Xem mẫu
- Trang1
- ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN : PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA
KHU VỰC HỌC
I. Sự ra đời và phát triển của khu vực học
Trước đây việc nghiên cứu khu vực phân bố các nền văn minh, văn hóa dân
tộc, các không gian xã hội dựa trên bộ môn địa lí nhân văn. Sau này khi nghiên
cứu lên ngành được mở rộng nhiều bình diện khác nhau của khu vực được phân
tích theo địa - văn hóa, địa - lịch sử, địa chính trị, địa - kinh tế, đ ịa - văn học gắn
con người và cuộc sộng cộng đồng trong một khuôn viên nhất định, "một khoảng
xác định chứa đựng tất cả các sinh vật nằm trong đó". Cho nên việc quan
tâm đến những mối liên kết của các quốc gia trong xu thế khu vực hóa và toàn
cầu hóa là cần thiết
Như vậy để đề cập đến khái niệm cơ bản là không gian văn hóa - một không
gian mang tính tổng thể, không gian sống của các cộng đồng người để giải thích
đồng thời các thiết chế kinh tế xã hội, gia đình, tôn giáo trên khuôn viên địa lí môi
trường với những mối tương tác giữa con người với tự nhiên và xã hội (không
gian vũ trụ, không gian tâm thức, không gian tâm lí).
Để đám ứng nhu cầu nhận thức thế giới tự nhiên và xã hội khoa học đã phát
triển theo hướng phân chia thành ngành và chuyên ngành cùng sự phát triển của
khoa học liên ngành. Từ đó khu cực học cũng bắt đầu hình thành và phát triển.
Đề tài bước đầu tổng hợp những điểm khác biệt đang được thảo luận và
kiểm chứng về khái niệm khu vực với nhiều cấp độ khác nhau. Nội dung nghiên
cứu khu vực học bao trùm các đặc trưng về lịch sử, chính trị học, xã hội học,
nghiên cứu văn hóa, ngôn ngữ, địa lý, văn học,... của khu vực nghiên cứu. Quan
điểm tổng hợp, toàn cục với phương pháp tiếp cận liên ngành là tiếp cận nổi bật
Trang2
- của nghiên cứu khu vực học.
Quá trình chuyển biến từ nghiên cứu khu vực cổ điển sang nghiên cứu khu vực
hiện đại trên phạm vi thế giới chỉ chính thức diễn ra từ sau chiến tranh thế giới
II, với sự chuyển dịch trọng tâm từ các nước Anh, Pháp sang nước Mỹ và muộn
hơn sau đó là Nhật Bản. Nghiên cứu khu vực hiện đại hình thành và phát triển ở
Mỹ và Nhật chính là do một nhu cầu nội tại của mình và một sự thay đổi cách
nhìn và cách tiếp cận.
Ở Việt Nam, nghiên cứu khu vực chính là sự đáp ứng hữu hiệu và cần thiết
những nhu cầu phát triển quốc gia và hội nhập quốc tế. Đó là cách tốt nhất để
thấu hiểu một cách tổng thể và sâu sắc về chính đất nước và con người Vi ệt
Nam, làm cơ sở cho sự phát triển bền vững của đất nước.
II.Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu cơ bản của khu vực học là phương pháp liên
nghành, đa ngành và xuyên ngành, dựa trên thành tựu của nhiều ngành khoa học
khác nhau để khám phá đối tượng
1.Các chuyên nghành khoa học xã hội và nhân văn và nghiên cứu khu vực
Sự phân ngành của các ngành khoa học xã hội và nhân văn những năm 90 của thế
kỉ XVIII bắt đầu diễn ra sự phan chia các chuyên ngành nghiên cứu khoa học xã
hội, phù hợp với sự hiểu biết của con người. Người ta cho rằng, mỗi chuyên
ngành tường có sự tương ứng với một lĩnh vực nào đó của thế giới và chúng
được coi là những chỉnh thể có thể và nên được nghiên cứu độc lập. Các chuyên
ngành này được xác định ranh giới với nhau và tồn tại một cách bình đ ẳng. Trên
cơ sở đó, chúng tao ra được những thành tựu khoa học vô cùng đồ sộ, tạo ra
những khối tri thức cơ bản, hình thành nên bộ khung chương trình chủ yếu của
tai liệu nghiên cứu.
Mỗi chuyên nghành hình thành cho mình những chương trình, khái niệm, nội
Trang3
- dung,lý thuyết, phương pháp nghiên cứu,những lĩnh vực chuyên sâu và các tiêu
chuẩn học lực riêng biệt. Sự phân chia và chuyên sâu một cách sâu sắc trong nội
bộ các chuyên nghành đã làm giảm đi tính toàn diện và tính thống nhất của chúng.
Ngày càng có nhiều người nhận thức ra rằng: Tất cả các ngành khoa học đều có
quan hệ với nhau, tương tác lẫn nhau, định hình lẫn nhau và không thể ngiên cứu
một cách riêng lẻ.
Bằng việc vận dung cách tiếp cận liên ngành và phương pháp nghiên cứu đa
dạng để hiểu được các nền văn hóa và xã hội khác nhau, các học giả khu học đã
biện luận rằng những hình thức mới của tri thức đòi hỏi phải có những bộ khung
kiến tạo tri thức mới. Họ đã thách thức tính cục bộ của các khoa chuyên nghành
trong việc khép kín những quy trình nhận thức.
Tuy nhiên trong giai đoạn đầu, phương pháp nghiên cứu khu vực học cũng có một
số hạn chế :
+ Phương pháp này bị coi là không có tính chuyên môn, không thực sự mang tính
học thuật, nên thường phải chịu địa vị thấp kém trong các cơ quan nghiên cứu
+ Các học giả khu vực học đều bắt đầu từ chuyên nghành xã hội và nhân văn
truyền thống như sử học, ngôn ngữ học, văn học, xã hội học, ví như vừa là
chuyên gia ngôn ngữ học vừa là chuyên gia Việt Nam học hoặc vừa là nhà sử học
đồng thời là nhà nghiên cứu khu vực học... Thực tế đó đã ảnh hưởng đáng kể
đến sự tồn tại độc lập và bản chất của bộ môn khoa học này
2.Phương pháp liên ngành
Liên ngành (Inter-disciplinarity hay Inter-disciplinary) là một thuật ngữ
được tạo bởi hai từ inter và disciplinarity hay disciplinary. Inter có nghĩa là ở
giữa (between) hay liên kết (connecting). Chẳng hạn, international là những gì
thuộc về hai hay nhiều nước. Tương tự như vậy, disciplinarity là môn học hay là
ngành học. Và như vậy, inter-disciplinarity là sự liên kết các môn học, các ngành
học. Thông thường, mỗi chuyên ngành có một đối tượng nghiên cứu riêng và
thường giải quyết những vấn đề chuyên biệt của ngành mình. Tuy nhiên, như đã
Trang4
- đề cập ở phần trên, nhu cầu nhận thức của con người đặt ra vấn đề cần phải
liên ngành để giải quyết nhiều vấn đề của thực tiễn. Khái niệm liên ngành trong
bài viết này sẽ được xét đến trên quan điểm của các nhà nghiên cứu khoa học xã
hội và nhân văn nói chung và các nhà nghiên cứu khu vực nói riêng.
Về phương diện lịch sử của khái niệm này, theo R. J. Ellis , liên ngành,
theo ý nghĩa chung nhất của nó, thực chất đã được nêu ra và bàn đ ến từ khoảng
giữa những năm 1920. Những tài liệu như vậy hiện vẫn được Hội đồng nghiên
cứu Khoa học Xã hội Hoa Kỳ (United State’s Social Science Research Council -
SSRC) lưu giữ. Vào thời gian ấy, SSRC đã mong muốn thúc đẩy việc nghiên cứu
những vấn đề liên quan đến không chỉ một ngành. Có lẽ đây cũng không phải là
một điều đáng ngạc nhiên vì vào thời gian đó, khoa học xã hội đã khá phát triển
về phạm vi và cần đến sự hợp tác của các học giả từ nhiều chuyên ngành khác
nhau. Theo những luận bàn thời đó, liên ngành đã được hiểu như là “một cách
tiếp cận trong nghiên cứu khoa học xã hội trong đó có sự hợp tác của từ hai
ngành khoa học trở lên”. Nội dung khái niệm này sau đó cũng được mở rộng
nhanh chóng. Margaret Mead 1 năm 1931 gọi đó là sự hợp tác (co-operation), sự
thụ tinh chéo (cross-fertilization) trong khoa học xã hội. Từ những cách hiểu ban
đầu đó, việc sử dụng khái niệm liên ngành đã ngày càng trở nên thông dụng, đặc
biệt là trong hơn hai chục năm cuối thế kỷ XX vừa qua và những năm đầu tiên
của thế kỷ XXI này.
Có thể nhắc đến một vài cách hiểu về liên ngành như sau:
Thứ nhất, liên ngành là một loại hình hợp tác học thuật trong đó các nhà
chuyên môn được lấy từ hai hay nhiều chuyên ngành khác nhau cùng làm việc với
nhau để cùng đạt đến những mục tiêu chung trong nhận thức đối tượng nghiên
cứu .
1
Margaret Mead là một nhà nhân học Mỹ nổi tiếng với những nghiên cứu điền dã t ại Samoa vào nh ững
năm 1920, bà thuộc thế hệ các nhà nhân học đầu tiên thực hiện nghiên cứu điền dã và liên ngành đ ể
nghiên cứu đời sống của trẻ em nữ đến tuổi trưởng thành tại đảo Samoa, nam Thái Bình Dương, năm
1925-1926.
Trang5
- Thứ hai, một số quan điểm khác cho rằng liên ngành không chỉ là sự liên
kết giữa các chuyên gia từ các ngành khác nhau mà có khi còn là việc sử dụng
đồng thời ít nhất hai phương pháp nghiên cứu chuyên ngành trở lên , các phương
pháp này tồn tại trên nguyên tắc là phải có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ lẫn
nhau và bình đẳng với nhau về vai trò và nhiệm vụ trong nhận thức đối t ượng
nghiên cứu.
Liên quan đến việc định nghĩa thế nào là liên ngành, cần phân biệt rõ liên
ngành với đa ngành (multidisciplinary). Theo R.J.Ellis, sự khác biệt này chủ yếu
ở hướng tiếp cận. Tiếp cận đa ngành nhấn mạnh việc sử dụng các phương pháp
và quy trình của nhiều chuyên ngành khác nhau một cách riêng biệt và độc lập,
trong khi đó tiếp cận liên ngành lại tìm cách liên kết, thiết lập những mối quan
hệ qua lại, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa những hệ phương pháp và quy
trình của nhiều chuyên ngành khác nhau.
a) Liên ngành trong nghiên cứu khu vực
Sự phát triển của khoa học đã chứng minh những ưu thế của hướng tiếp
cận chuyên ngành về tính rõ ràng, về khả năng phục vụ việc nghiên cứu chuyên
biệt. Tuy nhiên, trong lịch sử nghiên cứu khu vực, các thành tựu nghiên c ứu cũng
lại cho thấy rằng để đi đến nhận thức về một khu vực, hướng tiếp cận liên
ngành có lợi thế vượt trội so với tiếp cận chuyên ngành ở chỗ: thứ nhất, nó có
thể tích hợp được những kết quả của các nghiên cứu chuyên ngành về một khu
vực để nhận thức tổng hợp về khu vực đó, và thứ hai, nó có thể khai thác những
khía cạnh của tri thức mà các chuyên ngành, do yêu cầu phải thiết l ập và duy trì
sự khác biệt với những chuyên ngành khác, có thể bỏ qua. Khu vực học có thể
giúp các khoa học chuyên ngành vượt qua tính cục bộ của chúng. Tuy vậy, điều
này cũng hàm chỉ những khó khăn không tránh khỏi của hướng tiếp cận liên
ngành, đó là tiếp cận liên ngành cần phải được dựa trên những hiểu biết sâu sắc
Trang6
- về những chuyên ngành mà nó liên kết. Do đó, thứ nhất, nó chỉ có thể được thực
hiện bởi những người có trình độ cao; và thứ hai, nó khó có thể thực hiện đ ược
chỉ bởi một nhà nghiên cứu. Vì vậy, một trong những đặc điểm của nghiên cứu
liên ngành là thường đòi hỏi phải nghiên cứu theo nhóm. Tất nhiên, điều này sẽ
trở thành một tham vọng khó đạt được khi người ta quá cầu toàn về một kết quả
nghiên cứu hoàn hảo theo hướng tiếp cận này.
Trong giới nghiên cứu khu vực, cách quan niệm về liên ngành chưa hẳn đã
thống nhất, cho dù sự khác biệt trong cách dùng thuật ngữ này, theo Campbell
John [7], có thể rất tinh tế. Điều này được ông chỉ ra trong bài phát biểu t ại Hội
thảo Quốc tế khu vực học Mỹ - Nhật tổ chức tại Tokyo năm 1995. Theo ông, các
chuyên gia khu vực học ở cả hai nước đều thống nhất - một cách tự nhiên - rằng
các quốc gia hay các khu vực mà họ nghiên cứu cần phải được nhận thức bằng
cách tiếp cận mang tính tổng thể và toàn diện (holistic approach) . Hơn nữa, do
những vấn đề thực tiễn đặt ra, cũng là theo xu thế phát triển của khoa học, các
chuyên gia đều có một khuynh hướng chung là phải xoá nhoà ranh giới của các
cách tiếp cận chuyên ngành bằng cách tiếp cận liên ngành. Tuy nhiên, đó ch ỉ là
quan điểm chung mang tính hướng đạo. Đi vào cụ thể hơn thì việc hiểu nội dung
khái niệm liên ngành ở hai quốc gia này không dễ dàng thống nhất như vậy. Ngay
trong bản thân giới khoa học của từng nước đã có sự không thống nhất. Chẳng
hạn, ở Mỹ, các nhà nghiên cứu khu vực và các nhà nghiên cứu chuyên ngành đã
không có đủ thiện chí để cùng thảo luận về vấn đề này. Các nhà khu vực học
Mỹ cho rằng “liên ngành” ở đây đề cập đến sự áp dụng đồng thời các lý thuyết
và phương pháp, là tận dụng các thế mạnh từ các khoa học chuyên ngành. Tuy
nhiên, các nhà khoa học chuyên ngành thuần tuý lại không đồng ý như vậy. Họ
cho rằng thành quả nghiên cứu của các nhà khu vực học chỉ như là một sự đào
xới lên những vấn đề lạ lẫm và kỳ quặc hơn là việc tận dụng và phát triển các
thế mạnh sắc bén của các khoa học chuyên ngành. Để đáp lại, các nhà khu vực
học biện luận rằng bằng việc triển khai nghiên cứu trên những địa hình xa lạ, họ
Trang7
- đã có những đóng góp quan trọng trong việc thử nghiệm những lý thuy ết vẫn bị
xem là kém ứng dụng. Tuy nhiên, những lý thuyết đó là gì thì họ lại không chỉ ra
được. Tình hình như vậy ở Mỹ thực ra cũng không phải là cá biệt. Các nước
khác, ngay cả Việt Nam ta cũng có một thực tế tương tự. Các nhà khu vực học
Nhật Bản thì lại biểu hiện sự hoài nghi không dấu diếm về ngay chính bản thân
những lý thuyết của cách tiếp cận này. Điều này thậm chí bị đẩy đến mức cực
đoan khi họ giải thích liên ngành giống như là không có ngành gì.
Liên ngành trong các nghiên cứu khu vực, theo chúng tôi, không hoàn toàn
giống nhau và không theo một mô hình chung duy nhất, nó phụ thuộc rất nhiều
vào đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu ở đây có thể chia thành hai loại
và tương ứng với nó là hai kiểu nghiên cứu liên ngành khác nhau:
Loại 1: nghiên cứu để nhận thức và phát hiện ra bản chất hay tính đặc
trưng của một khu vực. Loại này có thể gọi là nghiên cứu cảnh quan. Tương
ứng với loại đối tượng này là cách tiếp cận liên ngành theo nhóm, tạm gọi là liên
ngành kiểu 1.
Loại 2: nghiên cứu một vấn đề nào đó của một khu vực. Chẳng hạn,
nghiên cứu lịch sử của một làng Nhật Bản, hay nghiên cứu những vấn đề di dân
thời hiện đại ở Châu Đại Dương… Đối với các vấn đề kiểu này, các nhà nghiên
cứu trước hết phải là người có chuyên môn sâu về một chuyên ngành mà vấn đề
nghiên cứu đề cập đến như lịch sử hay xã hội học chẳng hạn và họ sẽ nghiên
cứu các vấn đề trên bằng phương pháp liên ngành trong khu vực học. Tuy nhiên,
cách nghiên cứu này không giống với kiểu 1 mà sẽ có những đặc trưng riêng, tạm
gọi là liên ngành kiểu 2.
Đối với cả hai loại liên ngành trên, phương pháp nghiên cứu đặc trưng
đều là nghiên cứu trên thực địa hay nghiên cứu điền dã (field research, field work)
với một yêu cầu tối cao là sự thuần thục tiếng bản địa và phải trải nghiệm trong
cuộc sống chung với dân bản địa. Cũng có quan niệm cho rằng nhà nghiên c ứu
không nhất thiết phải nghiên cứu trên thực địa mà có thể nghiên cứu qua văn bản
Trang8
- hoặc khảo cứu các loại thư tịch. Thoạt đầu, quan niệm này không có nhiều ý
kiến không tán thành, đặc biệt là trong thời kỳ hoàng kim của nền Đông phương
học châu Âu. Tuy nhiên, khu vực học càng phát triển, người ta càng đòi hỏi s ự
trải nghiệm của nhà nghiên cứu tại khu vực họ nghiên cứu. Một nhà nghiên c ứu
khu vực người Mỹ, David L. Szanton, đã nêu khái niệm khu vực học như sau:
“hiểu một cách rõ ràng nhất thì khu vực học là một nhóm gồm nhiều lĩnh vực và
hoạt động học thuật với những đặc điểm chung sau đây: (1) nghiên cứu sâu về
ngôn ngữ; (2) nghiên cứu điền dã sâu sắc bằng tiếng bản địa; (3) nghiên cứu kỹ
các sự kiện lịch sử địa phương, các quan điểm, các tài liệu, các tri thức về địa
phương; (4) kiểm tra, thảo luận, phê phán hay phát triển các lý thuyết cơ bản
dựa trên những quan sát cụ thể; và (5) có những thảo luận liên ngành liên quan
đến nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn” [2]. Cách giải thích trên chứa
đựng hàng loạt các ý niệm về đối tượng và phương pháp nghiên cứu, đặc biệt là
phương pháp nghiên cứu của ngành khoa học này. Nó giống như một đường
hướng nghiên cứu được đông đảo giới nghiên cứu khu vực không chỉ ở Mỹ mà ở
nhiều nước khác chấp nhận.
Không những thế, các nhà khu vực học cấp tiến còn đòi hỏi mọi sự kiện
tại khu vực phải được nhìn nhận và đánh giá từ điểm nhìn của người trong cuộc.
Tất nhiên, điều này đôi khi bị coi như một đòi hỏi khắt khe, đặc biệt là đối với
những học giả đã bị điểm nhìn “châu Âu trung tâm” chi phối toàn bộ sự nghiệp
nghiên cứu. Hơn nữa, việc quen vận dụng hệ thống khái niệm, những mô hình lý
thuyết vốn ra đời trong cảnh huống phương Tây để nghiên cứu những phần còn
lại của thế giới đôi khi khiến họ phải vật lộn để tự đứng vững trước những đòi
hỏi của nền khu vực học hiện đại.
Đó là những vấn đề phương pháp luận chung cho cả hai loại liên ngành
trên. Đi vào cụ thể, mỗi loại lại có những đặc trưng riêng. Chẳng hạn, việc
nghiên cứu liên ngành theo nhóm :
loại 1 có một quy trình nghiên cứu đặc trưng mà nghiên cứu khu vực kiểu Nhật
Trang9
- Bản là một hình mẫu. Theo quy trình này, phương pháp liên ngành thường đ ược
thực hiên theo 3 giai đoạn:
1. Đa ngành với các lĩnh vực nghiên cứu độc lập, cho ra kết quả độc lập;
2. Hợp tác các ngành với việc trao đổi kết quả;
3. Liên ngành với việc nghiên cứu toàn thể của cả nhóm, tổng hợp kết quả của
các lĩnh vực để phát hiện đặc trưng bản chất của khu vực .
Loại 2 thường do cá nhân các nhà nghiên cứu thực hiện với đối tượng chung là
một vấn đề nào đó của khu vực. Đặc tính liên ngành của loại này thể hiện ở
việc lý giải các sự kiện của khu vực trên nền tảng tri thức tổng hợp về khu vực
đó, trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và hoàn c ảnh
lịch sử cũng như trong sự so sánh với các khu vực khác. Đây là mô hình liên ngành
trong nghiên cứu khu vực đặc trưng kiểu Mỹ.
Tuy nhiên, liên ngành trong nghiên cứu khu vực cũng đặt ra hàng loạt các
vấn đề phải giải quyết và chúng tôi tin rằng để có thể giải quyết chúng, các nhà
khu vực học cũng sẽ phải tốn không ít giấy mực. Đó là những vấn đề chẳng hạn
như: cán cân giữa các chuyên ngành trong hoạt động liên ngành sẽ phải như thế
nào? (Ví dụ: các nhà khu vực học Nhật Bản thì có khuynh hướng nghiêng về
nhân học, trong khi đó các nhà khu vực học Mỹ lại có khuynh hướng nghiêng về
sử học và khoa học chính trị…). Rồi, các chuyên ngành có nên được liên kết với
nhau một cách bình đẳng hay không? Hay, cần phải có tri thức đến đâu về các
chuyên ngành để có thể liên kết chúng lại một cách có hiệu quả? … Và có lẽ sẽ
còn vô số các vấn đề khác nữa sẽ nảy sinh mà chúng ta, khi mới thực hiện ở
những bước đầu, sẽ không thể hình dung ra hết.
b) liên ngành về lý thuyết - một chỗ dựa vững chắc cho Khu vực học
Các khía cạnh khác nhau của khái niệm liên ngành như đã dẫn đều nhắc
đến sự liên kết của các nhà chuyên môn, của các phương pháp nghiên cứu. Tuy
nhiên, một khía cạnh quan trọng sự là sự liên kết những mô hình lý thuyết thì
Trang10
- không được đề cập rõ ràng cho dù điều này có ảnh hưởng sống còn đ ến s ự tồn
tại vững chắc của khu vực học. Về mặt triết học, có những mô hình lý thuyết có
khả năng làm chỗ dựa để lý giải nhiều vấn đề thuộc nhiều chuyên ngành khoa
học xã hội và nhân văn khác nhau và cũng có những mô hình lý thuyết là riêng của
một chuyên ngành nào đó. Bên cạnh những phương pháp nghiên cứu đặc thù,
những mô hình lý thuyết luôn luôn được xem là thước đo cơ sở tồn tại của bất
kỳ một bộ môn khoa học nào, cũng như là thước đo tính chuyên nghiệp và chất
lượng khoa học của bất kỳ một công trình nghiên cứu nào. Một trong những
nguyên nhân khiến khu vực học luôn phải chịu đựng những búa rìu học thuật là
do nhiều nhà khoa học vẫn khăng khăng buộc tội rằng khu vực học chỉ mang tính
ghi chép và mô tả, thiếu phân tích, không có lý thuyết dẫn đường, đi ngược lại
tính chất khái quát hóa của các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn then
chốt, dù có hấp dẫn đến mấy thì nó cũng chẳng có đóng góp gì trong vi ệc ki ểm
chứng và phát triển những lý thuyết khoa học. Về cơ bản, tất cả các nghiên cứu
văn hóa, xã hội không thể tránh khỏi việc phải dựa vào một hay một số mô hình
lý thuyết nào đó để giải thích những mối quan hệ, những đặc tính bản chất c ủa
đối tượng nghiên cứu. Nếu không có một nền tảng lý thuyết chặt chẽ và hợp lý,
nhà nghiên cứu sẽ không biết phải tìm kiếm những gì, giải thích chúng ra sao,
trình bày chúng với tư cách là kết quả nghiên cứu như thế nào để thể hiện đó là
kết quả của một sự nhận thức khách quan và khoa học. Để đáp lại những kết
luận bi quan của không ít các nhà khoa học về việc khu vực học thiếu hẳn những
mô hình lý thuyết cơ bản dẫn đường, rồi liên ngành trong khu vực học có nghĩa là
không có ngành gì cả (interdiscipline is nondiscipline) , chúng tôi thấy rất cần
phải tìm kiếm những cơ sở tồn tại vững chắc hơn cho bộ môn khoa học này.
Sự phát triển của khoa học trong thế kỷ XX vừa qua cho thấy những lý
thuyết chính trị, xã hội và văn hóa khác nhau đã trở thành mối quan tâm chung của
các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn truyền thống. Điều này đã khuyến
khích các học giả mở rộng sự trao đổi với nhau giữa các chuyên ngành. Nhưng
Trang11
- nhiều học giả cũng nhận thấy, thậm chí công khai phát biểu rằng “phần lớn
những gì cố tỏ ra mang tính liên ngành đều che giấu một nền tảng không vững
chắc…” . Và một trong những yếu tố quan trọng cấu thành nền tảng đó chính là
những mô hình lý thuyết. Việc điểm qua những mô hình lý thuyết đã đ ược các
nhà khu vực học áp dụng để giải thích tính đa dạng của thế giới có thể sẽ trở
thành những gợi mở có ý nghĩa đối với quan niệm về lý thuyết trong khu vực học
cũng như đối với khả năng xem xét việc có thể hay không thể tích hợp những mô
hình lý thuyết chung, vận dụng chúng một cách linh hoạt cho thích hợp với cách
nhận thức thế giới của bộ môn khoa học này. Xin nói ngay, trong bài viết này,
chúng tôi không có ý định luận bàn về tính đúng - sai, về năng l ực giải thích, v ề
sự hợp thời hay lỗi thời, về hạt nhân hợp lý hay không hợp lý và tất cả những
vấn đề tương tự của các lý thuyết mà các chuyên gia khu vực học đã từng, và có
thể, sẽ áp dụng. Mục tiêu của chúng tôi chỉ là điểm lại các mô hình lý thuyết để
bảo vệ cho khu vực học trước những cái nhìn bi quan về chỗ dựa của ngành khoa
học này.
Chúng ta vẫn biết, các chuyên gia khu vực học hầu hết đều xuất phát từ
các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn cơ bản. Việc họ vận dụng những
lý thuyết, những cách tiếp cận và kỹ năng nghiên cứu của ngành mình trong
nghiên cứu khu vực là một lẽ tất nhiên. Đầu tiên, một nhà khu vực học là (hay
giống như là) một nhà nhân học nghiên cứu về một khu vực nào đó. Nếu hiểu
được sự khởi đầu này, sẽ không có gì đáng ngạc nhiên nếu giới học thuật gọi,
chẳng hạn, B. Manilowski (2) hay Margaret Mead khi thì là nhà nhân học, khi thì là
nhà khu vực học. Thậm chí Lewis Morgan, tác giả của tác phẩm “Xã hội cổ đại”,
một trong những nhà nhân học đầu tiên thì cũng đồng thời đ ược coi là nhà khu
vực học đầu tiên trong quan niệm của một số nhà khoa học. Thực tế cũng cho
thấy các nghiên cứu khu vực ban đầu đều dựa trên những mô hình lý thuy ết c ủa
nhân học để giải thích tính đa dạng của thế giới.
B. Manilowski, nhà nhân học - khu vực học, người đầu tiên áp dụng phương pháp nghiên c ứu thực đ ịa
2()
để nghiên cứu đời sống của người dân trên hòn đảo Trobriand ở Tây Thái Bình Dương, năm 1914-1916.
Trang12
- Thuyết vị chủng hay tư tưởng sinh học về chủng tộc là một trong những
mô hình giải thích đầu tiên, rất thịnh hành trong khu vực học ở các nước phương
Tây thời kỳ đầu, cho dù bị coi là một học thuyết phản động. Hạt nhân của học
thuyết này là niềm tin cho rằng tổ chức, tập tục, văn hóa của xã hội mình (xã hội
của người châu Âu da trắng) là văn minh hơn cả còn của các xã hội khác là không
bình thường, thậm chí kỳ quặc và đáng ghê tởm. Học thuyết này đặc biệt có uy
lực trong các xã hội thuộc địa bởi nó đã tự nhiên hóa tất cả các bất bình đ ẳng
giữa người với người. Trong khoa học, nó đã thống trị toàn bộ nền Đông phương
học châu Âu vốn vẫn được coi là một hình thức sơ khai của khu vực học. Tuy
nhiên, trong thời hiện đại, các nhà khoa học tiến bộ đều hiểu rằng các đặc điểm
chủng tộc không quyết định sự thịnh vượng, năng suất lao động, quan hệ giai
cấp của quốc gia hay tộc người ở một khu vực nào đó.
Thuyết Đac-uyn xã hội do Lewis Morgan đề xướng cũng có thể coi là một
mô hình lý thuyết được áp dụng phổ biến trong khu vực học buổi đầu. Thuyết
này lấy chọn lọc tự nhiên trong sinh học làm hạt nhân giải thích cho sự tiến hóa
xã hội. Hạt nhân của học thuyết này cho rằng mọi xã hội đều trải qua những giai
đoạn tiến hóa nhất định theo một mô hình tiến hóa đơn tuyến từ xã hội mông
muội đến xã hội dã man rồi đến xã hội văn minh và hệ quả của sự vận dụng lý
thuyết này là việc giải thích sự khác biệt giữa các khu vực là sự khác biệt giữa
các giai đoạn phát triển khác nhau của các nhà nghiên cứu. Điều này cũng đ ược
áp dụng để giải thích tại sao một số xã hội hay nền văn hóa lại cao hơn một s ố
xã hội hay nền văn hóa khác. Thuyết này, tuy đã bị bác bỏ nhưng nó cũng đã đánh
dấu một sự khởi đầu sơ khai của cách lý giải về thế giới.
Thuyết Chức năng của B. Manilowski và Radcliffe Brown (ở Anh) và
thuyết Tương đối văn hóa của Franz Boas (3)
(ở Mỹ) ra đời để đối chọi lại với
thuyết Tiến hóa xã hội. Các tác giả của hai mô hình lý thuyết này đã kịch liệt phê
phán các nhà tiến hóa luận trong việc tách rời các sự kiện ra khỏi bối cảnh của
3
() Người khai sinh ra nhân học Mỹ với những nghiên cứu đầu tiên về các khu vực văn hóa (culture area)
Trang13
- nó và điều này, theo họ, làm hạn chế rất nhiều nếu không muốn nói là hầu hết
khả năng đưa ra những kết luận khách quan. Hai mô hình lý thuyết, cũng có thể
gọi là hai cách tiếp cận này thống nhất trên một nguyên tắc chung là các khía
cạnh của văn hóa phải được nhận thức trong bối cảnh xã hội của chúng. Trong
nghiên cứu các khu vực văn hóa rất thịnh hành lúc bấy giờ, hai cách tiếp cận này
đều tìm cách lý giải đặc trưng của mỗi khu vực văn hóa trong những điều kiện
riêng như tự nhiên, xã hội, lịch sử của nó. Quan điểm của thuyết Tương đối văn
hóa cũng đưa đến một hệ luận quan trọng về phương pháp tiếp cận của nghiên
cứu khu vực. Đó là sự nhấn mạnh vào tầm quan trọng tối cao của các nghiên cứu
thực địa (nghiên cứu điền dã) với các tư liệu được thu thập và tích lũy dài hơi.
Những tác giả của nó đều đã trải nghiệm qua những chuyến nghiên cứu thực địa
dài ngày: Manilowski với hai năm sống tại quần đảo Trobriand và Franz Boas với
nhiều năm sống với các quần cư thổ dân Bắc Mỹ.
Cùng với những lý thuyết khởi nguồn từ xã hội học và nhân học mà các
nhà khu vực học dùng để giải thích thế giới, theo thời gian, các học giả khu vực
học luôn biểu hiện nỗ lực tìm kiếm những khái niệm, những mô hình để giải
thích cho bản chất các đối tượng nghiên cứu của mình. Trong nghiên cứu khu vực
các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi và đặc biệt là ở khu vực Mỹ La-tinh,
các nhà khu vực học Mỹ đã áp dụng mô hình giải thích của Thuyết Nhiệt đới . Lý
thuyết này cho rằng khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm của các khu vực nói trên là
nguyên nhân làm hạn chế sự tăng trưởng kinh tế, làm suy yếu cộng đồng dân cư
và gây ra nền chính trị bạo lực, thường xuyên bất ổn cho các nước này. Sau này,
các học giả khu vực học Mỹ cũng nhận ra rằng kiểu khí hậu nhiệt đới nóng và
ẩm có ảnh hưởng nhất định tới kinh tế cũng như sức khỏe của người dân nhưng
không có gì khẳng định rằng nó quyết định sự phát triển của một quốc gia.
Từ sau Chiến tranh thế giới II, những lý thuyết nói trên đã gần như bị loại
bỏ hoàn toàn khỏi các mô hình giải thích thế giới của khu vực học. Thập kỷ
1950-1960, khu vực học lại vận dụng một mô hình lý thuyết mới dựa trên quan
Trang14
- điểm và cách tiếp cận kinh tế học - lý thuyết Hiện đại hóa. Lý thuyết này nảy
sinh từ nỗ lực tìm ra con đường để các nước mới giành độc lập và các nước
thuộc thế giới thứ 3 có thể đạt được trình độ phát triển kinh tế và chính trị giống
như Mỹ và các nước châu Âu tư bản. Các chuyên gia khu vực học đ ến t ừ các
chuyên ngành khác nhau đều định hướng nghiên cứu của mình theo lý thuyết này.
Các nhà chính trị học đã công bố nhiều công trình có giá trị về những bộ máy chủ
yếu như quân đội và nhà thờ, và vai trò chính trị của các cư dân thành thị, nông
dân và sinh viên với tư cách là những nhóm xã hội. Các nhà xã hội học thì nghiên
cứu những nhóm xã hội mới nổi lên và những lực lượng góp phần tạo ra sự tăng
trưởng kinh tế ổn định và nâng cao mức sống của người dân. Các nhà sử học thì
đưa ra các quan điểm lịch sử về các điều kiện tiên quyết như địa lý, dân số, xã
hội, rồi tâm lý cộng đồng và hệ quả của chúng đối với những thay đổi kinh tế xã
hội. Như vậy, trong quá trình trao đổi và hợp tác học thuật (liên ngành), các nhà
sử học đã sử dụng các công cụ phương pháp luận và phân tích của các khoa học
khác và ngược lại. Nói rộng hơn, các chuyên gia khu vực học đã vận dụng các
mô hình lý thuyết của nhiều khoa học chuyên ngành để lý giải đặc trưng của các
khu vực.
Một số mô hình lý thuyết, tuy chưa đầy đủ, cũng phần nào cho thấy tính
liên ngành về mặt lý thuyết đã từng ngự trị trong suốt quá trình phát triển lịch sử
của khu vực học ở các nước phương Tây. Như đã nói, chúng tôi không bàn đến
giá trị chân lý, tính cơ động và năng lực giải thích của chúng mà chỉ khái quát một
số mô hình và sự vận dụng chúng trong khu vực học để chứng minh khả năng
liên kết những nền tảng lý thuyết chung và riêng của các chuyên ngành khoa học
xã hội và nhân văn truyền thống trong việc lý giải những đối tượng nghiên cứu
đặc thù của khu vực học. Cùng với khả năng trên là khả năng tích hợp và v ận
dụng chúng một cách linh hoạt nhằm tạo nên những mô hình có sức giải thích
lớn đối với sự khác biệt tồn tại ở khắp mọi nơi trên hành tinh chúng ta. Và nh ư
vậy, vấn đề đặt ra là: liệu khu vực học có cần phải xây dựng cho mình những
Trang15
- nền tảng lý thuyết riêng biệt và độc lập với các mô hình lý thuyết của các khoa
học chuyên ngành hay không? Câu trả lời thuộc về các nhà khu vực học, những
người hiểu hơn ai hết đối tượng và phương pháp nghiên cứu của mình.
Bằng việc khái quát một vài mô hình lý thuyết cơ bản và việc vận dụng
chúng để nghiên cứu khu vực trong quá khứ (và không ai có thể khẳng đ ịnh
những việc tương tự như vậy sẽ không được tiếp tục áp dụng trong t ương lai),
chúng tôi hy vọng tìm thấy một chỗ dựa vững chắc hơn cho khu vực học, đặc
biệt là trước những lời chỉ trích gay gắt từ phía các học giả chuyên ngành.
3. Phương pháp luận của nghiên cứu khu vực ở Nhật Bản
Theo Shiba Nobuhiro trường đại học Tokyo thì trước hết phải định danh cu thể
khu vực mình địh nghien cứu.
Cách nắm bắt khu vực quyết định bởi sự quan tâm đến vấn đề nghiên cứu của
nhà nghiên cứu là gì? Đó là cơ sở, tiền đề để có thể đặt ra phương pháp luận của
ghiên cứu khu vực
- Phương pháp có 3 điểm cần quan tâm
+ Cần phải nhìn khu vực đó hoặc các quốc gia đó một cách toàn diện
Có tầm nhìn toàn thể chính trị, kinh tế, văn hóa...
Có năng lực sử dụng ngôn gữ của khu vực đó
Có những trải nghiệm bản thân tại khu vực ấy thông qua việc đi khảo sát
điền dã
Đây là yêu cầu quan trọng nhất vì nghiên cứu khu vực là ngành khoa học
nghiên cứu mang tính liên ngành
+ Khảo sát theo trục thời gian :
Tính khu vực hoặc tính dân tộc của quốc gia hay khu vực nghiên cứu không đơn
giản là một thực thể bất biến, mà hệ thống giá trị của một khu vực có tinh ổn
định tương đối lại vừa biến đổi mang tính lịch sử
Chẳng hạn Đông Âu sau chiến tranh thế giới thứ hai trải qua thời kỳ thay đổi chế
Trang16
- độ mới là xây dựng chế độ Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên,40 năm sau đó, 1989 chế
độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ, hệ thống giá trị của xã hội bị chấn đ ộng dữ dội và
buộc phải thay đôi. Có nghĩa khu vực này đã có sự vận động trong hệ thống giá
trị xã hội theo lịch sử. Vì vậy, Nghiên cứu hiện trạng khu vực không thể thi ếu
những lý giải mang tính lịch sử.
+ đặt khu vực đó trong sự so sánh và mối quan hệ với các khu vực khác bởi vì,
bất cứ một khu vực nào cũng chịu ảnh hưởng của các nước láng giềng và môi
trường quốc tế chẳng hạn nghiên cứu Trung Quốc không thể khoog xem xét quan
hệ của Trung Quốc như Mỹ Nga Nhật Bản sau đó xem quan hệ Trung Quốc với
cộng đồng chug Châu Âu, khói Asian...hoặc chỉ có thể lí giải khái niệm Đông Âu
ki đặt nó trong mối quan hệ vói Tây Âu.Về ý thức hệ Đông Âu là khối nước theo
chế độ Xã hội chủ nghĩa đối lập với Tây Âu là khối nước theo chế độ Tư Bản
chủ nghĩa
*Phương pháp nghiên cứu Nhật Bản từ góc độ nghiên cứu khu vực: việc
nghiên cứu tuân theo các phương pháp chung của nghiên cứu khu vực, trong đó
nhấn mạnh các yếu tố sau:
- Sử dụng thành thạo tiếng Nhật
- Nghiên cứu thực địa và trải nghiệm cuộc sống với người địa phương
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
- Phương pháp nghiên cứu so sánh
Việc sử dụng thành thạo tiếng Nhật, tiến hành nghiên cứu thực đ ịa và phương
pháp nghiên cứu liên ngành, coi trọng hợp tác nghiên cứu là những đ ặc tr ưng cơ
bản của nghiên cứu Nhật Bản theo các tiếp cận khu vực học, khác với phương
pháp nghiên cứu chỉ coi trọng khảo cứu tư liệu chuyên ngành hẹp trước kia.
Trang17
- Thông thường, nghiên cứu Nhật Bản theo cách tiếp cận khu vực học thường
được tiến hành theo một trong có hai phương hướng sau:
- Từ khoanh vùng khu vực đến xác định đề tài: tức là xác định khu vực làm đối
tượng nghiên cứu trước (ví dụ như cố đô Kyoto, tỉnh Hyogo…), trên cơ sở đó xác
định đề tài cụ thể.
- Từ xác định đề tài đến khoanh vùng khu vực: phương hướng này xác định vấn
đề nghiên cứu (như kiến trúc Nhật Bản truyền thống, quá trình đô thị hóa nông
thôn Nhật Bản…), rồi mới lựa chọn khu vực nghiên cứu như một trường hợp
điển hình.
Hiện nay, khuynh hướng nghiên cứu Nhật Bản sử dụng phương pháp khu vực
đang trở nên phổ biến trên thế giới.
Trang18
- Trang19
nguon tai.lieu . vn