Xem mẫu

ĐẶT VẤN ĐỀ
Dị vật đường thở (DVĐT) là những vật lạ rơi vào đường thở mắc lại ở thanh khí
phế quản. DVĐT là một tai nạn xảy ra đột ngột, có thể tử vong tức thì do ngạt vì dị vật
bít tắc hoàn toàn đường thở. Hoặc, nếu may mắn bệnh nhân thoát chết thì dị vật được ho
tống ra ngoài, hay dị vật chui sâu vào một bên phế quản.
Hậu quả này dẫn đến một quá trình diễn biến phức tạp với những hậu quả thường
là khó thở cấp hay từng cơn, xẹp phổi, tràn khí màng phổi, tràn khí trung thất, nhiễm
trùng hô hấp tái nhiễm v.v…
Tỷ lệ tại này khó xác định chính xác, tùy theo từng địa phương và tùy từng hoàn
cảnh. Tuy nhiên DVĐT được xếp vào hàng thứ 5 các tai nạn ở trẻ em. Có một điều tra
được tiến hành trên phạm vi toàn quốc ở Pháp năm 1979 cho thấy có 700 trẻ em bị
DVĐT cần phải chăm sóc trong một năm và đây là tai nạn thường gặp ở trẻ em.
Theo Banks W., Protic W (1977) tỷ lệ tử vong do DVĐT là 1,2%
Tại Việt Nam chưa thấy có thống kê toàn diện về DVĐT trên phạm vi toàn quốc.
DVĐT chủ yếu gặp ở trẻ em và cũng không ít trường hợp đưa tới tử vong do dị vật làm
bít tắc đường thở. Trong 6 năm từ 1980 – 1985 viện Tai Mũi Họng Trung ương đã nhận
cấp cứu 214 trường hợp DVĐT trẻ em. [5]
Một số lớn DVĐT không được phát hiện ngay, bị bỏ quên vào điều trị rải rác ở các
cơ sở y tế với những chẩn đoán bệnh khác nhau. Biến chứng của DVĐT gây nên rất nặng
nề và phức tạp.
Vì vậy, DVĐT không chỉ là một cấp cứu tối cấp mà còn là một tai nạn rất nguy
hiểm, rất dễ bị bỏ qua ở trẻ em. Tỷ lệ tai nạn này thường gặp nhiều ở trẻ nhỏ, nhóm tuổi
từ 1-3 tuổi là hay gặp nhất, chiếm 61% các trường hợp DVĐT. DVĐT nói chung và dị
vât DVĐT ở trẻ em nói riêng đòi hỏi phải có sự nghiên cứ toàn diện và hệ thống. Chẩn
đoán đúng, xử trí kịp thời sẽ làm giảm tỷ lệ tử vong và các biến chứng nặng nề do DVĐT
gây ra. Vì vậy chúng tôi nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu sau:
1.Mô tả một số đặc điểm dị vật đƣờng thở ở trẻ em vào điều trị tại Bệnh viện
nhi Trung ƣơng từ tháng 7/2012 đến 07/2013.
2.Mô tả một số đặc điểm của dị vật đƣờng thở ở các trẻ em này.
1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN
DVĐT là những tai nạn có thể nguy hiểm ngay tới tính mạng và phải được xử trí
cấp cứu.
DVĐT là những dị vật mắc lại ở đường thở từ thanh quản tới phế quản.
Mọi lứa tuổi đều có thể bị DVĐT, trẻ em gặp nhiều hơn người lớn, hay gặp nhất là
trẻ dưới 4 tuổi. Trên 25% gặp ở trẻ dưới 2 tuổi (Lemariey), 95% gặp ở trẻ dưới 4 tuổi
(Khoa Tai Mũi Họng – Bệnh viện Bạch Mai – 1965.
DVĐT là những chất vô cơ hay hữu cơ mắc vào thanh quản hay khí quản hoặc phế
quản.
Hay gặp nhiều nhất là hạt lạc, hạt ngô, hạt dưa, hạt na, hạt quất hồng bì … mẩu
xương, vỏ tôm, cua, đốt xương cá, mảnh đồ nhựa, kim, cặp tóc…
Tiên lượng phụ thuộc vào bản chất, vị trí của dị vật và điều trị sớm hay muộn. Có
thể tử vong do ngạt thở hoặc các biến chứng do dị vật tồn tại trong đường thở.
Điều trị nội soi phế quản là cơ bản và an toàn.
1.1. Đặc điểm giải phẫu bộ máy hô hấp
 Bộ phận hô hấp bao gồm đường dẫn khí từ mũi, họng, thanh quản, khí quản,
phế quản và phổi, màng phổi.
 Bộ phận hô hấp trẻ em nhỏ hơn về kích thước so với người lớn và có những
đặc điểm riêng biệt về giải phẫu, sinh lý do các tổ chức tế bào của bộ phận hô
hấp trẻ em chưa hoàn toàn biệt hóa à đang ở trong giai đoạn phát triển.
1.1.1. Mũi
 Ở trẻ nhỏ, mũi và khoang hầu ngắn và nhỏ, lỗ mũi và ống mũi hẹp làm cho sự
hô hấp bằng đường mũi bị hạn chế và dễ bị bít tắc.
 Niêm mạc mũi mỏng, mịn, lớp ngoài của niêm mạc gồm các biểu mô rung hình
trụ giàu mạch máu và bạch huyết. Chức năng hàng rào bảo vệ của niêm mạc
mũi ở trẻ nhỏ còn yếu do khả năng sát trùng của niêm dịch còn kém, vì vậy trẻ
dễ bị viêm nhiễm mũi họng.
 Tổ chức hang và cuộn mạch ở niêm mạc mũi chỉ phát triển ở trẻ từ 5 tuổi đến
tuổi dậy thì, do đó trẻ nhỏ dưới 5 tuổi ít bị chảy máu cam.
2

Thang Long University Library

 Các xoang hàm đến 2 tuổi mới phát triển. Xoang sàng có từ lúc mới sinh
nhưng chưa biệt hóa đầy đủ. Do đó trẻ nhỏ ít bị viêm xoang.
1.1.2. Họng – hầu
 Họng, hầu trẻ em tương đối hẹp và ngắn, có hướng thẳng đứng, hình phễu hẹp,
sụn mềm và nhẵn. Họng phát triển mạnh nhất trong năm đầu và tuổi dậy thì.
 Dưới 3 tuổi, họng trẻ em trai và gái dài như nhau. Từ 3 tuổi trở đi học trẻ em
trai dài hơn họng trẻ gái.
 Niêm mạc họng được phủ một lớp biểu mô rung hình trụ.
 Vòng bạch huyết Waldayer phát triển từ 4 – 6 tuổi cho đến tuổi dậy thì. Ở trẻ
dưới 1 tuổi chỉ có VA (Amidan vòm) phát triển. Từ 2 tuổi trở lên, amidan khẩu
cái mới phát triển. Khi các tổ chức này bị viêm nhiễm sẽ ảnh hưởng đến các
chức năng hô hấp vì trẻ phải thở bằng miệng.
1.1.3. Thanh quản
 Thanh quản có dạng hình ống nằm ở trước cổ ngang mức đốt sống C3 – C6.
Giới hạn trên của thanh quản là bờ trên của sụn giáp, ở dưới là bờ dưới của sụn
nhẫn. Ở phía trên thanh quản thông với hạ họng, ở dưới thông với khí quản.
 Về kích thước, thanh quản ở nam giới dài và to hơn nữ giới:
+ Nam: dài 44mm, rộng 43mm, đường kính trước – sau 36mm.
+ Nữ: dài 36mm, rộng 41mm, đường kính trước – sau 26mm.
Trước tuổi dậy thì giữa trẻ trai và trẻ gái ít có sự khác biệt.
 Về cấu trúc, thanh quản có một khung sụn gồm các sụn đơn và sụn đôi. Đó là
các sụn nắp thanh quản (thanh thiệt), sụn giáp, sụn phễu, sụn nhẫn, sụn sừng
Santori và sụn sừng Wriberg. Các sụn này khớp với nhau và được giữ chặt bởi
các màng và dây chằng. Các cơ ở thanh quản bao gồm các cơ ở bên trong và
bên ngoài thanh quản. Trong lòng thanh quản được lót bởi niêm mạc.
+ Lòng thanh khí phế quản ở trẻ em tương đối hẹp, tổ chức đàn hồi kém phát
triển, vòng sụn mềm dễ biến dạng và niêm mạc có nhiều mạch máu. Do đó, khi
trẻ bị viêm nhiễm đường hô hấp niêm mạc thanh – khí phế quản dễ bị phù nề,
xuất tiết, biến dạng.
+ Phản xạ ho mỗi khi có các dị vật lọt vào thanh quản để đẩy dị vật ra ngoài
đường hô hấp là một phản ứng bảo vệ. Đây là sự kích thích phản xạ sâu với sự
3

mở rộng thanh quản, thanh môn đóng cùng với việc nâng cao áp lực bên trong
lồng ngực và sau đó mở tức thì thanh môn với một luồng không khí đẩy mạnh
và sự ho sẽ tống dị vật ra ngoài.
+ Thanh quản là vùng thụ cảm các phản xạ thần kinh thực vật. Do đó, sự kích
thích cơ học có mặt trong thanh quản có thể gây rối loạn nhịp tim, tim đập
chậm hoặc ngừng tim. Vì thế, trong nội soi cần gây tê tốt niêm mạc thanh quản
nhất là khi cần nội soi lâu hoặc bị bít tắc thanh quản do dị vật.
1.1.4. Khí quản
Khí quản là một ống dẫn không khí nằm ở cổ và ngực, tiếp theo thanh quản, bắt
đầu từ bờ dưới sụn nhẫn, ở ngang mức đốt sống cổ C6, đi xuống dưới và ra sau theo
đường cong của cột sống tận cùng ở trong lồng ngực bằng cách chia đôi thành hai phế
quản chính, ở ngang dưới mức đốt sống ngực D4, hoặc bờ trên đốt sống ngực D5. Ở nền
cổ, khí quản nằm sau đĩa ức 3cm, ở trong ngực nên mở khí quản đoạn cao và trung bình
thường thuận lợi hơn mở đoạn thập.
1.1.1. Phế quản
 Khí quản khi tới ngang đốt sống ngực D4 thì phân đôi thành hai phế quản gốc
phải và trái đi vào hai phổi.
 Hướng chia của các phế quản gốc:
+ Bên phải: gần như thẳng chiều với khí quản
+ Bên trái: đi ngang sang trái, góc chia giữa hai phế quản khoảng 45 – 75o.
 Kích thước của các phế quản gốc:
+ Phế quản gốc phải: dài khoảng 10 – 14mm, đường kính khoảng 12 – 16mm,
số vòng sụn là 6 – 8.
+ Phế quản gốc trái: dài khoảng 50 – 70mm, đường kính khoảng 10 – 14 mm,
số vòng sụn là 12 – 14.
 Do phế quản gốc phải có đặc điểm thẳng chiều với các khí quản hơn và có
đường kính lớn hơn phế quản gốc trái nên dị vật rơi vào phế quản gốc phải
nhiều hơn phế quản gốc trái, cũng do đặc điểm này trong nội soi phế quản, để
đưa ống soi vào phế quản gốc trái cần phải chuyển ngang ống soi hướng sang
trái.

4

Thang Long University Library

Hình 1: Hình ảnh cây phế quản
1.1.5. Phổi
 Phổi trẻ em lớn dần theo tuổi. Ở trẻ sơ sinh trọng lượng phổi là 50 – 60 gram, 6
tháng tuổi tăng gấp 3 lần, 12 tuổi tăng gấp 10 lần và ở người lớn gấp 20 lần.
 Thể tích phổi của trẻ em sơ sinh là 65 – 70 ml, đến 12 tháng tuổi tăng gấp 10
lần.
 Tổng số phế nang ở trẻ sơ sinh là 30.000.000, đến 8 tháng tuổi tăng gấp 10 lần
ở người lớn là 600 – 700 triệu.
 Phổi trẻ em, nhất là trẻ nhỏ, có nhiều mạch máu, mạch bạch huyết và sợi cơ
nhăn. Vì vậy phổi trẻ em có khả năng co bóp lớn và tái hấp thu các chất dịch
trong phế nang nhanh chóng.
 Tuy nhiên phổi trẻ nhỏ ít tổ chức đàn hồi, nhất là xung quanh các phế nang và
thành mao mạch, các cơ quan ở lồng ngực cũng chưa phát triển đầy đủ nên
lồng ngực di động kém, trẻ dễ bị xẹp phổi, khí phế thũng, giãn phế nang…
 Rốn phổi gồm phế quản gốc, thần kinh, mạch máu và nhiều hạch bạch huyết,
Các bạch huyết ở rốn được chia làm 4 nhóm: nhóm hạch khí quản, nhóm hạch
khí – phế quản, nhóm hạch phế quản – phổi, nhóm hạch vùng khí quản phân
đôi. Các hạch bạch huyết ở rốn phổi có liên quan với các hạch bạch huyết ở
5

nguon tai.lieu . vn