Xem mẫu

  1.   ĐỀ TÀI Tìm hiểu nguyên nhân và diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á năm 1997 Giáo viên hướng dẫn : Trần Bá Trí Sinh viên thực hiện :  
  2. Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Mục tiêu nghiên cứu 1.1 Mục tiêu chung Tìm hiểu nguyên nhân và diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á năm 1997. 1.2 Mục tiêu cụ thể - Ngòi nổ và diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á năm 1997. - Tình hình kinh tế của một số quốc gia Châu Á trong cuộc khủng hoảng.. - Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến một số lĩnh vực kinh tế của Việt Nam. - Bài học cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á. 2. Phạm vi nghiên cứu Chuyên đề chỉ giới thiệu nguyên nhân, diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Thái Lan và một số nước châu Á năm 1997 và những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam. GVHD: Trần Bá Trí Trang 1
  3. Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 TÌNH HÌNH TÀI CHÌNH TIỀN TỆ CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA CHÂU Á TRONG CUỘC KHỦNG HOẢNG NĂM 1997 1 . 1 Hình ảnh của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997–1999 ở một số nước Châu Á Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á nổ ra năm 1997 trước hết xuất phát từ Thái Lan. Ngày 2.7.1997, Ngân hàng trung ương Thái Lan tuyên bố thả nổi đồng Baht, chấm dứt một thời kỳ dài duy trì tỷ giá hối đoái gần như cố định so với đồng USD. Tỷ giá hối đoái Baht/USD: năm 1991 là 25,28, năm 1992: 25,19, năm 1996: 25,61 (Bảng 2.1). Ngay khi đồng Baht bị tuyên bố thả nổi, nó đã mất giá 20%. Tháng 1.1998 tỷ giá hối đoái đạt mức 53 Baht/USD. Ngày 11.7.1997, Philippines tuyên bố thả nổi đồng Peso. Ngày 11.8.1997, Malaysia tuyên bố không can thiệp vào thị trường hối đoái (thực chất là thả nổi đồng Ringgit). Ngày 14.8.1997, Indonesia tuyên bố thả nổi đồng Rupiah. Năm 1996, tỷ giá bình quân đồng Won của Hàn Quốc là 884,2 Won/USD thì: ngày 30.9.1997 là 914,8 Won/USD, ngày 14.12.1997 đồng Won được thả nổi. Có thể nói sự mất giá nhanh với quy mô chưa từng có của những đồng tiền Thái Lan, Phillippines, Malaysia, Indonesia và Hàn Quốc là biểu hiện dễ nhận thấy của sự bùng nổ khủng hoảng kinh tế-tài chính ở các nước này. Bảng 1.1 Tỷ giá hối đoái bình quân năm 1996 và 1997 Nước/ Tỷ giá bình quân 1996 1997 Thái Lan 25,61 47,25 Phillippines 26,29 39,50 Malaysia 2,52 3,88 Indonesia 2,308 5 ,400 Hàn Quốc 844,20 695,8 Nguồn: ASEAN University Network(2000), Economic Crisis in Southeast Asia and Korea, Tradition and Modernity Publisher, Seoul, Korea. GVHD: Trần Bá Trí Trang 2
  4. Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 Biểu hiện bên ngoài thứ hai của tình trạng khủng hoảng tài chính tiền tệ là sự thua lỗ và phá sản với tốc độ và quy mô thất thường của hệ thống ngân hàng, tài chính quốc gia, (Bảng 1.2). Bảng 1.2 Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng, tài chính Nước Năm tàiNăm tài chính từ 1.4.1997 đến 31.3.1998 chính Số ngân Số ngân Số ngân Số ngân Tổng số 1.4.1996 bị hàng bị ngân hàng hàng bị hàng bị hàng đến bán cho có vấn đề đình chỉ quốc hữu sát nhập 31.3.1999 công ty hoạt động hóa/ nước Chính phủ ngoài giám sát Thái Lan 108 56 4 64 (59%) Malaysia 41 41 (68%) Indonesia 228 16 56 11 83 (36%) Hàn Quốc 56 16 18 (32%) Nguồn: Fusion Confusion, the Economist, 4.4.1998, P.87. Biểu hiện bên ngoài thứ ba của tình trạng khủng hoảng kinh tế-tài chính là sự thua lỗ và phá sản với quy mô và tốc độ bất thường của doanh nghiệp (Bảng 1.3). Bảng 1.3 Tình trạng thua lỗ và phá sản của các doanh nghiệp Nước Thời gian Số doanh nghiệp phá sản Thái Lan Tháng 1.1998 đến 3.961 doanh nghiệp ngừng hoạt động, trong 5.1998 đó có 592 phá sản Malaysia Năm 1996 489 doanh nghiệp phá sản Năm 1997 6.583 doanh nghiệp phá sản (bằng 13 lần so với 1996) Indonesia Năm 1998 Khoảng 80% doanh nghiệp ngừng hoạt động Hàn Quốc Năm 1997 14.000 doanh nghiệp phá sản Năm 1998 53.000 doanh nghiệp phá sản (gấp 3,8 lần năm 1997) Nguồn: Đình Thơm(1998). “Khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực, nguyên nhân và giải phát”, NXB thông tin KHXH, Hà Nội và Nguyễn Thiện Nhân (2002). “Khủng hoảng kinh tế- tài chính ở châu Á 1997-1999 ”, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM. Sự phá sản của hàng loạt ngân hàng, doanh nghiệp sẽ dẫn đến hai hậu quả trực tiếp là số người thất nghiệp tăng mạnh, và tăng trưởng kinh tế bị giảm sút,(Bảng 1.4). GVHD: Trần Bá Trí Trang 3
  5. Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 Bảng 1.4 Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp khi khủng hoảng kinh tế - tài chính Tăng trưởng kinh tế (%) Tỷ lệ thất nghiệp (%) 1996 1997 1998 1996 1997 1998 Thái Lan 6,7 -0,4 -8,3 Malaysia 8,2 7,0 2,0 Indonesia 7,8 4,6 -13,7 Philippines 5 ,8 5,2 -0,5 9 ,5 10,4 3,3 Hàn Quốc 7,1 5,5 -5,8 2 ,3 2,5 8,0 Nguồn: ASEAN University Network(2000), Economic Crisis in Southeast Asia and Korea, Tradition and Modernity Publisher, Seoul, Korea, tr 21- 25 và Nguyễn Thiện Nhân (2002). “Khủng hoảng kinh tế- tài chính ở châu Á 1997-1999”, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM. Năm 1996, tổng thu nhập quốc gia của Hàn Quốc là 528 tỷ USD, năm 1998 giảm chỉ còn 317 tỷ USD, giảm 39%, thu nhập bình quân đầu người giảm từ 11.380 USD còn 6.823 USD, [6, tr61]. Về mặt kinh tế, khủng hoảng 1997-1999 ở 4 nước Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Hàn Quốc có đặc điểm giống nhau về xu hướng diễn biến của năm tham số: 1. Tỷ giá hối đoái tăng mạnh, ngoài tầm kiểm soát 2. Phá sản hàng loạt các ngân hàng, công tài chính 3. Phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp 4. Thất nghiệp tăng mạnh 5. Tăng trưởng kinh tế tăng mạnh GVHD: Trần Bá Trí Trang 4
  6. Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 1.2 Mô hình “Các nguy cư khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng hoảng kinh tế - tài chính” Sơ đồ 1.1 Mô hình “Các nguy cư khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng hoảng kinh tế - tài chính” Nguồn: Tạp chí Phát triển kinh tế tháng 12 năm 2002 Qua đó ta thấy, khủng hoảng chỉ có thể nổ ra khi bên trong nền kinh tế đã tích lũy bốn nguy cơ khủng hoảng là: - Sự kém hiệu quả của các doanh nghiệp - Sự kém hiệu quả của các ngân hàng, công ty tài chính - Sự lên giá của đồng nội tệ - Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán Và khi bên ngoài có một tác động quyết định là sự rút vốn tài chính của các nhà đầu tư nước ngoài. Khi đồng nội tệ bị lên giá do quốc gia duy trì tỷ giá hối đoái gần như cố định quá lâu, yếu kém về xuất khẩu, giữ lãi suất cho vay trong nước cao hơn lãi suất các đồng tiền mạnh ở nước ngoài, thì trước sau nguy cơ mất khả năng thanh toán sẽ ngày càng GVHD: Trần Bá Trí Trang 5
  7. Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 lớn, khả năng giữ tỷ giá hối đoái cố định sẽ ngày càng suy yếu và việc phải thả nổi đồng tiền nội địa-tức tăng tỷ giá hối đoái chỉ là vấn đề thời gian. Khi một số nhà đầu tư nước ngoài tiên đoán chính phủ nước sở tại sắp hết dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái cố định thì họ sẽ bán tài sản họ đã đầu tư, đổi lấy ngoại tệ mang ra nước ngoài. Lúc đầu, chính phủ các nước thường bán dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá cũ, song đến một lúc nào đó, không còn khả năng bán nữa thì sẽ thả nổi tỷ giá hối đoái. Lúc này các nhà đầu tư nước ngoài chưa bán tài sản (sổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu) thì sẽ tìm cách bán thật nhan và đổi sang ngoại tệ để tối thiểu hóa thiệt hại cho mình. Áp lực này càng làm cho tỷ giá hối đoái tăng vọt. Đó là vòng xoáy khủng hoảng thứ 1, tác động rất nhanh tới tỷ giá hối đoái (Sơ đồ 1.1). Và việc chỉ vài ngân hàng phá sản, sẽ gây tâm trạng lo âu cho người dân gửi tiền tiết kiệm ở các ngân hàng khác, họ sẽ lại chạy đi rút tiền tiết kiệm khỏi ngân hàng, dẫn đến việc cả các ngân hàng làm ăn hiệu quả cũng lâm vào mất khả năng chi trả, phá sản. Đó là vòng xoáy khủng hoảng thứ 3, tác động nhanh (Sơ đồ 1.1). Khi tỷ giá hỗi đoái tăng mạnh dư nợ ngoại tệ của các doanh nghiệp tính bằng tiền nội tệ sẽ tăng vọt, cùng với việc các ngân hàng, công ty tài chính phá sản sẽ không có khả năng cung ứng tín dụng cho các doanh nghiệp hoạt động nữa. Các doanh nghiệp nào hoạt động vốn đã kém hiệu quả, thì giờ đây sẽ không có đủ vốn để kinh doanh, càng sớm bị đảy tới thua lỗ và phá sản. Khi doanh nghiệp thua lỗ thì các ngân hàng, công ty tài chính không đòi được nợ, sẽ càng phá sản nhanh hơn. Đó là vòng xoáy khủng hoảng thứ 4, tác động chậm hơn các vòng xoáy khủng hoảng trước (Sơ đồ 1.1). Khi một nước bị khủng hoảng dẫn tới hậu quả là tỷ giá hối đoái của nước đó tăng mạnh, thì tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu nước đó tăng, làm cho xuất khẩu của các nước có tỷ giá ổn định bị ảnh hưởng xấu. Điều này làm cho cán cân thương mại của nước này bị thâm hụt, khả năng thanh toán quốc gia ngày càng suy yếu. Đây là áp lực buộc các nước này phải phá giá đồng nội tệ để đẩy mạnh xuất khẩu, phòng ngừa khả năng mất thanh toán (Sơ đồ 1.1). Có thể gọi đây là tác động dây truyền của việc phá giá một nước tới các nước khác (Sơ đồ 1.1). Tóm lại, từ mô hình “Các nguy cư khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng hoảng kinh tế - tài chính”, chúng ta nhận thấy khủng hoảng kinh tế tài chính “kiểu châu Á 1997-1999” đã nổ ra với sự kiện bên trong là sự tích lũy 4 nguy cơ khủng hoảng, với GVHD: Trần Bá Trí Trang 6
  8. Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 sự xuất hiện và tác động lẫn nhau của 4 vòng xoáy khủng hoảng) và dưới tác động dây chuyền của phá giá nội tệ (Sơ đồ 1.1). Trình tự xuất hiện của các vòng xoáy khủng hoảng ở mỗi nước, tiến trình khủng hoảng ở mỗi nước có khác nhau, tùy theo hoàn cảnh cụ thể (mức độ tích lũy các nguy cơ khủng hoảng) và chính sách đối phó của mỗi nước. GVHD: Trần Bá Trí Trang 7
  9. Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 CHƯƠNG 2 TÓM TẮT DIỄN BIẾN CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Ở MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á 2.1. Thái Lan –Ngòi nổ của cuộc khủng hoảng. 2.1.1 Tình hình kinh tế Thái Lan trước khủng hoảng Những năm trước năm khủng hoảng kinh tế-tài chính nền kinh tế của Thái Lan phát triển rất tích cực: GDP tăng cao liên tục, xuất khẩu phát triển, lạm phát thấp, ngân sách chính phủ luôn dư thừa và cán cân thanh toán có thể kiểm soát được, đầu tư tăng vọt và tình trạng thất nghiệp hầu như không có.  Các doanh nghiệp hoạt động ngày càng kém hiệu quả Tăng trưởng GDP ở mức cao, kéo dài nhiều thập kỷ, cộng với lãi suất tiết kiệm trong nước cao (bình quân 16,3% năm, trong khi ở Mỹ là 7,6), và tỉ giá hối đoái gần như cố định đã tạo nên một môi trường kinh doanh rất hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt đầu tư tài chính, cho vay ngắn hạn và tín dụng thương mại. Như vậy, các doanh nghiệp trong nước nếu vay vốn trực tiếp từ các ngân hàng, công ty nước ngoài như Mỹ thì chỉ chịu lãi suất bằng ½ lãi suất cho vay trong nước. Nếu các doanh nghiệp tận dụng khả năng sử dụng vốn bên ngoài không quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn vay thì hiệu quả kinh tế sẽ giảm, dù tổng sản lượng có thể tăng. Một điểm đặc biệt ở Thái Lan là trong giai đoạn 1991-1996, đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Thái Lan chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với đầu tư tài chính gián tiếp và sử dụng vốn vay ngắn hạn nước ngoài. Tổng đầu tư trực tiếp thwoif kỳ này là 11,701 tỷ USD, tổng đầu tư trực tiếp của Thái Lan ra nước ngoài là 2,857 tỉ USD, do vậy tổng đầu tư trực tiếp thuần là 8,822 tỉ USD. Trong khi đó, tổng đầu tư tài chính thuần (cổ phiếu, trái phiếu) là 16,4 tỉ USD, và tổng vay ngắn hạn thuần là 60,04 tỉ USD. Như vậy, trong tổng số vốn nước ngoài thuần đã đầu tư vào Thái Lan thời kỳ 1991-1996 là 85,293 tỉ USD thì đầu tư trực tiếp chỉ chiếm 10,36% (8,844 tỉ USD), đầu tư gián tiếp 19,23% (16,404 tỉ USD) và tín dụng, vay ngắn hạn tới 70,4% (60,045 tỉ USD). Việc sử dụng đến gần 90% nguồn vốn nước ngoài ở dạng đầu tư tài chính và tín dụng ngắn hạn sẽ tạo áp lực tài chính rất lớn lên các công ty, vì phải trả nợ thường xuyên và bằng ngoại tệ (với tín dụng ngắn hạn). Hậu quả, là nếu doanh nghiệp kinh doanh không tốt thì hiệu quả ản xuất kinh doanh của các công ty sẽ thấp . GVHD: Trần Bá Trí Trang 8
  10. Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 Thế nhưng , tỉ suất thu hồi hay tỉ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) bình quân của các doanh nghiệp đã giảm từ 8%/năm vào năm 1991 xuống chỉ còn 1%/năm năm vào 1996 . Trong một nền kinh tế mà lãi xuất cho vay là 16,3%/năm còn hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là 1%/năm thì rõ ràng là đang tích lũy nguy cơ khủng hoảng.  Ngân hàng hoạt động ngày càng kém hiệu quả Trước nhu cầu vốn của các doanh nghiệp và do có phần buông lỏng vai trò giám sát hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp đi vay nên các ngân hàng và công ty tài chính của Thái Lan đã rất tích cực vay nợ nước ngoài để tài trợ cho doanh nghiệp trong nước . Tổng nợ nước ngoài so với tổng tài sản nước ngoài mà hệ thống ngân hàng có tăng từ 171% (1991) lên 694% (1996). Đồng thời ROA của hệ thống ngân hàng Thái Lan chỉ còn 0,99%/năm. Rõ ràng Thái Lan đang tích lũy nguy cơ khủng hoảng “ phá sản Ngân hàng”. GVHD: Trần Bá Trí Trang 9
  11. Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 Bảng 2.1. Số liệu kinh tế Thái Lan (diện tích 514.000 km2, dân số 61 triệu người) 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Năm 1991 Tăng trưởng (%) 7,0 7,1 8 ,2 8 ,6 8,7 6 ,7 -0,4 -8,3 1 GDP (a) Baht/USD 25,28 25,32 25,54 25,09 25,19 25,61 47,25 41,3 37,11 7 Lạm phát (%) 5,7 4,1 4 ,6 5 ,1 5,8 4 ,8 5,6 8 ,1 5 ,02 Xuất khẩu (tỷ USD) 28,23 32,1 36,4 44,47 55,4 54,4 56,7 52,9 Nhập khẩu (tỷ -34,22 -36,26 -40,09 -48,2 -63,4 -63,9 -55,3 -40,6 USD) Cán cân thương -5,9 -4,16 -4,3 -3,7 -7,7 -9,5 1,5 12,3 -36,26 mại (tỉ USD) Cán cân tài khoản -7,59 -6,3 -6,36 -8,08 -13,55 -14,69 -3,02 14,3 7 ,2 vãng lai (tỉ USD) Cán cân tài khoản 11,26 9 ,47 10,5 12,17 21,9 19,5 -15,8 -9,5 85,29 vốn (tỉ USD Đầu tư trực tiếp 1,847 1,966 1,571 0,873 1,182 1,405 3 ,344 8 ,844 thuần (tỉ USD) Đầu tư tài chính 9,994 6,584 3,474 8,812 16,644 14,537 -23,51 60,04 thuần (cổ phiếu – trái phiếu, tỉ USD) Đầu tư khác thuần -0,081 0,924 5,455 2,481 4,181 3,544 4 ,361 16,4 (tỉ USD) Nợ nước ngoài (ti 35,99 39,61 45,84 60,99 65,0 89,0 97,0 USD) Nợ ngắn hạn (ti 43,6 45,7 45,6 USD) Dự trữ ngoại tệ (tỉ 18,4 21,2 25,4 30,3 37,0 38,7 27,0 29,5 USD) Đầu tư cố định tính 38,0 39,5 39,9 40,1 42,8 39,8 39,1 40 bằng % GDP (b) ICOR (b/a) 5,4 5 ,56 4,86 4,92 5 ,94 5 ,2 Nguồn : Tạp chí Phát triển kinh tế tháng 12 năm 2002  Quốc gia tiến đến bờ vực mất khả năng thanh toán Trong suốt các năm 1991-1996 , cán cân thương mại của Thái Lan luôn bị thâm hụt, tổng cộng là 35,26 tỉ USD. Thâm hụt tài khoản vãng lai năm 1996 tới 14,7 tỉ USD. Một lí do của tình trạng này là do xuất khẩu bị kìm hãm, nhập khẩu được khuyến khích do tỉ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định (25baht/USD), lạm phát trong nước cao hơn so với ở Mỹ ( 5% so với 3%), đồng baht bị định giá cao hơn so với đồng USD. Để bù đắp thâm hụt thương mại và để có vốn đầu tư bình quân 40%GDP mỗi năm, con GVHD: Trần Bá Trí Trang 10
  12. Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 đường không tránh khỏi là vay tiền nước ngoài (từ các ngân hàng, các doanh nghiệp, nhà đầu tư tài chính, chính phủ các nước). Vì vậy nợ nước ngoài của Thái Lan không ngừng tăng, từ 35,99 tỉ USD năm 1991 lên 89 tỉ USD năm 1996, gấp 2,47 lần trong vòng 5 năm, và bằng 54% GDP Nợ ngắn hạn chiếm: 67% tổng nợ nước ngoài (1995), 51% tổng nợ nước ngoài (1996). Nợ ngắn hạn năm 1995 và 1996 gấp gần 1,18 lần dự trữ ngoại tệ của quốc gia. Tức là Thái Lan thực tế đã mất khả năng thanh toán nợ nước ngoài từ năm 1995. Tức là thực tế TL đã mất khả năng thanh toán nợ nước ngoài từ năm 1995. Nếu các nhà đầu tư Thái Lan cũng phải thả nổi đồng nội địa Baht, thì chính họ sẽ bán cổ phiếu, trái phiếu, đòi nợ ngắn hạn, đổi từ tiền Baht ra USD, làm tăng cầu ngoại tệ đột ngột. Kết quả là tỉ giá hối đoái sẽ tăng, dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, nguy cơ mất khả năng thanh toán của quốc gia sẽ ngày càng cao. Đến tháng 6.1997 nợ nước ngoài của Thái Lan đã bằng 1,5 lần dự trữ ngoại tệ của Thái Lan. Tóm lại, cuối 1996 đầu 1997, Thái Lan đã tích lũy cả 4 nguy cơ khủng hoảng ở mức cao . 2.1.2 Diễn biến khủng hoảng kinh tế-tài chính ở Thái Lan Đầu năm 1997 đến tháng 3 năm 1997: người dân và các nhà đầu tư bắt đầu rút vốn ra khỏi các ngân hàng và các công ty tài chính, chính phủ phải đóng cửa thị trường chứng khoáng ngày 3.3.1997. Chính phủ yêu cầu các tổ chức tài chính phải tăng cường dự trữ tiền mặt, thông báo 10 công ty tài chính ở trạng thái không bình thường (Unico housing Co.Ltd ; Thai-Fuji; Royal International; Sri Dhana; Eastern Finance; County….). Ngày 4 và 5/3/1997: hơn 21,4 tỉ Baht (820tr USD) đã được rút khỏi các ngân hàng và công ty tài chính. 9/4/1997: tỉ giá hối đoái tăng lên mức 26,08baht/USD 25/6/1997: tổng số công ty tài chính bị đóng cửa là 58/91 cty (64%) trên toàn quốc Để giữ tỉ giá hối đoái, chính phủ phải bán ngoại tệ làm dự trữ ngoại tệ giảm mạnh từ 38,78 tỉ USD tháng 6.1996 còn 37.7 tỉ USD vào tháng 12.1996 và còn 31.4 tỉ USD vào 30.6.1997. Nếu mức độ giảm sút dự trữ quốc gia của quý 2 năm 1997 kéo dài thêm khoảng 2-3 quý nữa thì lúc đó dự trữ ngoại tệ quốc gia chỉ còn khoảng 10 tỉ USD , bằng 1/3 mức dự trữ ngoại tệ năm 1996 , và chính phủ sẽ buộc phải thả nổi tỉ giá hối đoái vì GVHD: Trần Bá Trí Trang 11
  13. Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 HOÀN TOÀN không còn khả năng bán ngoại tệ để duy trì tỉ giá hối đoái. Có lẽ thấy trước nguy cơ này , ngày 2.7.1997 chính phủ Thái Lan tuyên bố thả nổi đồng Baht, kết quả là 6.1997: tỉ giá là 25 Baht/USD. Đến tháng 1.1998: tỉ giá là 53Baht/USD (tăng 112% trong 6 tháng). 2.2 Indonesia – Hiệu ứng lan truyền của cuộc khủng hoảng Cuộc khủng hoảng lan san Indonesia khi các nhà xuất nhập khẩu không thể thu hồi được lượng vốn đầu tư từ Thái Lan khiến đất nước khủng hoảng nghiêm trọng, cũng như Thái Lan, Indonesia khởi đầu khủng hoảng cũng từ việc mất giá của đồng Rupiah, tốc độ của nó chẳng khác nào 1 chiếc xe công thức 1, có thời điểm nó mất giá trên 625% (tỷ giá đồng Rupiah/USA tương ứng vào các ngày 2.7.1997; 31.12.1997 và 15.7.1998 là 2430, 4375, 15200). Trong khi đó nợ nước ngoài của Indonesia lên tới 133,67 tỷ USD ( trong đó vay ngắn hạn 29,2 tỷ USD) khiến Indonesia lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, tỷ lệ thất nghiệp tăng 4 lần và 16 ngân hàng và trên 80% daonh nghiệp trên đất nước bị phá sản. Mức lạm phát tính đến tháng 5.1998 là 49,7% 1 tháng sau là 56,7%. Khiến hàng loạt Nhà đầu tư (chủ yếu người Hoa) rút vốn gửi sang Singapore. Cuộc khủng hoảng chính thức bắt đầu tại Indonesia. Sau đó cuộc khủng hoảng bắt đàu lan rộng hơn với các nước Đông Nam Á khác như Malaixia, philipin và cả Singapore cũng bị ảnh hưởng khiến các đồng nội tệ tại các quốc gia này giảm nhanh chống như đồng Pêsô (Philipin), Riggit (Malaixia) giảm khoảng 25%. Và đồng đô la Singapore cũng giảm mức 6% so với trước thời kỳ khủng hoảng. 2.3 Hàn Quốc – Sự sụp đổ của các tập đoàn kinh tế (CHAEBOL) Vào tháng 10.1997 cuộc khủng hoảng bắt đầu tại Hàn Quốc quốc gia có nền kinh tế phát triển vượt bậc và đứng thứ 11 thế giới. Lĩnh vực tài chính ngân hàng của Hàn Quốc bị ảnh hưởng trầm trọng nhất. Trong những năm 1995 tốc dộ tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc là 8.9%/năm một con số kỳ diệu những đến năm 1998 mức tăng trưởng ở mức -0.8% . Dưới sự giúp sức của chính phủ Hàn Quốc các chaebol được hưởng rất nhiều ưu đãi, nhiều khoảng vay được chính phủ tài trợ rất lớn mức vay của chaebol dao động từ 200 đến 1000% số vốn tự có của họ để kinh doanh. Khiến nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào các tập đoàn này, với việc ảnh hưởng giá đồng Won giảm nghiêm trọng trong cuối năm 1996 giảm 36.6% và mức 19.5% vào tháng 10.1997 các tập đoàn này không GVHD: Trần Bá Trí Trang 12
  14. Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 thể tiêu thụ một lượng lớn hàng hóa như điện tử, máy móc…. Khiến họ không có khả năng trả nợ, họ vay ngân hàng nhằm cứu vãn nhưng với mức lãi suất cao 18%/năm nhưng các ngân hàng vẫn không chấp nhận. Dẫn đến tình trạng hàng loạt các chaebol bị phá sản trong đó có 7 trong 30 chaebol lớn nhất tại Hàn Quốc như Hanbo, KIA, Jinro, Dainong…. Với mức nợ lên tới 25,83 nghìn tỷ Won và tổng nợ nước ngoài là 130 tỷ USD. Theo đó mức tín nhiệm của Hàn Quốc cũng bị đánh hạ từ mức AA- xuống A+ . việc huy động vốn trở nên khó khăn vô cùng. 2.4 Nhật Bản – Sự sụt giá của dồng Yên Cũng những nguyên nhân trên cuộc khủng hoảng lan rộng san nền kinh tế đứng thứ 2 thế giới, hậu quả khiến đồng yên giảm từ mức 146,5 yên/USD xuống 145,5 yêm/USD. Nguyên nhân từ sự chậm trễ của chính phủ Nhật bản trước cú sốc là nguyên nhân chính của tình hình dẫn đến tình trạng hàng loạt các ngân hàng tại Nhật Bản bị chao đảo, hàng loạt vụ đỗ vỡ của các doanh nghiêp trong đó có gần 1800 doanh nghiệp bị phá sản. thất nghiệp tăng lên 4.1%. Nợ nước ngoài cảu Nhật Bản đạt mức kỷ lục 14.5 tỷ USD. GVHD: Trần Bá Trí Trang 13
  15. Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 CHƯƠNG 3 TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG ĐẾN CÁC QUỐC GIA CHÂU Á 3.1 Tác động tiêu cực Hậu quả của cuộc khủng hoảng gây ra là quá rõ ràng, toàn diện và hết sức nặng nề. Đó là sực mất ổn định của đồng tiền và cảu thị trường tiền tệ của mỗi nước và khu vực; sự giảm sút các luồng vốn nước ngoài đỗ vào mỗi nước và toàn khu vực; là sự hoạt động đầu tư do mức lãi suất cao và yếu tố lòng tin. Tất cả làm suy giảm nhanh chóng tốc độ tăng trưởng kinh té các nước này và toàn khu vực, tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng (chẳng hạn, tại Thái Lan, Hàn quốc và Inđônêxia tình trạng thất nghiệp tăng gấp đôi so với mức trước khủng hoảng), các khoản nợ ngoại tệ nước ngoài gia tăng. Giá trị đồng tiền bản tệ suy giảm trầm trọng ước tính đã có hơn 20 đồng tiền khác nhau bị giảm giá. Theo đó mà ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu là không thể tránh khỏi trong đó nền kinh tế đứng đầu thế giới giảm 0.5 – 1% trong năm 1998 và hoạt động thương mại toàn cầu suy giảm từ 2 – 3% so với năm 1997. Khủng hoảng đã gây thiệt hại cho các nước châu Á ít nhất 300 tỷ USD khoảng 20% GDP của các nước bị khủng hoảng và thiệt hại chung của nền kinh tế toàn cầu lên đến 500 tỷ USD. Niềm tin của các nhà đầu tư từ khu vực này giảm mạnh, các dòng vốn cũng sụt giảm theo. Ngoài ra, căng thẳng tình trạng bất ổn định về chính trị theo đó gia tăng. 3.2 Tác động tích cực Bất cứ vấn đề nào cũng tồn tại 2 mặt của nó cuộc khủng hoảng này cũng không nằm ngoại lệ: Cuộc khủng hoảng là điểm dừng để mở đầu một giai đoạn phát triển mới đầy triển vọng trong đó nộ tại của cuộc khủng hoảng đã có những thay đổi mới - Với chính sách tỷ giá linh hoạt của các nước sẽ làm giảm thiểu được lượng ngoại tệ can thiệp để giữ giá bản tệ, giúp tăng dự trữ quốc gia về lâu dài - Nhờ vào quá trình trợ giúp của IMF, ADC và một số quốc gia khác giúp gia tăng lượng tín dụng, tăng mối quan hệ giúp định hướng và cải thiện cơ cấu đầu tư, lành mạnh hóa hơn nền kinh tế quốc gia. - Quá tình tự do hóa và toàn cầu hóa được đẩy mạnh. 3.3 Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến một số lĩnh vực kinh tế của Việt Nam GVHD: Trần Bá Trí Trang 14
  16. Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 3.3.1 Tác động chung đến nền kinh tế Việt Nam Cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực diễn ra với nhiều biến động, sâu sắc cả về phạm vi, mức độ và tính chất. Từ chỗ chỉ là cuộc khủng hoảng tiền tệ, kéo theo nó là cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng, tiếp đến là cuộc khủng hoảng tài chính và dần chuyển thành cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc ở một số quốc gia Châu Á trong đó có Việt Nam. Vậy cuộc khủng hoảng này có ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế Việt Nam? Sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, ở VN đã có nhiều cuộc hội thảo khoa học với các quy mô khác nhau, nhưng với cùng một chủ đề lớn là cùng tìm câu trả lời về vấn đề này.Nhưng trong lúc tìm câu trả lời thì lại xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Một số ý kiến cho rằng: VN không chịu ảnh hưởng nhiều của cuộc khủng hoảng vì thị trường tài chính tiền tệ còn sơ khai, còn đóng cửa đối với các nhà đầu tư nước ngoài, đồng tiền VN chưa là đồng tiền chuyển đổi, chưa là đối tượng đầu tư quốc tế; nguồn vốn nước ngoài đổ vào VN phần lớn là vốn vay dài hạn; chế độ quản lý tỷ giá ngoại hối khá linh hoạt và được điều chỉnh kịp thời; việc vay nợ nước ngoài của các doanh nghiệp tuy hiệu quả sử dụng còn thấp nhưng nhìn chung chúng ta vẫn có thể kiểm soát được. Nhưng cũng còn nhiều ý kiến lại cho rằng: cuộc khủng hoảng này đã tác động làm lộ “chân tướng” là các điểm yếu của nền kinh tế với các dấu hiệu tiềm ẩn của mức tăng trưởng giảm, biểu hiện của sự phát triển không ổn định, không vững chắc; tỷ lệ tiết kiệm trong nước đạt thấp, trong đó tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoài cao và sự thay đổi nguồn vốn này sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế, cán cân vãng lai thâm hụt kéo dài. Những điểm yếu này đòi hỏi phải có các toa thuốc hữu hiệu để phòng chữa vì nó rất dể bùng nổ nếu như không kịp thời có biện pháp ứng phó chống lại các tác động của cuộc khủng hoảng đối với toàn bộ nền kinh tế và một số lĩnh vực cụ thể của nền kinh tế. Từ đây ta có thể kết luận VN dù muốn dù không thì vẫn không thể tránh khỏi những tác động trực tiếp và gián tiếp, ngắn hạn và dài hạn, tốt và xấu của nó đến tấc cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước. Minh chứng cho nhận định này như sau: Trước hết, có hai điểm khác biệt chủ chốt ảnh hưởng đến mức độ và phương thức tác động của khủng hoảng đối với VN GVHD: Trần Bá Trí Trang 15
  17. Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 Thứ nhất, các thị trường tài chính VN vừa chưa phát triển vừa kém hoà nhập với các thị trường khu vực và quốc tế Thứ hai, cơ cấu các luồng vốn chảy vào VN có độ an toàn cao gơn do chủ yếu là FDI và ODA. Đồng thời, theo quan điểm của IMF nhận thấy có một số điểm tương đồng khá rõ nét giữa VN với các nền kinh tế đang chịu khủng hoảng trong khu vực: Thứ nhất, VN đang có thâm hụt cán cân vãng lai cao Thứ hai, có sự duy trì ổn định kéo dài tỷ giá VND Thứ ba, có các tín hiệu rõ ràng gia tăng sự căng thẳng trong hệ thống ngân hàng VN Thứ tư, có tín hiệu về sự suy giảm tình trạng tài chính của nhiều doanh nghiệp, trong đó có sự vay nợ đáng kể bằng USD. Ngoài ra, còn có một số điểm dễ nhận thấy khác nữa như độ trì trệ của thị trường bất động sản, sự lúng túng trong chuyển dịch và cải thiện cơ cấu xuất khẩu, tình trạng thất nghiệp khá cao, tình trạng hiệu quả đầu tư xã hội thấp và tình năng động của thị trường chưa cao, các thiết chế thị trường chưa phát triển đầy đủ, tiêu dùng xa xỉ và dự trữ ngoại tệ mỏng.  Đây chính là những “ tiếp điểm” nhạy cảm truyền dẫn và cộng hưởng các tác động tiêu cực của khủng hoảng khu vực đến nền kinh tế VN. Hơn nữa, trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế, nền kinh tế các nước trong xu thế mở cửa, hướng ngoại thì khủng hoảng kinh tế tại một nước, hay một khu vực sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế thế giới nói chung, cũng như từng nền kinh tế riêng biệt. Xét từ nhiều góc độ khác nhau thì bản thân nội tại nền kinh tế nước ta cũng chứa đựng những yếu tố mang tính nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tương tự như một số nước trong khu vực, tuy nhiên mức độ và ở một số lĩnh vực có những điểm khác nhau.Điều đó được rút ra từ việc phân tích, so sánh nền kinh tế của nước ta so với nền kinh tế của các nước khác trong khu vực.  Những điểm giống nhau: Nền kinh tế chúng ta có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao một phần quan trọng là do tốc độ tăng xuất khẩu cao 20-30%/năm, đầu tư nước ngoài tăng mạnh. Mức tăng trưởng GDP chủ yếu phụ thuộc vào nguồn vốn FDI và ODA nên khi nguồn nay giảm GVHD: Trần Bá Trí Trang 16
  18. Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 sút dễ gây những ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế. Nhu cầu vốn nước ngoài liên tục tăng lên trong khi tiết kiệm trong nước ở mức thấp, chỉ chiếm khoảng 17% GDP. Cán cân thanh toán vãng lai bội chi kéo dài trong nhiều năm( từ năm 1992) ở mức cao so với GDP. Thâm hụt cán cân vãng lai và cán cân thương mại gây sức ép đến tỷ giá hối đoái và tăng dư nợ nước ngoài của Việt Nam.Riêng năm 1996 thâm hụt cán cân vãng lai 2 tỷ đô la (chiếm khoảng 10% GDP) và năm 1997 mặc dù đã giảm nhưng vẫn thâm hụt cao (khoảng 1,5 tỷ USD). Theo số liệu ước tính của ngân hàng nhà nước, trong năm 1998 mức thâm hụt cán cân vãng lai có khả năng tăng cao hơn năm 1997 (dự kiến 1,7 tỷ USD). Cán cân thương mại cúng thâm hụt lớn cụ thể năm 1996 (4 tỷ USD), năm 1997 (2,3 tỷ USD), năm 1998 (2,5 tỷ USD). Bội chi ngân sách nhà nước kéo dài. Công cụ thuế chưa được phát huy hết hiệu lực và hiệu quả đối với nền kinh tế, còn thất thu nhiều. Đặc biệt là việc bao cấp cho một số doanh nghiệp nhà nước chưa được giải quyết triệt để, ngân sách thường xuyên bi bội chi gây sức ép lớn đến nhu cầu vốn ngoại tệ từ bên ngoài và lượng dự trữ quốc gia còn eo hẹp. Chế độ tỷ giá ổn định kéo dài nhằm mục đích tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Luồn vốn nước ngoài đổ vào nhiều đã tạo nên sự ổn định tỷ giá và tăng dự trữ ngoại tệ, tuy nhiên lại làm tăng tỷ giá thực của đồng VN và ảnh hưởng xấu tới cán cân thanh toán quốc tế. Mức nợ nước ngoài tăng nhanh là do bình thường hoá quan hệ với các tổ chức quốc tế và tái hoà nhập với cộng đồng tài chính quốc tế. Tuy mức nợ này góp phần dáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế, nhưng về lâu dài gánh nặng nợ này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến cán cân thanh toán và nhuc ầu ngoại tệ để trả nợ đến hạn, nhất là khi các khoản vay nước ngoài sử dụng không hiệu quả, thất thoát hay doanh nghiệp mất khả năng trả nợ. Cơ cấu vốn đầu tư có những dấu hiệu chưa hợp lý. Đầu tư tăng nhanh nhưng tập trung vào một số lĩnh vực nhất định nên đã gây ra những hiện tượng dư thừa như một số lĩnh vực sản xuất sát thép, xi măng, đường. Hệ thống tài chính ngân hàng chưa phát triển phù hợp, còn non yếu trong quản lý dặc biệt trong lĩnh vực thanh tra kiểm soát. Các ngân hàng còn lỏng lẻo trong quản lý GVHD: Trần Bá Trí Trang 17
  19. Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 vốn, chất lượng tín dụng kém, thất thoát, nợ đọng, nợ quá hạn, nợ khó đòi lớn.Ngoài ra trong hệ thống ngân hàng thương mại đã có nhiều hoạt đong tín dụng cho vay thế chấp bất động sản. Hệ quả là khi thị trường bất động sản suy giảm (năm 1996) nhiều doanh nghiêp làm ăn thua lổ mất khả năng thanh toán đã đẩy nhiều ngân hàng rơi vào tình trạng thiếu vốn và tăng gánh nặng thanh toán ngoại tệ đối với các hợp đồng bảo lãnh.  Những điểm khác nhau: Thị trường tài chính tiền tệ của Việt Nam mới ở giai đoạn sơ khai, chưa phát triển đầy đủ để có thể hoà nhập vào thị trường tài chính khu vực. Thị trường chứng khoáng chưa hình thanh, các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu chưa phát triển. Ngoài ra việc đầu tư của nước ngoài vào giáy tờ có giá trong nước vẫn còn bị kiểm soát chặt chẽ chưa được cho phưép nên khả năng đầu cơ gây bất lợi cho tiền dồng Việt Nam được hạn chế. Vì vậy sức ép của việc chuyển vốn ngắn hạn ra khỏi Việt Nam không có và không thể gây ra những cú sốc đột biến. Nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam, chủ yếu dưới dạng đầu tư trực tiếp, thời hạn dài theo các dự án sản xuất nên cac nhà đầu tư nước ngoài cũng không thể lập tức chuyển vốn ra. Chế độ quản lý ngoại hối của Việt Nam tương đối chặt chẽ, kể cả các giao dịch vãng lai và giao dịch vốn, góp phần tạo ra một “ rào chắn” trước những áp lực của luồng ngoại tệ chảy ra ngoài hoặc những hoạt động đầu cơ. Nợ nước ngoài chủ yếu là nợ trung và dài hạn, nợ ngắn hạn không nhiều nên sức ép đột biến từ lĩnh vực này đối với cầu ngoại tệ không mạnh như một số nước Đông Nam Á (có tỷ lệ nợ nước ngoài ngắn hạn rất cao). Ngân hàng nhà nước Việt Nam quản lý việc vay nợ nước ngoài tương đối chặt nên nhìn chung ta vẫn kiểm soát và dự báo được nhu cầu trả nợ từng thời kì. Chính sách tỷ giá từng bước linh hoạt trên cơ sở ổn định giá trị đối nội và đối ngoại, tạo điều kiện cho đông Việt Nam được phản ánh tương đối sát thực với cung cầu ngoại tệ tạo “neo giữ” góp phần kiềm chế lạm phát, một mặt đáp ứng khả năng xuất khẩu. Cụ thể, năm 1986-1998 ta chủ động điều chỉnh tỷ giá để đạt mục tiêu nói trên: từ năm 1986-1990, tỷ giá VND/USD đã tăng dần từ 80đ/USD lên tới 6.500đ/USD, năm 1991 lên tới 12.00đ/USD. Trước khi khủng hoảng kinh tế khu vực xảy ra ta có giải pháp nâng dần tỷ giá chính thức( kể từ cuối năm 1996 đầu năm 1997 và mở rộng biên GVHD: Trần Bá Trí Trang 18
  20. Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 độ giao dịch của ngân hàng thương mại từ 1 đến 5% so với tỷ giá chính thức tháng 2.1997 là 10% và tháng 8.1998 là 7%). Những giải pháp này đã kịp thời góp phần giảm bớt sức ép đối với tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam.Trong khi đó, nhiều nước bị khủng hoảng đã giữ tỷ giá cố định quá lâu, nên đã mất nhiêu dự trữ để can thiệp bảo vệ cho mức tỷ giá đó trước khi phải thả nổi hoàn toàn. Ví dụ: Thái Lan giữ cố định mức tỷ giá 25 Baht ăn 1 USD trong suốt 13 năm và vừa qua bỏ ra hơn 6 tỷ USD để can thiệp. Chính phủ Việt Nam đã sớm có những chỉ đạo kịp thời để ngăn chặn các nguy cơ khủng hoảng có thể xảy ra xuất phát từ những nguyên nhân nội sinh của nền kinh tế, đặc biệt là xử lý các vấn đề chính sách. Giải pháp xử lý nợ quá hạn (1994) và ngăn chặn kịp thời tình trạng mở L/C thanh toán tràn lan (1996) thông qua khống chế mức mở L/C ngắn hạn tối đa đã hạn chế được ảnh hưởng từ lĩnh vực này (tính đến cuối năm 1997 số dư nợ L/C ngắn hạn chỉ còn gần 700 triệu USD so với 1,4 tỷ USD vào tháng 6.1996). Đồng thời chính phủ có các biện pháp xử lý các tài sản thế chấp, giải toả nguồn vốn cho hệ thông ngân hàng. Ngoài ra xúc tiến xây dựng các quy chế, quy định đồng bộ đối với ngân hàng góp phần hoàn thiện hệ thống ngân hàng, đặc biệt 2 Luật ngân hàng và luật các tổ chức tín dụng. Từ phân tích những đặc điểm giống nhau cũng như khác nhau giữa nền kinh tế Việt Nam và một số nước Đông Nam Á , ta có thề thấy những ảnh hưởng cơ bản sau đây của cuộc khủng hoảng nói trên đối với một số lĩnh vực cụ thể của Việt Nam. 3.3.2 Đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng 3.3.2.1 Sức ép giảm gíá đồng Việt Nam trên thị trường hối đoái Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á ngay lập tức đã gây ra sức ép giảm giá đồng Việt Nam do : - Thị trường dự đoán về khả năng khủng hoảng của đồng Việt Nam, dẫn tới tình trạng găm giữ, đầu cơ ngoại tệ. Tâm lý đầu cơ thị trường đã đẩy tỷ giá trên thị trường tự do tăng mạnh ( có thời điểm USD/ VND=14600) - Bên cạnh đó, tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại cũng luôn ở mức trên giao dich cho phép. 3.3.2.2 Ảnh hưởng đến cơ cấu tiền tệ gửi tại ngân hàng Cuộc khủng hoảng đã gián tiếp tác động tới cơ cấu tiền gởi giữa dồng Việt Nam và ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng.Tiền gởi bằng đồng Việt Nam có xu hướng tăng chậm , trong đó tiền gởi bằng ngoại tệ tăng khá nhanh kể cà tiền gởi tiết kiệm ngoại tệ GVHD: Trần Bá Trí Trang 19
nguon tai.lieu . vn