là những vấn đề lý luận chung. Trong phần này tác giả xây dựng các khái niệm cơ bản như: tố tụng dân sự, đương sự, hoạt động chứng minh… chỉ rõ nghĩa vụ chứng minh của đương sự là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự cũng như khái lược một số nét cơ bản về quy định của pháp luật qua từng thời kỳ về vai trò chứng minh của đương sự. Phần thứ hai với tiêu mục là “Xác định vai trò chứng minh của đương sự – một vấn đề cơ bản nhất của tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay” là nội dung chính của đề tài. Tác giả đi vào giải quyết các vấn đề liên quan để chỉ rõ vai trò chứng minh của đương sự là quan trọng nhất trong sự so sánh với các chủ thể khác của họat động chứng minh, khẳng định vai trò này ngày càng quan trọng hơn trong bối cảnh hiện nay. Phần thứ ba, sau khi đi nghiên cứu một cách toàn diện và chặt chẽ các vấn đề lý luận ở hai phần trên, tác giả đi vào phân tích những bất cập, tồn tại của Bộ luật TTDS hiện hành và đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục, giải quyết, hiện thực hóa những quy định của pháp luật còn chưa có cơ chế cụ thể đảm bảo. 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CHỨNG MINH CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
  8. 1.1 Những khái niệm cơ bản 1.1.1 Tố tụng dân sự Trình tự hoạt động do pháp luật quy định cho việc xem xét giải quyết vụ án và thi hành án được giải thích là “tố tụng dân sự”[2]. Tuy nhiên, cần xem xét một cách chính xác hơn về cụm từ được sử dụng lâu đời và có nhiều tranh luận này mới có thể đặt nền tảng nghiên cứu các vấn đề liên quan trong đó. Được ghép từ danh từ “tố tụng” là kiện thưa tại tòa án nói chung[3] có gốc từ tiếng la tinh procedere có nghĩa là tiến bước, gợi nên một cách thức cần thiết phải thực hiện để đạt được mục đích, “tố tụng” thường được sử dụng một cách lẫn lộn với danh từ “thủ tục” bởi tính chất định trước buộc phải tuân theo trong một việc nhất định. Mặc dù cũng dùng để chỉ định một cách thức tiến hành bắt buộc nhưng danh từ “thủ tục” bao hàm trong đó nghĩa rộng hơn trên nhiều mặt vượt ra ngoài nghĩa của trình tự giải quyết vụ việc tại tòa án (như thủ tục nhập học, thủ tục đi xuất khẩu lao động…). Tố tụng khác biệt với thủ tục ở chỗ nó được dùng một cách triệt để và chỉ xuất hiện ở trong các trình tự tại cơ quan tư pháp đồng thời gợi ra một cách nhìn nhận trong đó có sự tranh tụng – mâu thẫn yêu cầu tài phán. Trong một thời gian dài của quá trình phát triển, danh từ thủ tục đã được sử dụng thay cho danh từ tố tụng như: Thủ tục giải quyết vụ án dân sự, Thủ tục giải quyết vụ án kinh tế hay Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động… đã không thể hiện rõ được bản chất của hoạt động tư pháp. Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã sử dụng triệt để danh từ tố tụng và thống nhất các thủ tục giải quyết thành một trình tự tố tụng chung. Thứ hai là danh từ “dân sự” – civil đôi khi được dùng tương đồng với danh từ prive – lĩnh vực luật tư, bởi bản chất thỏa thuận, bình đẳng của các bên trong việc xác lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ. Theo quy định của Bộ luật TTDS về phạm vi giải quyết các tranh chấp tại Điều 1 thì các ngành luật nội dung có tranh chấp được giải quyết theo trình tự này bao gồm Luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật thương mại, Luật lao động thì danh từ “dân sự” trong “tố tụng dân sự” đang được dùng như một bộ phận của lĩnh vực tư luật (bởi luật tư bao gồm nhiều ngành luật khác như luật bảo hiểm xã hội…).
  9. Chính bởi sự phức tạp trong cách định nghĩa và xác định chính xác thuật ngữ tố tụng dân sự mà đã có nhiều học giả đề nghị thay thế cụm từ này bằng một số cụm từ khác như: Luật tư pháp – vì liên quan đến lĩnh vực tư pháp, Tư luật – luật điều chỉnh việc giải quyết việc “riêng tư” giữa các bên, Luật tư pháp dân sự – nhằm phân biệt phạm vi của ngành luật này với tố tụng hành chính và tố tụng hình sự, Luật tư pháp tư hay Dân sự – tố tụng… đồng thời đưa ra một số các định nghĩa khác nhau về tố tụng dân sự [4]. Các cách định danh này đều có cơ sở nhất định nhưng chưa giải quyết được triệt để vấn đề, gây khó khăn cho cách tiếp cận của những nhà nghiên cứu pháp luật cũng như không rõ nghĩa. Việc sử dụng cụm từ tố tụng dân sự khi xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự còn mang đến một thắc mắc từ phía các Đại biểu quốc hội bởi sự hoài nghi luật “ba trong một” liệu có đáp ứng được yêu cầu hay không khi đối tượng điều chỉnh rộng trong hoàn cảnh các tòa án vẫn được chia thành tòa dân sự, tòa kinh tế, tòa lao động sẽ dễ gây nhầm lẫn khi các tòa kinh tế, lao động lại áp dụng theo thủ tục tố tụng dân sự? [5]. Tuy nhiên, có thể thấy việc sử dụng cụm từ tố tụng dân sự là sát nghĩa và có tính chất triệt để hơn cả trong giai đoạn hiện nay. Bởi 3 nguyên nhân: Thứ nhất, hệ thống pháp luật Việt Nam không phân chia thành công pháp – tư pháp như một số nước trên thế giới mà đây chỉ là vấn đề lý luận của những nhà nghiên cứu pháp luật. Định nghĩa dựa trên sự thừa nhận không chính thức sẽ gây khó khăn cho việc tiếp cận một ngành luật thực định của đông đảo quần chúng. Vì vậy, cần thiết phải định nghĩa rõ ràng dựa trên sự thừa nhận chính thức về vị trí và vai trò của ngành luật trong hệ thống pháp luật. Thứ hai, việc định nghĩa với cụm từ “tố tụng dân sự” một mặt phản ánh được tính chất “nệ thức” – phụ thuộc yếu tố hình thức, thủ tục trong hoạt động giải quyết vụ việc dân sự bảo đảm hạn chế tính độc đoán của các thẩm phán cũng như giúp các chủ thể tham gia có thể bảo vệ được mình thông qua những quy định mang tính chất thủ tục. Mặt khác phản ánh được đối tượng điều chỉnh về mặt nội dung của ngành luật hình thức tổng hợp này là các ngành luật mang yếu tố “riêng tư” giữa các bên không có sự tham gia của nhà nước ở
  10. một bên chủ thể tranh chấp và gợi được tính tranh tụng, đối lập một cách bình đẳng giữa các bên đương sự. Thứ ba, hiệu quả mang lại từ tố tụng không phải là ở việc tạo ra nhiều thủ tục khác nhau mà nằm ở việc giải quyết nhanh chóng, chính xác, khách quan vụ việc, giảm thiểu được gánh nặng về cơ cấu, tổ chức cũng như trong cách thức áp dụng pháp luật. Khi các đối tượng điều chỉnh là thống nhất về mặt bản chất thì có thể quy nạp chúng về một thủ tục chung để giải quyết không cần thiết phải có nhiều thủ tục khác nhau. Hiệu quả của tố tụng dân sự trong những năm qua đã minh chứng cụ thể cho điều đó. Như vây, tố tụng dân sự có thể được hiểu dưới góc độ pháp lý là một ngành luật tố tụng cụ thể còn dưới góc độ thực tiễn là những hình thức thực tiễn do các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng tiến hành. Dưới góc độ pháp lý: Tố tụng dân sự là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ việc về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động tại tòa án đảm bảo sự nhanh chóng, chính xác trong quá trình giải quyết và thi hành án, đặt ra các chế tài bảo vệ quyền lợi của nhà nước, của công dân. Dưới góc độ thực tiễn: Tố tụng dân sự là một quy trình, thủ tục do pháp luật quy định buộc mọi chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng phải tuân theo nhằm giải quyết nhanh chóng, chính xác vụ án dân sự và thi hành án, bảo vệ quyền lợi của nhà nước và của công dân. Nhiều học giả trên thế giới đã nhìn nhận tố tụng dân sự như là “nô tì”, là “khúc ruột thừa”, là luật “yểm trợ” cho luật hình thức… các cách nhìn nhận này là sai lầm và không đánh giá được vai trò quan trọng của luật tố tụng. Bởi lẽ, pháp luật được đặt ra không phải chỉ để cho các bên xác lập các quyền và nghĩa vụ một cách chung chung mà còn đặt ra những chế định nhằm đảm bảo cho các quyền đó thành thực tế. Khi lợi ích của một bên
  11. bị tổn thương cũng là lúc họ cầu cứu đến vai trò của nhà nước. Nhà nước với vị trí trung lập, thông qua thủ tục tố tụng xác định một cách rõ ràng quyền lợi, nghĩa vụ của các bên và đảm bảo thực hiện trên thực tế. Hay nói cách khác, luật tố tụng đảm bảo quyền lợi của các bên ở thế “động” – có phát sinh tranh chấp (khác với quyền lợi ở thể “tĩnh” – được các bên xác lập tôn trọng thực hiện). Nói chung, luật nội dung và luật tố tụng là hai mặt không thể tách rời để chủ thể đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của mình. 1.1.2 Đương sự trong vụ án dân sự Đương sự là một khái niệm cơ bản khi tiếp cận ngành luật tố tụng. Việc xác định không đúng tư cách đương sự sẽ là căn cứ để hủy các bản án, quyết định của tòa án. Trong những năm gần đây, các bản án, quyết định của tòa án bị tuyên hủy bởi các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm với l?ý do xác định không đúng tư cách đương sự tăng lên khá nhiều [6]. Đồng thời với đó thì việc xác định đúng tư cách đương sự sẽ xác định đúng đắn quyền và nghĩa vụ tố tụng cũng như giới hạn được hoạt động chứng minh trong tố tụng (sẽ được làm rõ ở phần sau). Đã có nhiều khái niệm về đương sự được đưa ra như theo Đại từ điển tiếng việt thì “Đương sự là người, là đối tượng trực tiếp của một việc đang giải quyết”[7], “là người có liên quan trực tiếp đến một việc” – Từ điển từ và ngữ Hán Việt. Trong khoa học pháp l?ý thì đương sự được hiểu “là người có quyền, nghĩa vụ được giải quyết trong một việc khiếu nại hoặc một vụ án” [8] hoặc như theo Bryan A.Garner trong cuốn từ điển pháp l?ý xuất bản năm 2001 thì khái niệm đương sự được hiểu là “người đưa ra hoặc chống lại người đưa ra việc kiện”[9]. Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, “Đương sự trong vụ việc dân sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách”[10] và được liệt kê cụ thể tại khoản 1 Điều 56 BLTTDS 2004 “Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Đương sự có thể là cá nhân, có thể là cơ quan, tổ chức (khi cơ quan tổ chức khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách). Luật tố tụng dân sự có quy định về trường hợp các cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân khác thì có các quyền và nghĩa vụ như đương sự nhưng những
  12. cơ quan tổ chức này không được coi là đương sự trong vụ án bởi họ không liên quan trực tiếp đến vụ án. những chủ thể này khởi kiện bởi chức năng, nhiệm vụ được pháp luật trao cho, các quyền và lợi ích của họ không phát sinh từ chính bản án do họ khởi kiện. Đương sự bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án nhưng dù là ai thì họ phải có năng lực hành vi và năng lực tố tụng. Trong trường hợp không có hoặc có nhưng không đầy đủ thì họ phải thực hiện thông qua người đại diện hợp pháp của mình (Điều 57 – BLTTDS 2004) Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan tổ chức đi kiện hoặc được cơ quan tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền lợi công cộng. Nguyên đơn tham gia tố tụng với sự chủ động cao thể hiện ở việc họ có thể lựa chọn thời điểm khởi đầu vụ án dân sự (thời điểm khởi kiện), giới hạn phạm vi xét xử của tòa án thông qua đơn khởi kiện vì “tòa án chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện”(Điều 5 BLTTDS) (mặc dù sau này còn có thể có yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu của những người có quyền lợi liên quan nhưng những yêu cầu này phải có quan hệ gần gũi với việc khởi kiện ban đầu), có quyền lựa chọn tòa án trong một số trường hợp (Điều 36 BLTTDS). Nguyên đơn là người cho rằng quyền và lợi ích của mình, của xã hội đang bị xâm phạm, thông thường họ là một phần trong quan hệ pháp luật nội dung đang tranh chấp. Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan tổ chức bị kiện. Trong tranh chấp, họ bị suy đoán là đã có hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn hoặc của xã hội. Bị đơn tham gia tố tụng một cách bị động, tư cách của họ chỉ được xác lập sau khi nguyên đơn xác định tư cách của mình, họ có thể nới rộng phạm vi giải quyết vụ kiện nhưng vẫn bị phụ thuộc vào đơn khởi kiện ban đầu của nguyên đơn. Đương sự thứ ba là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Đây không phải là một bên trong quan hệ pháp luật nội dung nhưng quyền hay nghĩa vụ của họ phát sinh khi có tranh chấp sảy ra. Do vậy, họ bị lôi kéo vào vụ kiện, tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Họ có thể có yêu cầu độc lập (không phụ thuộc vào yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn) hoặc không độc lập (phụ thuộc vào nguyên đơn hay bị đơn). Yêu cầu của họ có thể chống lại nguyên đơn, bị đơn hoặc có thể chống lại cả hai bên. Những
  13. chủ thể này không đi kiện (hoặc được khởi kiện) như nguyên đơn và cũng không bị kiện như bị đơn nhưng có thể nhận biết được khi thấy họ có quyền lợi hoặc nghĩa vụ phát sinh từ tranh chấp. Khi tham gia quan hệ tố tụng dân sự, vai trò của các chủ thể của pháp luật nội dung vẫn được duy trì, có nghĩa là quan hệ mới phát sinh cách biệt hẳn với quan hệ nguyên thủy đã được xác lập. Các bên, không thống nhất được vấn đề thực hiện quyền và nghĩa vụ nên họ yêu cầu tòa án giải quyết – phát sinh tư cách mới là đương sự, đồng thời với đó là phát sinh các quyền và nghĩa vụ mới được điều chỉnh bởi Luật TTDS. Đơn kiện được thụ lý cũng là lúc tư cách được xác lập mà các bên đương sự không thể thay đổi được tư cách đó trong suốt quá trình tố tụng: người đi kiện (hoặc được khởi kiện) là nguyên đơn, người bị kiện là bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đây chính là nguyên tắc bất cải, bất di bất dịch trong tố tụng dân sự[11]. Có thể nhận thấy rằng việc xác định tư cách đương sự trong vụ án dân sự bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án dựa trên vấn đề lợi ích. Giải quyết tranh chấp dân sự cũng chính là việc giải quyết vấn đề về lợi ích nên tất cả các chủ thể có liên quan đến vấn đề lợi ích đều phải đưa vào và được xác định tư cách là đương sự. Qua đó sẽ giải quyết được triệt để các tranh chấp phát sinh cũng như giảm thiểu được các khiếu kiện kéo dài trong cùng một vụ việc. 1.1.3 Chứng minh và hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự Trong thế giới khách quan luôn tồn tại nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau đòi hỏi con người phải nhận thức và đánh giá. Trong mỗi sự vật, hiện tượng lại có nhiều đặc tính khác nhau, có những đặc tính có thể nhận biết một cách nhanh chóng, rõ ràng bằng các giác quan nhưng cũng tồn tại những đặc tính không thể nhận biết ngay mà phải trải qua một quá trình tư duy, giải thích, móc nối các sự kiện để có thể đi đến được kết luận và việc đầu tiên là phải đưa ra những giả thuyết để định hướng tư duy. Như việc một cái cây bị gãy người ta có thể nhận thấy ngay sự đứt gãy, không toàn vẹn của cái cây đó bằng thị giác hoặc bằng xúc giác nhưng không thể nhận biết được ngay rằng tại sao cái cây đó bị gãy? nó đã gãy lâu chưa?… mà phải đặt ra giả thuyết, sau đó tổng hợp các sự kiện khách
  14. quan để có thể đi đến kết luận cuối cùng. Quá trình giải quyết giả thuyết bằng cách tư duy, móc nối các sự kiện đó chính là chứng minh. Chứng minh được hiểu “là làm cho thấy rõ là có thật, là đúng bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ”[12]. Quá trình chứng minh diễn ra liên tục, trong mọi mặt của đời sống xã hội và nó là động lực cho sự phát triển, khám phá tìm tòi. Hoạt động chứng minh trong TTDS là một dạng của hoạt động chứng minh nói chung nhưng khác biệt ở chỗ hoạt động này là hoạt động mang tính chất pháp lý được điều chỉnh bởi luật tố tụng dân sự và pháp luật liên quan, được thực hiện bởi các chủ thể có quyền, nghĩa vụ cụ thể và kết quả của hoạt động này sẽ là một bản án, quyết định của tòa án mang tính chất bắt buộc áp dụng. Nó là công cụ để tòa án có thể nhận thức được chính xác sự việc đã sảy ra trên thực tế làm cơ sở để đưa ra phán quyết giải quyết các tranh chấp phát sinh một cách nhanh chóng, chính xác và khách quan. Đối với các đương sự, chứng minh là phương tiện duy nhất để họ có thể bảo vệ được các quyền và lợi ích của mình. Khi vụ việc dân sự được tòa án thụ lý và giải quyết cũng đồng nghĩa với việc bên nguyên đơn cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm, bên bị đơn không thừa nhận các quyền và lợi ích đó của nguyên đơn nên yêu cầu tòa án phân xử. Trong quá trình tố tụng có thể phát sinh nhiều chủ thể khác, khi họ đưa ra yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu thì họ cũng có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của mình là đúng, là có thật. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ việc dân sự là chứng minh giả thuyết do các bên đưa ra. Cho dù giả thuyết đó có được công nhận là đúng, là có thật hay không thì toàn bộ quá trình đó vẫn được coi là hoạt động chứng minh. Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình gồm hoạt động của tòa án, viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ làm cơ sở cho yêu cầu, phản đối yêu cầu của mình và phán quyết của tòa án trên cơ sở quy định của pháp luật. Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự có ba đặc điểm cơ bản: - Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình nhận thức diễn ra suyên suốt vụ án dân sự, được bắt đầu khi có quyết định thụ lý đơn khởi kiện cho đến khi tòa án
  15. ra phán quyết. Khởi đầu là việc chứng minh của nguyên đơn cho yêu cầu của mình thông qua đơn khởi kiện, tiếp đến là hoạt động chứng minh của bị đơn bác yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố (nếu có), hoạt động chứng minh của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, của Viện kiểm sát (nếu có)… và kết thúc khi tòa án chứng minh cho phán quyết của mình thông qua một bản án có giá trị bắt buộc thi hành. - Bản chất của chứng minh chính là việc sử dụng chứng cứ. Hai yếu tố cấu thành vụ án dân sự là yếu tố chủ quan (đương sự) và yếu tố khách quan (bao gồm đối tượng – mục đích khởi kiện và nguyên nhân – cách thức bảo vệ quyền của các chủ thể trước tòa án). Hoạt động chứng minh được xếp vào các yếu tố thuộc mặt khách quan của vụ án. Điều này có nghĩa là yếu tố cấu thành vụ án đã vốn có, vốn đã tồn tại, nay chỉ đi tìm lại, diễn đạt lại một cách đầy đủ nhất, đúng đắn nhất. Hay nói cách khác, hoạt động chứng minh là hoạt động thông qua việc sử dụng chứng cứ để tái hiện lại sự thật khách quan của vụ án. Là một yếu tố quan trọng nên khái niệm chứng cứ được luật tố tụng dân sự của nhiều nước đề cập đến. Cá biệt còn có một số nước xây dựng luật về chứng cứ thể hiện sự quan trọng của vấn đề này. Luật tố tụng dân sự Nhật Bản định nghĩa: “Chứng cứ là một tư liệu thông qua đó một tình tiết được tòa án công nhận và là một tư liệu, cơ sở thông qua đó tòa án được thuyết phục là một tình tiết có tồn tại hay không?” hoặc theo điều 401 Luật chứng cứ của Mỹ định nghĩa “Chứng cứ là những gì mà hàm chứa trong nó sự tồn tại của bất cứ một sự thực nào mà bản thân sự hàm chứa đó ảnh hưởng tới việc xác định được một hành động hơn hoặc kém hơn”. Trong Luật TTDS 2004, khái niệm chứng cứ lần đầu tiên được ghi nhận một cách tương đối đầy đủ tại Điều 81, theo đó: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định mà tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay phản đối của đương sự là có căn cứ hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự”.
  16. Quá trình chứng minh không có gì khác ngoài việc sử dụng chứng cứ đúng đắn (thỏa mãn ba yêu cầu về tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp) bao gồm bốn giai đoạn khác nhau là cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Các giai đoạn này có mối liên hệ mật thiết với nhau, chỉ có giai đoạn trước mới có giai đoạn sau, và giai đoạn sau sẽ là cơ sở để đánh giá tính đúng đắn và triệt để của giai đoạn trước. Phải có hoạt động thu thập, cung cấp chứng cứ thì mới phát sinh hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và kết quả của họat động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ sẽ phát sinh những nhận thức từ vụ án dân sự, nhận thức này có đúng đắn, khách quan và toàn diện hay không hoàn toàn phụ thuộc vào việc cung cấp, thu thập chứng cứ có đầy đủ và đúng hay không. Bốn giai đoạn này kéo dài, nối tiếp và đan xen nhau, không thể tách bạch cơ học từ thời điểm nào đến thời điểm nào là giai đoạn cung cấp, thu thập, nghiên cứu hay đánh giá chứng cứ. Nhưng có thể nhận thấy rằng những giai đoạn này kéo dài suyên suốt quá trình giải quyết vụ án dân sự, nó chỉ kết thúc khi tòa án ra phán quyết. Mặc dù có thể tòa án cấp dưới đã ra quyết định giải quyết vụ án nhưng bản án này lại được giải quyết tiếp theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì lại phát sinh hoạt động chứng minh mới độc lập với hoạt động chứng minh trước đây. - Chủ thể của hoạt động chứng minh rất đa dạng Như đã phân tích ở trên, chứng minh là làm cho rõ là đúng, là có thật. Trong một vụ án cụ thể có rất nhiều ý kiến cần phải được chứng minh là đúng, là có thật đồng nghĩa với việc chủ thể thực hiện hoạt động chứng minh là đa dạng. Nguyên đơn chứng minh cho yêu cầu của mình, bị đơn chứng minh cho bác yêu cầu, yêu cầu phản tố (nếu có) tòa án chứng minh cho phán quyết của mình, Viện kiểm sát chứng minh cho kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của mình… Ngoài ra, khi đương sự không đủ khả năng tham gia tố tụng hoặc không hiểu biết về pháp luật, không có kinh nghiệm tố tụng họ có thể nhờ người khác thay mình tham gia tố tụng từ đó phát sinh ra các chủ thể khác tham gia tố tụng như người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự… họ có quyền và nghĩa vụ không giống nhau xuất phát từ vị trí tố tụng cũng như thỏa thuận giữa họ và đương sự nhưng đây cũng là những chủ thể của họat động chứng minh.
  17. 1.2 Nghĩa vụ chứng minh của đương sự – một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự Thuật ngữ nguyên tắc (principium ) được sử dụng lần đầu dưới thời La Mã cổ đại là có nghĩa là cơ sở, cốt lõi nền tảng. Theo Đại từ điển tiếng Việt thì nguyên tắc “là những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm chỗ dựa để xem xét, làm việc”[13]. Khi thực hiện một công việc nhất định cần tuân thủ một cách triệt để các nguyên tắc thì mới có thể đạt được những mục đích mong muốn. Quan điểm của chủ nghĩa Mác LêNin nguyên tắc là kết quả cuối cùng trong sự nghiên cứu “không phải giới tự nhiên và lịch sử loài người thích ứng với các nguyên tắc mà ngược lại, nguyên tắc chỉ đúng khi nó phù hợp với giới tự nhiên và lịch sử loài người”[14]. Nguyên tắc được đúc rút ra từ hoạt động thực tiễn và chỉ đúng khi phù hợp với thực tiễn. Trong hệ thống khoa học pháp lý hiện đại nguyên tắc được hiểu là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cơ bản trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Các nguyên tắc trong pháp luật nói chung và luật tố tụng dân sự nói riêng chỉ đúng khi nó phù hợp với bản chất của ngành luật, với thực tế các quan hệ xã hội mà ngành luật đó điều chỉnh. Nhận thức được vai trò quan trọng mang tính chất chỉ đạo, Bộ luật tố tụng dân sự đã dành chương II với 21 điều để liệt kê các nguyên tắc của hoạt động tố tụng dân sự. Các nguyên tắc này được xây dựng trên tính chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng như tính chất của luật tố tụng dân sự cùng với quá trình đúc rút kinh nghiệm thực tế, xây dựng, áp dụng và hoàn thiện pháp luật tố tụng trong những năm qua. Một trong số đó là nguyên tắc về việc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự “các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh như đương sự” (khoản 1 Điều 6 BLTTDS 2004). Nguyên tắc về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong BLTTDS năm 2004 được kế thừa từ các quy định trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 (Điều 3), Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế năm 1994 (Điều 3) và Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động năm 1996 (Điều 2). Tuy nhiên, nếu đi vào cụ thể
  18. từng điều luật có thể thấy các pháp lệnh trước đây đã đồng nhất nghĩa vụ chứng minh với nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Việc đồng nhất hai nghĩa vụ này với nhau là không có cơ sở bởi việc cung cấp chứng cứ chỉ là một phần trong hoạt động chứng minh bao gồm nhiều giai đoạn từ thu thập, cung cấp đến nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Từ đó sẽ không nhận thức được đầy đủ về vai trò chứng minh của đương sự cũng như không thể tạo ra những cơ chế hữu hiệu để đương sự có thể hoàn thành được nghĩa vụ của mình, ảnh hưởng đến các quyền và lợi ích hợp pháp. Nguyên nhân là lúc đó vẫn tồn tại giai đoạn điều tra của tòa án đối với mỗi vụ án cụ thể. Từ việc điều tra, thu thập chứng cứ tòa án sẽ phân tích, đánh giá và quyết định. Chính vì vậy mà trong một thời gian dài vai trò chứng minh của đương sự trong việc giải quyết vụ án dân sự không được quan tâm và đề cao. Khắc phục những hạn chế trước đây và phù hợp hơn với hoàn cảnh hiện tại, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã bỏ đi hẳn phần điều tra trong tố tụng dân sự, quy định nghĩa vụ chứng minh của đương sự thành một nguyên tắc và cụ thể hóa tại điều 79 – BLTTDS: “1. Đương sự có yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp 2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh 3. Cá nhân, cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước hoặc yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.” Nội dung nguyên tắc về nghĩa vụ chứng minh của đương sự được thể hiện ở hai mặt: Thứ nhất, nghĩa vụ là việc phải làm. Đương sự có nghĩa vụ chứng minh có nghĩa là đương sự phải thực hiện hoạt động chứng minh. Điều này không có nghĩa là tất cả các đương sự đều phải thực hiện hoạt động chứng minh. Như khi cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân khác thì tư cách đương sự thuộc về người được khởi kiện nhưng họ không bắt buộc phải chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình
  19. là có căn cứ mà nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan, tổ chức đã khởi kiện, bị đơn cũng không bắt buộc phải chứng minh… nghĩa vụ chứng minh nói một cách tổng quát nhất là thuộc về phía đương sự đã đưa ra yêu cầu. Thuật ngữ “yêu cầu” ở đây đã được sử dụng theo nghĩa rộng bao gồm cả yêu cầu về sự công nhận là đúng, là có lý và cả yêu cầu công nhận là không đúng, không có lý hay nói cách khác yêu cầu ở đây chính là đề ra đối tượng chứng minh. Nội dung đối tượng chứng minh thuộc về phía đương sự bao gồm thỉnh cầu và kháng biện. Trong thỉnh cầu có thỉnh cầu ban đầu (đơn khởi tố), thỉnh cầu bổ xung (bổ xung yêu cầu trong quá trình giải quyết vụ việc), thỉnh cầu phản tố (đòi hỏi công nhận lợi ích của bị đơn) và thỉnh cầu dự sự (đòi hỏi của người thứ ba về việc tham gia vụ án). Kháng biện bao gồm kháng biện về nội dung (là sự phủ nhận của bị đơn), khước biện (bị đơn cho rằng không đúng thủ tục) và kháng chấp (bị đơn cho rằng nguyên đơn không có quyền kiện họ: ví dụ như không có tư cách hoặc kiện ở tòa không có thẩm quyền).[15] Khi nguyên đơn đưa ra yêu cầu bằng cách khởi kiện thì họ có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, bị đơn đưa ra yêu cầu bác bỏ ý kiến của nguyên đơn thì họ có nghĩa vụ chứng minh cho việc bác bỏ đó là có căn cứ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi đưa ra yêu cầu cũng phải chứng minh… nguyên tắc này thống nhất với nguyên tắc về quyền tự định đoạt của đương sự, quyền và lợi ích của họ phải do chính họ quyết định. Thứ hai, đồng thời với việc phải làm thì nghĩa vụ còn mang lại một hậu quả pháp lý. Hậu quả pháp lý này là việc được tòa án công nhận các quyền và lợi ích hợp pháp khi đương sự thực hiện một cách đầy đủ và chính xác nghĩa vụ chứng minh. Ngược lại, khi đương sự không thực hiện hoặc thực hiện một cách không đầy đủ nghĩa vụ chứng minh thì yêu cầu đưa ra sẽ không được chấp nhận và sẽ phải chịu “hậu quả”. Không loại trừ trường hợp người đưa ra yêu cầu không thực hiện nghĩa vụ chứng minh nhưng hậu quả pháp lý mang lại không phải là một hậu quả bất lợi như khi bị đơn phản đối yêu cầu của nguyên đơn lại không thực hiện nghĩa vụ chứng minh mà chỉ “chối dài” nhưng phản đối đó vẫn được chấp nhận, trường hợp này phải thấy được rằng hậu quả bất lợi ở đây đã thuộc về phía nguyên đơn vì họ đã không thực hiện được nghĩa vụ chứng minh của mình nên đã không được công nhận quyền và lợi ích.
  20. Nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh của đương sự là một nguyên tắc cơ bản và có tính chỉ đạo xuyên suốt vì xuất phát từ bản chất của tố tụng dân sự là giải quyết các tranh chấp giữa các bên trên cơ sở pháp luật, mục đích là để bảo vệ các quyền và lợi ích của mọi chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. ở đó, không có sự can thiệp của quyền lực nhà nước, các bên hoàn toàn bình đẳng trong các mối quan hệ. Đương sự là trung tâm của hoạt động tố tụng, là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung đang tranh chấp. Quyền và lợi ích của họ sẽ do chính họ quyết định thông qua hoạt động của mình. Nhà nước không can thiệp mà chỉ công nhận các quyền lợi khi xét thấy có căn cứ và hợp pháp thông qua hoạt động chứng minh của đương sự. Trong luật tố tụng dân sự tồn tại hai hệ thống các nguyên tắc. Hệ thống thứ nhất bao gồm các nguyên tắc thể hiện vị trí tố tụng của các chủ thể tiến hành tố tụng (gồm người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng) như nguyên tắc tòa án xét xử tập thể, xét xử công khai, nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật… Hệ thống thứ hai bao gồm những nguyên tắc thể hiện vị trí tố tụng của các chủ thể tham gia như nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự, nguyên tắc hòa giải… Các nguyên tắc có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong đó nguyên tắc về nghĩa vụ chứng minh của đương sự là nguyên tắc cơ bản nhất. Chỉ khi đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình thì mới xuất hiện các nguyên tắc tố tụng khác. Đương sự phải thực hiện hoạt động chứng minh thông qua việc cung cấp chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp thì mới là một trong những điều kiện để tòa án tiến hành thụ lý đơn khởi kiện – thời điểm bắt đầu của hoạt động tố tụng dân sự. Không thể có một đơn khởi kiện nào được thụ lý mà không có chứng cứ để chứng minh (Điều 164). Các nguyên tắc khác theo đó mới có thể phát sinh và áp dụng. 1.3 Sơ lược quy định về vai trò chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự qua từng thời kỳ Luật pháp là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng được hình thành trên cơ sở hạ tầng xã hội tương ứng. Pháp luật luôn là công cụ hữu hiệu nhất để giai cấp thống trị thực hiện quyền làm chủ của mình, định hướng và duy trì sự ổn định xã hội. Vì vậy, qua từng thời
nguon tai.lieu . vn