Xem mẫu
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG
TR
KHOA KINH TẾ
=== ===
ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU VỀ THỊ TRƯỜNG OTC
LỚP: C10KH3
NHÓM ĐỀ TÀI 3
Đà Nẵng – Năm 2011
DANH SÁCH NHÓM
Hoạt động nhóm 1
- 1. NGUYỄN THANH TRUNG
2. NGUYỄN VĂN TUẤN ANH
3. NGUYỄN THỊ BÉ
4. NGUYỄN LÊ THỊ YẾN NHI
5. NGUYỄN THỊ THU THẢO
6. NGUYỄN HOÀI NAM
Hoạt động nhóm 2
- 1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
Hoạt động nhóm 3
- Giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển của thị trường
chứng khoán; việc mua, bán chứng khoán chủ yếu được thực hiện
thông qua các quầy của ngân hàng, các công ty chứng khoán. Phương
thức giao dịch chủ yếu là mua bán trực tiếp thủ công, thương lượng
giá.
Khi Thị trường chứng khoán đã phát triển, hoạt động của thị
trường được thực hiện bởi một mạng lưới các nhà môi giới và tự
doanh chứng khoán mua bán với nhau và với các nhà đầu tư ở các địa
điểm phân tán khác nhau mà không có trung tâm giao dịch. Các loại
chứng khoán giao dịch trên thị trường này là chứng khoán chưa niêm
yết, chủ yếu là của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Việc giao dịch được thực hiện thông qua mạng điện
thoại, internet; giá cả chứng khoán giao dịch được xác định dựa trên cơ
sở thỏa thuận, thương lượng. Chính vì vậy, thực chất Thị trường
chứng khoán phi tập trung là Thị trường giao dịch ngoài quầy (OTC -
over the counter market) theo nghĩa đen của nó.
Thị trường chứng khoán phi tập trung được đặt dưới sự quản lý,
điều hành của các tổ chức do pháp luật quy định và chịu sự quản lý của
nhà nước.
Với sự phát triển của kỹ thuật tin học, Thị trường chứng khoán
phi tập trung phát triển rất nhanh chóng trở thành một loại hình chứng
khoán hiện đại. Thị trường chứng khoán phi tập trung - OTC (khác
với thị trường chứng khoán chợ đen) là một thị trường chứng khoán
được tổ chức chặt chẽ bởi các tổ chức theo quy định của pháp luật và
chịu sự quản lý của Nhà nước.
Hoạt động nhóm 4
- Trên thị trường OTC, chứng khoán được giao dịch là chứng khoán
chưa niêm yết ở Sở Giao dịch Chứng khoán; việc giao dịch được thực
hiện bởi một màng lưới các nhà môi giới, tự doanh chứng khoán và nhà
tạo lập thị trường liên kết với nhau và liên kết với trung tâm qu ản lý
thông qua mạng dịch vụ viễn thông dữ liệu diện rộng; cơ chế xác lập
giá chủ yếu là dựa trên cơ sở thương lượng giá.
Thị trường chứng khoán phi tập trung được dịch ra từ bản tiếng
anh là “ Over the counter - OTC“ hay là thị trường qua quầy.
Đặc thù của thị trường này là các giao dịch mua bán trên thị
trường được thực hiện trực tiếp tại các quầy của ngân hàng – trên
mạng – điện thoại hoặc các công ty chứng khoán mà không cần các
trung gian môi giới để đưa vào đấu giá tập trung.
Thị trường chứng khoán Phi tập trung là một trong những thị
trường xuất hiện đầu tiên trước khi thị trường chứng khoán xuất hiện.
Quá trình hình thành & phát triển TT OTC từ hình thái thị trường
tự do không có tổ chức đến thị trường có sự quản lý của chính phủ
hoặc của các tổ chức tự quản.
Hiện nay thị trường OTC được coi là TTCK bậc cao của nền
kinh tế hiện đại và quy mô giao dịch của thị trường này rất lớn.
Ở Việt nam, Luật công ty ra đời vào năm 1990. Kể từ thời điểm
này, các công ty cổ phần bắt đầu được thành lập và hoạt động. Nhưng
sau đó 10 năm, trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên ở Việt nam
mới đi vào hoạt động.
Sau 5 năm khai trương, tính đến thời điểm tháng 6 năm 2005, mới
có 26 công ty chính thức niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán
Hoạt động nhóm 5
- thành phố Hồ Chí Minh. Hay nói cách khác, thị trường chứng khoán
Việt Nam ở thời điểm này chỉ phục vụ cho 26 công ty. Nhưng ngoài,
26 công ty nêu trên, còn hàng nghìn cổ phiếu của các công ty khác được
giao dịch trên thị trường phi tập trung (Over The Counter - OTC).
2.THỊ TRƯỜNG OTC LÀ GÌ ?
2.1. Khái niệm
Thị trường OTC hay còn gọi là thị trường phi tập trung, là thị
trường được tổ chức không dựa vào một mặt bằng giao dịch c ố đ ịnh
như thị trường sàn giao dịch (thị trường giao dịch tập trung), mà dựa
vào một hệ thống vận hành theo cơ chế chào giá cạnh tranh và thương
lượng thông qua sự trợ giúp của các phương tiện thông tin.
Thị trường OTC không có một không gian giao dịch tập trung. Thị
trường này thường được các CTCK cùng nhau duy trì, việc giao dịch và
thông tin được dựa vào hệ thống điện thoại và Internet với sự trợ giúp
của các thiết bị đầu cuối.
2.2. Những đặc trưng cơ bản
a) Hình thức tổ chức:
Về cơ bản thị trường OTC không có địa điểm giao dịch tập trung
giữa bên mua và bên bán như đối với thị trường chứng khoán tập
trung (Sở Giao dịch Chứng khoán). Tuy nhiên, vì kỹ thuật tin học phát
triển và việc sử dụng mạng thông tin dữ liệu trên diện rộng đã làm cho
việc giao dịch trên thị trường OTC có tính tập trung cao hơn.
- Thị trường chứng khoán phi tập trung hiện đại là thị trường
được tổ chức chặt chẽ, sử dụng hệ thống mạng tin học diện rộng liên
kết với tất cả các đối tượng tham gia thị trường.
Hoạt động nhóm 6
- - Cơ chế xác lập giá trên thị trường OTC chủ yếu dựa trên cơ sở
thương lượng, thỏa thuận giá giữa bên mua và bên bán.
- Nhà đầu tư và tổ chức của các NĐT:
Việc tham gia thị trường OTC rất đơn giản. Tuy nhiên, hoạt động
của các NĐT trên thị trường không phải là độc lập, mà thường lập
thành các nhóm, hội, diễn đàn để trao đổi thông tin với nhau.
- Hàng hoá của thị trường:
Là các loại cổ phiếu của các DN cổ phần, có triển vọng phát
triển, chuẩn bị niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung hoặc có
những lợi thế thương mại riêng biệt.
- Việc mua bán cổ phiếu trên thị trường OTC được thực hiện
theo phương thức “thuận mua, vừa bán” mà không bị bất cứ một lực
bên ngoài nào (giới hạn giá, lượng cổ phiếu…) tác động. Nói chung, cơ
chế mua - bán các loại chứng khoán trên thị trường OTC theo cơ chế thị
trường.
Phương thức mua bán, giao dịch: (3 phương thức)
+ Phương thức giao dịch thỏa thuận giản đơn.
+ Phương thức giao dịch báo giá.
+ Phương thức giao dịch có sự tham gia của nhà tạo l ập thị
trường.
+ Bên mua và bên bán trực tiếp gặp nhau để thương lượng, quyết
định việc mua - bán chứng khoán. Đây là phương thức phổ biến hiện
nay tại Việt Nam.
+ Bên mua và bên bán có thể giao dịch thông qua các nhà môi giới
chứng khoán. Hiện nay, phương thức này ít phổ biến hơn, nhưng xu
Hoạt động nhóm 7
- hướng phát triển của thị trường thì trong tương lai, phương thức này sẽ
chiếm ưu thế hơn so với phương thức trực tiếp mua - bán.
Thu thập thông tin của các loại cổ phiếu: để mua chứng khoán
trên thị trường OTC, NĐT thường tìm kiếm thông tin từ các nguồn như:
+ Thông tin từ các báo cáo tài chính (BCTC): nhìn chung, các
CTCP chưa niêm yết không có BCTC được kiểm toán. Do những mục
đích khác nhau mà DN có nhiều hệ thống sổ sách kế toán, BCTC. Mặt
khác, việc có được một bản BCTC của DN đối với một người bình
thường là điều không hề đơn giản, nhất là trong điều kiện mà ngay
bản thân DN không biết thông tin nào nên công bố, thông tin nào không
nên. Do đó, việc thu thập thông tin từ DN qua con đường chính thức khá
khó khăn, nếu NĐT không có những mối liên hệ nhất định với công ty
đó.
+ Thu thập thông tin qua các cơ quan chức năng:
Theo quy định, DN phải báo cáo tình hình hoạt động cho cơ quan
đăng ký kinh doanh (Sở Kế hoạch và Đầu tư). Tuy nhiên, việc tuân thủ
quy định này của các DN không thực sự nghiêm túc hoặc các thông tin
cũng rất chung chung. Và các cơ quan chức năng cũng không có tránh
nhiệm và nghĩa vụ công bố các thông tin của DN. Vì vậy, việc có được
thông tin từ các cơ quan này gần như là bất khả thi đối với NĐT. Ngoài
ra, còn có một tổ chức lưu trữ thông tin về các DN, đó là Trung tâm
Thông tin tín dụng (CIC) thuộc Ngân hàng Nhà nước. Trung tâm này lưu
trữ thông tin cơ bản của các DN có quan hệ tín dụng với các tổ chức tín
dụng. Tuy nhiên, tính cập nhật của các thông tin này không cao.
Hoạt động nhóm 8
- + Thu thập thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng: khi
không thể thu thập thông tin về DN từ các đầu mối thông tin nêu trên,
NĐT có thể thu thập thông tin từ các phương tiện thông tin đ ại chúng.
Tuy nhiên, nhược điểm của nguồn dữ liệu này là rời rạc, độ tin cậy
không cao.
+ Thu thập thông tin từ các nguồn khác: thông tin từ những hội,
nhóm kinh doanh chứng khoán, thông tin không chính thức từ bên trong
DN… Nhìn chung, các nguồn thông tin nêu trên không đủ căn c ứ vững
chắc và không chính xác để NĐT ra quyết định. Nhưng trong thực tế,
các chứng khoán vẫn được mua bán, chuyển nhượng, thậm chí, tại
những thời điểm cao trào, nhiều loại chứng khoán được mua bán,
chuyển nhượng rất sôi động.Như vậy câu hỏi đặt ra là các nhà đầu tư
lấy thông tin từ đâu?
Có hai nguồn thông tin quan trọng nhất làm cơ sở cho việc ra
quyết định của các nhà đầu tư. Loại thứ nhất là thông tin từ những hội,
nhóm kinh doanh chứng khoán. Trên thực tế, có những địa điểm (café
chứng khoán) mà ở đó các nhà đầu tư tự do gặp gỡ, trao đổi thông tin
về các loại chứng khoán, tình hình doanh nghiệp. Loại thứ hai là thông
tin được lấy không chính thức từ bên trong doanh nghiệp.
Đối với thông tin này, nhà đầu tư bằng sự quen biết, hay bằng
những kỹ thuật, chiến thuật riêng mà họ có thể lấy được từ những đầu
mối quan trọng, phản ánh một cách chính xác tình hình, những biến cố
xảy ra bên trong doanh nghiệp. Đây là những thông tin hết sức quan
trọng để nhà đầu tư đưa ra quyết định của mình. Với những thông tin
Hoạt động nhóm 9
- như trên, không phải là căn cứ thật sự vững chắc, để đưa ra quy ết
định đầu tư.
Thực tế, nhiều quyết định mua bán được dựa trên cảm giác của
nhà đầu tư.
Chính điều này, nhiều loại chứng khoán được mua bán trên cơ sở
tin đồn (tâm lý bầy đàn “herd behavior”) xuất hiện trong trường hợp
này. Với những trường hợp như vậy, rủi ro Chương trình Giảng dạy
Kinh tế Fulbright Thị trường OTC ở Việt Nam đối với các nhà đầu tư
là rất lớn. Khả năng thao túng của một nhóm nào đó là rất có th ể x ảy
ra, nhất là khi các giao dịch trên thị trường OTC tương đối sôi động.
Những khó khăn và rủi ro của các nhà đầu tư trên thị trường OTC
Với cơ chế mua bán nêu trên, nhất là vấn đề thu thập và tiếp cận
thông tin, độ tin cậy và căn cứ khi đưa ra các quyết định đ ầu tư là r ất
thấp.
Do đó, rủi ro đối với các nhà đầu tưtrên thị trường OTC là rất
lớn. Việc mua phải các loại cổ phiếu dỏm của những doanh nghiệp
làm ăn thua lỗ vì một lý do gì đó được đánh bóng lên là điều hoàn toàn
có thể xảy ra.
Trường hợp mua phải như vậy, các nhà đầu tư chỉ có một cách
duy nhất là chịu mất tiền mà chẳng có một cơ chế nào bảo vệ họ?
Chính những vấn đề nêu trên đã hạn chế sự tham gia của các nhà
đầu tư tự do, hạn chếhoạt động của thị trường phi tập trung. Các nhà
đầu tư tự do thường chỉ tham gia đầu tưvào các công ty hoạt động
trong lĩnh vực mà họ có sở trường.
Hoạt động nhóm 10
- Với con số hơn 5.000 công ty cổ phần mà chỉ có 26 công ty
niêm yết chính thức, và một số lượng tương tự thường xuyên được
đưa tin trên các thị trường OTC quả là con số vô cùng khiêm tốn - 0,1%
sốcông ty cổ phần hiện nay.
Mặt khác, trên thị trường OTC Việt Nam, các giao dịch diễn ra
rời rạc, không có sự liên kết. Không có bất cứ ai giám sát hay chịu trách
nhiệm. Hay nói một cách khác là hiện tại chưa có những nhà tổ ch ức
thị trường.
Nói chung việc mua bán, gao dịch chứng khoán trên thị trường phi
chính thức thường diễn ra xung quanh những người biết rõ về doanh
nghiệp đó.
Trường hợp những nhà đầu tư mới tham gia vào là rất hạn chế.
Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân chính làm cho th ị
trường OTC ở Việt Nam kém sôi động.
Tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu chiếm một phần rất nhỏ so với tỷ lệ
tiền gửi tại các tổ chức tài chính.
Điều kiện để phát triển thị trường OTC ở Việt Nam :
Thị trường OTC hay ở bất kỳ nền kinh tế thị trường nào luôn
tồn tại một cách khách quan. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra đối với thị
trường OTC ở Việt Nam là với những nền tảng như trên, việc phát
triển thị trường OTC cùng với thị trường chính thức trở thành một kênh
giao dịch chính cho nền kinh tế là điều hết sức.
Để thị trường này phát triển, những vấn đề sau cần được xem
xét để tạo ra một nền tảng cho thị trường phát triển.
Các nhà tổ chức và tạo lập thị trường
Hoạt động nhóm 11
- Để thị trường phát triển lành mạnh, cần phải có các nhà tổ chức
thị trường.
Có như vậy, mới tạo ra tính thống nhất và những nguyên tắc
chung các nhà đầu tư tham gia. Sở nhiều nước, các nhà tổ chức thị
trường thường là hiệp hội của các nhà đầu tư chứng khoá lập nên, tổ
chức hoạt động vì lợi ích của các nhà đầu tư này (trường hợp của Hoa
Kỳ, Đài Loan).
Đối với Việt Nam, nhà nước đang triển khai kế haọch xây dựng
thị trường phí tập trung. Chúng ta cùng xem xét hộp dưới đây và trung
tâm giao dịch chứng khoáng Hà Nội và thị trường phi tập trung ở Việt
Nam.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thị trường OTC ở
Việt Nam. Như vậy, cũng như thị trường chính thức, Nhà nước đã
đứng ra làm nhà tạo lập và tổchức thị trường OTC.
Tuy nhiên, giải pháp này có tạo động lực cho sự phát triển của
thị tường OTC hay không cần phải có thời gian để trả lời.
Hệ thống kế toán và những yêu cầu kiểm toán thể hiện đúng sức
khoẻ của doanh nghiệp. Đối với các công ty niêm yết chính thức, việc
công bố thông phải tuân theo các quy định hết sức chặt chẽ.
Tuy nhiên, đối với các công ty không niêm yết, điều này là không
bắt buộc mà chỉ được khuyên khích.
Chính điều này, cộng với nhựng vấn về mập mờ trong công tác
thuế, đã khuyến khích cac doanh nghiệp làm cho hệ thống sổ sách, báo
cáo kếtoán của mình trở nên không minh bạch là rào cản để việc phát
triển thị trường.
Hoạt động nhóm 12
- Có một hệthống kế toán và các yêu cầu kiểm toán nhằm thể hiện
đúng thực trạng của doanh nghiệp là điều hết sức cần thiết trong việc
phát triển thị trường OTC.
Khi các thông minh bạch, rõ ràng, các nhà đầu tư sẽ cso khả năng
đáinh giá thực trạng công ty một cách tốt nhất.
Tổ chức đánh giá và xếp loại mức độ tín nhiệm của doanh
nghiệp
Có một khác biệt rất lớn giữa các công ty niêm yết trên thị trường
chính thức và các công ty mua bán trên thị trường phi chính thức là yêu
cầu công khai thông tin.
Tất cả các thông tin liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp
niêm yết đều phải được công bố kịp thời, trong khi đối với các ông ty
không niêm yết, điều này là không bắt buộc.
Do đó, để có thểđánh giá các công ty không niêm yết (cũng như
niêm yết) cần phải có một tổ chức đánh giá xếp loại độc lập đảm bảo
các điều kiện sau: Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thị
trường OTC ở Việt Nam
2.2.1.Tính khách quan
Phương pháp đánh giá tín dụng cần phải chặt chẽ, có hệ thống
và phải căn cứ vào các số liệu quá khứ theo một phương pháp đánh giá
nào đó.
Ngoài ra, các kết quả đánh giá cần phải liên tục được rà soát và
điều chỉnh kịp thời theo những thay đổi về tình hình tài chính.
Để được các cơ quan chủ quản ngân hàng công nhận, phương
pháp đánh giá đối với mỗi khu vực thị trường, trong đó có việc đối
Hoạt động nhóm 13
- chiếu lại một cách chặt chẽ (rigorous back testing), cần phải được sử
dụng trước đó ít nhất một năm và nên là ba năm
2.2.2.Tính độc lập
Tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cần phải độc lập và không
chịu các sức ép về kinh tế hoặc chính trị có thể ảnh hưởng đến kết
quả đánh giá. Quá trình đánh giá càng ít bị ảnh hưởng bởi những mâu
thuẫn về lợi ích có thể phát sinh do thành phần của hội đồng quản trị
hoặc cơ cấu cổ đông của công ty gây ra càng tốt.
- Khả năng tiếp cận quốc tế/ Tính minh bạch: Các kết quả đánh
giá cần được cung cấp cho các tổ chức trong và ngoài nước để sử
dụng trong các mục đích hợp pháp và với các điều kiện cung cấp
tương đương nhau. Ngoài ra, phương pháp luận chung để đánh giá tín
dụng của các tổ chức đánh giá cần phải được công khai, hầu h ết các
dự án vay vốn từ WB hoặc ADB đều công khai trên web rõ ràng
phương pháp luận cụ thể để đánh giá một dự án, điều này sẽ tránh
được những che đậy thông tin từ bên phía khách hàng đặt mục tiêu có
nguồn tín dụng bằng mọi giá.
2.2.3. Về việc cung cấp thông tin
Tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cần cung cấp các thông tin
về phương pháp đánh giá, bao gồm các khái niệm về khả năng không
trả được nợ, khoảng thời gian đánh giá, ý nghĩa của mỗi bậc xếp hạng;
tỷ lệ không trảđược nợ trong thực tế ứng với mỗi nhóm xếp hạng; và
xu hướng thay đổi các kết quả đánh giá, ví dụ khả năng từ xếp hạng
AA xuống xếp hạng A theo thời gian.
Các nguồn lực:
Hoạt động nhóm 14
- Một tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cần phải có đủ các nguồn
lực cần thiết để thực hiện việc đánh giá với chất lượng cao. Các
nguồn lực này cho phép các tổ chức này tiếp xúc thường xuyên với cán
bộ quản lý và nghiệp vụ tại các tổ chức đang được đánh giá tín dụng
để bổ sung các thông tin quan trọng cho việc đánh giá tín dụng.
Các kết quả đánh giá cần phải dựa trên sự kết hợp các ph ương
pháp định tính và định lượng.
Nguồn lực thẩm định tín dụng cũng nên làm việc theo nhóm, có
nghĩa là bản thân ngân hàng cũng nên có những chuyên gia đ ộc l ập
thẩm định từ phía nước ngoài nhằm áp dụng cho những dự án qui mô
lớn.
2.2.4. Tính tin cậy
Trong một chừng mực nhất định, độ tin cậy của các kết quả đánh
giá đạt được nhờ các tiêu chí đã nêu trên.
Ngoài ra, lòng tin của các tổ chức độc lập (nhà đầu tư, nhà bảo
hiểm, các đối tác kinh doanh) đối với các kết quả đánh giá của một tổ
chức đánh giá tín dụng độc lập cũng là bằng chứng của độ tin cậy của
các kết quả đánh giá này.
Độ tin cậy của một tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cũng thể
hiện ở việc các tổ chức này sử dụng các quy trình nội bộ nhằm tránh
không cho các thông tin mật được sử dụng sai mục đích.
Để được công nhận, một tổ chức đánh giá tín dụng độc lập
không nhất thiết phải đánh giá các công ty ở hai quốc gia trở lên.
Được biết hiện nay đã có một số tổ chức đứng ra thực hiện
việc phân đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp như Trung tâm thông tin
Hoạt động nhóm 15
- tín dụng (CIC) của Ngân hàng Nhà nước Chương trình Giảng dạy Kinh
tế Fulbright Thị trường OTC ở Việt Nam, các công ty chứng khoán,
trung tâm xếp hạng tín dụng của Vietnamnet.
Nhưng những số liệu các tổ chức này đưa ra mới chỉ là bước
đầu. Ngoài ra uỷ ban chứng khoán nhà nước đang triển khai kế hoạch
hình thành tổ chức này (có thể là một công ty có vốn đầu tư nước
ngoài) và
Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính cũng đang lập kế hoạch thành
lập công ty cổ phần xếp hạng tín dụng độc lập.
Văn hoá công khai và minh bạch trong hoạt động của các doanh
nghiệp Việc có được một hệ thống kế toán và báo cáo tài chính tốt,
một tổ chức đánh giá xếp loại mức độ tín nhiệm độc lập và có các nhà
tổ chức thị trường là điều hết sức quan trọng.
Tuy nhiên, cso một vấn đề hết sức quan trọng làm nền tảng cho
việc phát triển thị trường OTC nói riêng, thị trường tài chính dài hạn là
cần phải có văn hoá công khai và minh bạch.
Tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. Khi mà các doanh nghiệp, công
chúng, không có thói quen chấp nhận việc công khai, minh bạch tình
hình hoạt động của mình sẽ là một rào cản rất để áp dụng h ệ th ống
chuẩn mực kế toán tốt, có thông tin đủ độ tin cậy cho các tổ chức đánh
giá mức độ tín nhiệm xếp loại một cách chính xác doanh nghiệp. Khi
đó, khả năng không thể phát triển hoặc bị sụp đổ của thị trường là
điều rất khó tránh khỏi.
Hoạt động nhóm 16
- Mặt khác, còn một vấn đề nữa mà các doanh nghiệp, nhất là các
công ty cổ phần cần phải chú ý đó là nâng cao hiệu quả của việc quản
trị công ty.
Khi mà quy mô của công ty ngày càng lớn, các chủ sở hữu không
còn đồng thời là những người điều hành trực tiếp doanh nghiệp thì
việc xử lý xung đột giữa người sở hữu và người điều hành cần được
đặc biệt quan tâm.
2.2.5. Những rủi ro thường gặp khi mua bán cổ phiếu OTC
+ Một là, tranh chấp hay thiệt hại về quyền mua cổ phiếu (CP)
mới tăng vốn. Một trong những kỳ vọng lớn nhất về lợi ích của người
mua CP là quyền mua CP phát hành tăng vốn.
Đây là một khoản lợi lớn của người sở hữu CP. Tuy nhiên, thông
thường trước khi phát hành CP tăng vốn, công ty tiến hành chốt danh
sách cổ đông.
Tại thời điểm đó, những ai sở hữu CP nằm trong danh sách cổ
đông của công ty sẽ được mua thêm CP mới.
Với những người mua CP trong giai đoạn giao thời hoặc khi danh
sách cổ đông đã được chốt, nếu không biết thì dù tiền đã thanh toán cho
người bán, CP đã nắm giữ, nhưng chưa làm xong thủ tục chuyển
nhượng, người mua vẫn mất quyền mua, quyền mua CP mới vẫn
thuộc về người bán.
Như vậy, NĐT trên thị trường OTC cần chú ý, phải luôn luôn
thỏa thuận bằng hợp đồng chuyển nhượng với người bán, ghi rõ quyền
lợi mua CP mới tăng vốn thuộc về ai. Loại rủi ro này phổ biến nhất
trên thị trường OTC.
Hoạt động nhóm 17
- + Hai là, tranh chấp hay thiệt hại về cổ tức. Cổ tức được chia
cho cổ đông dựa trên số lượng cổ phần họ đang nắm giữ. Thông
thường, công ty chia cổ tức sau khi kết thúc năm tài chính, một số công
ty tạm ứng cổ tức sau 6 tháng. Rủi ro giao dịch CP ở chỗ, khi mua CP,
người mua không nắm bắt được thông tin, không thỏa thuận rõ ràng
trong hợp đồng chuyển nhượng. Do đó, cũng tương tự như trường hợp
trên, người mua mặc dù nắm giữ CP, nhưng không được nhận cổ tức.
+ Ba là, rủi ro trong mua bán CP chưa được chuyển nhượng. Có
những CP theo quy định nội bộ của công ty, sau 1 năm mới đ ược
chuyển nhượng, nhưng nhiều NĐT không nắm được thông tin nên đã
mua. Và trong thời hạn 1 năm đó, các quyền lợi như mua thêm CP tăng
vốn, nhận cổ tức… vẫn thuộc về người đứng tên sở hữu CP (người
bán), còn người đã bỏ tiền ra mua thì bị chiếm đoạt quyền lợi.
+ Bốn là, rủi ro trong giao dịch nhận chuyển nhượng quyền mua.
Trong các đợt phát hành thêm CP mới để tăng vốn, cổ đông hiện hữu,
cổ đông chiến lược hay CBCNV được quyền mua CP. Khi đó, nhiều
người do không huy động được tiền hoặc vì nhiều lý do khác đã bán
quyền mua CP. Giá bán quyền mua thường thấp hơn giá thị trường thời
điểm đó.
NĐT mới thấy giá thấp, hấp dẫn thường chấp nhận mua. Nhưng
từ khi nộp tiền để mua CP cho đến khi nhận được CP là khoảng thời
gian khá dài, nên đến khi nhận được CP thì CP vẫn đứng tên chủ sở
hữu là người bán.
Khi đó, nếu giá CP đứng yên, giảm hay người bán nghiêm túc,
đứng đắn thì việc làm thủ tục chuyển nhượng không vấn đề gì. Ngược
Hoạt động nhóm 18
- lại, gặp phải người không trọng chữ tín thì dễ dàng bị đánh tháo và hứa
hẹn trả lại số tiền trước kia đã nhận, kèm với lãi suất ngân hàng.
Đề án Quản lý thị trường OTC đã được xây dựng nhằm tạo điều
kiện cho NĐT và doanh nghiệp giao dịch CP minh bạch và hiệu quả
hơn. Qua đó, cơ quan quản lý nhà nước có được thông tin đ ể đ ịnh
hướng và phát triển thị trường. Dự kiến, trong năm nay, TTGDCK Hà
Nội (HASTC) sẽ đưa thị trường các CP OTC vào giao dịch. Theo đó,
các giao dịch được thực hiện tại CTCK. Cuối ngày, CTCK gửi báo cáo
về HASTC để tổng hợp. HASTC sẽ tạo cơ chế để các CTCK thực
hiện giao dịch cho khách hàng.
Một vấn đề quan trọng là NĐT cần trang bị kiến thức về phân
tích và đánh giá CP trước khi ra quyết định đầu tư, họ cũng cần phải
tỉnh táo hơn đối với các tin đồn, tránh bị cuốn theo cơn lốc mua - bán
để rồi cuối cùng có thể sẽ bị thua thiệt.
2.3. Quy mô thị trường
Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê về thực trạng
doanh nghiệp năm 2001-2003, tính đến cuối năm 2002, cả nước có
2.829 công ty cổ phần. Trong đó 557 công ty nhà nước được cổ phần
hoá, 2.272 công ty cổ phần không có vốn nhà nước.
Tổng vốn tự có của các doanh nghiệp này là 20.937 tỷ đồng, gấp
20 lần tổng vốn điều lệ và 10 lần vốn hoá của các công ty niên yết tại
thời điểm đó. Tính đến thời điểm tháng 6 năm 2005, cảnước có gần
2000 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và trên 3000 công ty cổ phần.
Tổng vốn điều lệ của các công ty này hơn hơn rất nhiều lần
khối lượng vốn hoá trên thịtrường chính thức.
Hoạt động nhóm 19
- Đây chính là nguồn cung của thị trường OTC. Hay nói theo cách
của một số người thường nói là thị trường OTC ở Việt Nam rất nhiều
tiềm năng.
Không phải cổ phiếu của tất cả các công ty cổ phần đều được
mua bán, trao đổi thường xuyên mà chỉ có một ít trong số đó được giao
dịch.
Có những loại cổ phiếu gần như không bao giờ được giao dịch,
nhưng có những loại cổ phiếu tuy chưa được niêm yết trên thị trường
chính thức trên sàn, nhưng chúng được giao dịch rất sôi động như cổ
phiếu của các ngân hàng cổ thương mại cổ phần Á Châu, Sài Gòn
Thương Tín, Bánh kẹo Kinh đô, Vinamilk. Đây chính là những cổ phiếu
mà các nhà đầu tư có tổ chức, nhất là các quỹ đầu tư rất quan tâm.
Thị trường phi tập trung ở Việt Nam đang tồn tại là một thực thể
khách quan. Chỉ có thể nói rằng hoạt động của thị trường này còn manh
mún, rời rạc, tổ chức của thị trường này chưa được chặt chẽ, chưa có
người tạo lập và dẫn dắt thị trường chứ không thể nói là Việt nam
chưa có thị trường OTC và Việt nam đang đặt mục tiêu xây dựng đ ến
năm 2010 sẽ có thị trường này như một số người thường nói.
Quy định về mua bán, chuyển nhượng cổ phiếu của các công ty
cổ phần Theo Luật công ty năm 1990 và Luật doanh nghiệp năm 1999,
cổ phiếu của các công ty cổ phần được quyền chuyển nhượng tự do.
Như vậy, cổ phiếu của các công ty cổ phần được giao dịch tự do
và không bị hạn chế bởi bất kỳ một quy định nào. Vấn đề đặt ra là khi
một người nào đó muốn bán hoặc mua cổ phiếu của một công ty cổ
phần nào đó thì họ phải làm như thế nào?
Hoạt động nhóm 20
nguon tai.lieu . vn