Xem mẫu

  1. Luận văn Đề Tài: Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở Công ty XNK và kỹ thuật bao bì
  2. LỜI NÓI ĐẦU Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh và sâu sắc. Đó là xu thế tất yếu khách quan và là một quy luật mà mọi quốc gia trong khu vực và trên thế giới đều phải tuân theo. Biểu hiện rõ nét nhất của xu thế này là quá trình tự do hoá buôn bán trong khu vực và phạm vi toàn cầu. Thực hiện đường lối chuyển đổi nền kinh tế của đất nước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt là trong lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế. Trong đó,Thương mại quốc tế là lĩnh vực quan trọng để Việt Nam dần có chỗ đứng trong khu vực và trên phạm vi thế giới, thực hiện mục tiêu mà Đại hội Đảng VIII đề ra: “Mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại...xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới...”* Hoạt động Thương mại quốc tế bao gồm nội dung chủ yếu và quan trọng là các hoạt động xuất nhập khâủ. Nếu xuất khẩu đem lại nguồn ngoại tệ tích luỹ cho đất nước thì hoạt động nhập khẩu tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về sức lao động, vốn, tài nguyên và khoa học kỹ thuật. Xuất khẩu nhằm bảo đảm nguồn vốn cho nhập khẩu và nhập khẩu phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng cơ cấu kinh tế hướng mạnh vào xuất khẩu... Định hướng cho mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã chỉ rõ sự cần thiết: “...Đẩy mạnh xuất khẩu, huy động các nguồn ngoại tệ để nhập khẩu các vật tư hàng hoá thiết yếu cho sản xuất và đời sống, tích cực cân đối cán cân thanh toán quốc tế góp phần duy trì các cân đối lớn của nền kinh tế.”** Trang 1
  3. * Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. NXB sự thật. ** Nghị quyết đại hội đại Toàn quốc lần thứ VII. NXB sự thật Thực hiện tốt công tác xuất nhập khẩu sẽ góp phần tích cực đáp ứng yêu cầu cấp bách hiện nay của nền kinh tế. Vì vậy, nghiên cứu thực trạng hoạt động Xuất - Nhập khẩu của các doanh nghiệp để tìm ra biện pháp hoàn thiện hoạt động kinh doanh Xuất - Nhập khẩu là vấn đề quan trọng hiện nay. Xuất phát từ quan điểm trên, đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở Công ty XNK và kỹ thuật bao bì” đã được chọn làm nội dung nghiên cứu. Mục tiêu của đề tài này là thông qua việc xem xét và phân tích tình hình hoạt động kinh doanh nhập khẩu, để tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu, và những hạn chế của hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty PACKEXPORT nhằm đưa ra một số giải pháp để góp phần hoàn thiện hoạt động nhập khẩu của Công ty PACKEXPORT. Kết cấu của bài luận văn gồm 3 phần: Phần thứ nhất: Hoàn thiện hoạt động Nhập khẩu là yêu cầu bức thiết ở các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Phần thứ hai: Phân tích thực trạng hoạt động Nhập khẩu của Công ty Xuất nhập khẩu và Kỹ thuật Bao bì. Phần thứ ba: Những giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động Nhập khẩu đối với Công ty Xuất nhập khẩu và Kỹ thuật Bao bì Trang 2
  4. Phần thứ nhất : HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU LÀ YÊU CẦU BỨC THIẾT Ở CÁC DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. I. Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu. 1. Khái niệm. Lịch sử phát triển nền kinh tế thế giới đã chỉ ra rằng không một quốc gia nào có thể duy trì được nền kinh tế tự túc khép kín. Bởi để duy trì nó thì phải bỏ ra rất nhiều nguồn lực song hiệu quả lại không cao. Trong khi đó yếu tố nguồn lực thì có hạn, đối lập hẳn với thực tế nhu cầu của con người là vô hạn và rất đa dạng. Lý thuyết về thương mại quốc tế giúp chúng ta nhận thấy các quốc gia đều có lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế và lợi ích rõ nhất mà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy được từ thương mại quốc tế mà nó có thể bù đắp và bù đắp một cách hiệu quả những nhu cầu của con người ta về một loaị hàng hoá nào đó mà nội địa chưa hoặc không có khả năng đáp ứng được. Với ý nghĩa ấy, Nhập khẩu được hiểu là hoạt động mua hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước từ nước ngoài nhằm mục tiêu thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cũng như sản xuất trong nước và là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng giữa các quốc gia. Nhập khẩu là một trong những hoạt động cốt lõi của thương mại quốc tế 2. Vai trò nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Ngày nay, dưới tác động của xu thế tự do hoá thương mại, hầu hết các quốc gia đều nỗ lực tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, đều hướng các chính sách kinh tế, thương mại của quốc gia mình theo khuôn khổ các khối mậu dịch mà họ sẽ tham gia ở tầm khu vực như: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA), Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ( NAFTA), ... ở cấp độ liên lúc địa như Trang 3
  5. ASEM, và cao hơn nữa là cấp độ toàn cầu như tổ chức thương mại thế giới WTO. Trong bối cảnh ấy hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng là hoạt động kinh doanh ở phạm vi quốc tế. Không phải là những hành vi buôn bán lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ buôn bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong nước và bên ngoài nước nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước, ổn định và từng bước nâng cao đời sống của nhân dân. Như vậy, hoạt động nhập khẩu tác động trực tiếp lẫn gián tiếp tới sản xuất và đời sống trong nước, nó có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao cũng như gây thiệt hại cho nền kinh tế trong nước do tính chất phức tạp của nó khi có yếu tố quốc tế tham gia vào. Nhập khẩu với tư cách là một trong hai hoạt động chủ yếu của thương mại quốc tế ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia cũng như sự phát triển của thương mại quốc tế. Trước hết, nhập khẩu có vai trò to lớn trong việc bù đắp những thiếu hụt về cầu do sản xuất trong nước chưa đáp ứng được. Không những thế, nhập khẩu còn tạo ra những nhu cầu mới cho xã hội, tạo nên sự phong phú về chủng loại, mẫu mã, chất lượng cho thị trường. Điều đó có nghĩa là nhập khẩu góp phần tạo nên sự cân đối tích cực giữa cung và cầu trên thị trường trong nước. Nhập khẩu bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo phát triển nền kinh tế cân đối ổn định. Thứ hai, nhập khẩu giúp quốc gia khai thác được lợi thế so sánh của mình, khai thác được tính lợi thế kinh tế nhờ quy mô khi tham gia vào thương mại quốc tế. Không chỉ tạo thêm hàng tiêu dùng trong nước, nhập khẩu còn tạo nên nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất trong nước, tạo ra chuyển giao công nghệ. Nhờ đó nó góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội, tiết kiệm được chi phí và thời gian, tạo ra sự đồng đều về trình độ phát triển kinh tế xã hội, Trang 4
  6. tiết kiệm đựơc chi phí và thời gian, tạo ra sự đồng đều về trình độ phát triển kinh tế xã hội, góp phần xoá bỏ tình trạng độc quyền trong nước. Thứ ba, với những sản phẩm nhập ngoại có tính cạnh tranh cao, nhập khẩu làm tăng sức cạnh tranh trên thị trường, tạo ra năng lực mới trong sản xuất. Các doanh nghiệp nội địa phải chịu một sức cạnh tranh lớn, để tồn tại họ buộc phải năng động hơn, vươn lên chiến thắng trong cạnh tranh. Qua đó, hiệu quả sản xuất trong nước được nâng cao, hàng hoá nội địa trở nên có tính cạnh tranh hơn, người lao động có nhiều cơ hội tìm việc làm hơn góp phần nâng cao đời sống kinh tế - xã hội. Thứ tư, kết hợp với xuất khẩu, nhập khẩu tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và tiêu dùng trong nước và nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho phân công lao động quốc tế phát triển. Điều đó có ý nghĩa to lớn trong bối cảnh quốc tế hoá diễn ra mạnh mẽ ngày nay. Nó mở rộng quan hệ hợp tác giữa các nền kinh tế,.v.v. Đất nước từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, nền kinh tế đã có thêm sức mạnh mới, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp với nhiều nhược điểm từng bước được thay thế bằng tính năng động, tự chủ của cơ chế thị trường. Ngoại thương của Việt Nam không còn chỉ bó hẹp trong phạm vi nội khối xã hội - chủ nghĩa qua các khoản viện trợ hoặc qua các nghị định thư mà được mở rộng ra trên phạm vi toàn cầu. Chính sách phát triển kinh tế, thương mại Việt Nam từng bước được điều chỉnh cho phù hợp với xu thế chung của thời đại, hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới. Vai trò của nhập khẩu ngày trở nên rõ rệt: Không chỉ là nhân tố giúp Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới mà còn là nhân tố làm thay đổi diện mạo của các doanh nghiệp Việt Nam. Để tiếp tục phát huy vai trò của hoạt động nhập khẩu, Nhà nước ta xác định: Trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là hoạt động kinh doanh nhập khẩu, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cần chú ý tạo uy tín và quan hệ lâu dài với bạn hàng, coi Trang 5
  7. trọng tính hiệu quả kinh tế trong nhập khẩu, biết kết hợp hài hoà giữa các mặt lợi ích. 3. Các hình thức nhập khẩu. Không phải ngẫu nhiên ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động thương maị quốc tế mà là do kinh doanh quốc tế có sự phong phú đa dạng về các phương thức hoạt động. Chính sự đa dạng này cho phép các doanh nghiệp tìm thấy được lợi ích thông qua việc lựa chọn phương thức phù hợp với khả năng của mình nhất. Trước sự thay đổi của môi trường kinh doanh, đến nay có một số phương thức nhập khẩu chủ yếu sau mà các doanh nghiệp thường lựa chọn: a/ Nhập khẩu uỷ thác. Trong giao dịch quốc tế, không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể tham gia một cách trực tiếp do các yếu tố về nguồn nhân lực, trong khi đó họ lại muốn được giao dịch. Từ nhu cầu ấy làm hình thành nên phương thức nhập khẩu uỷ thác. Đó là phương thức mà doanh nghiệp này uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng giao dịch trực tiếp tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác sẽ tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác. Đặc điểm: - Theo phương thức này, doanh nghiệp nhập khẩu (doanh nghiệp nhận uỷ thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn nghạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra làm đại diện cho bên uỷ thác giao dịch, ký kết hợp đồng, làm thủ tục nhập khẩu hàng cũng như thay mặt cho bên uỷ thác khiếu nại, bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất. Trang 6
  8. - Các doanh nghiệp được uỷ thác nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch nhập khẩu chứ không được tính doanh số, doanh thu. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải lập hai hợp đồng: 1. Hợp đồng mua bán hàng hoá với người nước ngoài. 2. Hợp đồng uỷ thác với bên uỷ thác. b/ Nhập khẩu tự doanh (Nhập khẩu trực tiếp). Đây là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp. Khi tiến hành nhập khẩu theo phương thức này, doanh nghiệp cần phải tiến hành nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí, đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lãi, đúng chính sách luật pháp quốc gia cũng như quốc tế. Đặc điểm: - Do phải đứng ra tiến hành các khâu nên doanh nghiệp phải chịu mọi rủi ro, tổn thất cũng như lợi nhuận thu được. Vì vậy, để có hiệu quả cao đòi hỏi doanh nghiệp phải thận trọng trong từng bước từ việc nghiên cứu thị trường cho đến khi bán hàng và thu tiền. - Ở phương thức này, doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng với đối tác nước ngoài, còn các hợp đồng liên quan đến khâu tiêu thụ thì có thể lập sau. c/ Nhập khẩu liên doanh. Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi cho các bên tham gia, lãi cùng hưởng rủi ro cùng gánh chịu. Đặc điểm: Trang 7
  9. - Các bên tham gia chỉ phải góp một phần vốn nhất định và tỷ lệ phân chia lãi lỗ phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp giữa các bên. - Theo phương thức này, doanh nghiệp đứng ra nhập hàng sẽ được kim ngạch nhập khẩu, nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ chỉ được tính doanh số bán hàng trên số hàng theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế trên doanh số đó. Doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu phải lập hai hợp đồng: 1. Một hợp đồng với đối tác nước ngoài. 2. Một hợp đồng với đối tác liên doanh. Cách phân chia các hình thức nhập khẩu trên dựa vào chủ thể của hoạt động nhập khẩu. Nếu quan tâm đến hình thức thanh toán bằng tiền và mua thanh toán bằng hàng (còn gọi là mua bán đối lưu) là một hình thức còn khá mới mẻ đối với các doanh nghiêp Việt Nam, tìm hiểu kỹ phương thức này có thể cho phép các doanh nghiệp có được một phương thức nhập khẩu có hiệu quả. d/ Nhập khẩu hàng đổi hàng. Nhập khẩu hàng đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu, là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, phương tiện thanh toán trong hợp đồng này không phải là tiền mà bằng hàng hoá. Mục đích nhập khẩu ở đây không phải chỉ thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhằm để xuất khẩu được hàng và thu lợi từ hoạt động xuất khẩu nữa. Đặc điểm: - Phương thức này mang lại lợi ích lớn hơn cho các bên tham gia hợp đồng, mặt khác có thể tiến hành cùng một lúc cả hoạt động xuất và nhập khẩu. - Hàng hoá xuất và nhập cũng là bạn hàng trong hoạt động xuất khẩu. - Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim nghạch nhập khẩu trực tiếp và kim nghạch xuất khẩu, doanh số tiêu thụ trên cả hai loại mặt hàng. - Để đảm bảo thực hiện hợp đồng, các bên thường sử dụng biện pháp sau: Trang 8
  10. + Dùng thư tín dụng đối ứng: Là một loại thư tín dụng mà trong nội dung của nó có các điều khoản quy định chung. Thư tín dụng chỉ có hiệu lực khi người mở một thư tín dụng khác có kim ngạch tương đương. + Dùng người thứ ba khống chế chứng từ sở hữu hàng hoá. Người này sẽ chỉ giao chứng từ đó cho người nhận hàng khi người này đổi lại một chứng từ sở hữu hàng hoá có giá trị tương đương. e/ Nhập khẩu tái xuất. Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu hàng hoá song không phải để tiêu thụ ở nội địa mà để xuất sang nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận. Những hàng nhập khẩu này không được qua chế biến ở nước tái xuất. Như vậy, phương thức nhập khẩu này được thực hiện thông qua 3 nước: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, nước tái xuất. Đặc điểm: - Doanh nghiệp nhập khẩu ở nước tái xuất phải tính toán chi phí, ghép mỗi bạn hàng xuất và bạn hàng nhập khẩu, bảo đảm sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động. - Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch cả xuất và nhập khẩu. Doanh số bán trên trị giá hàng xuất khẩu đối với các mặt hàng kinh doanh. - Doanh nghiệp tái xuất lập hai bản hợp đồng: 1. Hợp đồng xuất khẩu 2. Hợp đồng nhập khẩu và không chịu thuế xuất nhập khẩu đối với các mặt hàng kinh doanh. - Để đảm bảo thanh toán, hợp đồng tái xuất thường sử dụng thư tín dụng giáp lưng. - Hàng hoá không nhất thiết phải qua nước tái xuất mà có thể nhập thẳng về nước thứ ba (các hoạt động giao dịch thì vẫn liên quan đến nước tái xuất). Trang 9
  11. Doanh nghiệp tái xuất còn có thể có được những khoản lợi do được thanh toán tiền hàng song lại có thể trả chậm cho bên xuất khẩu. Với nhiều phương thức nhập khẩu như vậy, các doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng môi trường kinh doanh để từ đó ứng dụng các phương thức này một cách linh hoạt với thị trường này, với bạn hàng này, ta có thể dùng phương thức này là có lợi hơn, song với thị trường, với bạn hàng khác và vào một thời điểm khác thì phương thức ấy chưa chắc đã có lợi bằng các phương thức khác. Không nên chỉ áp dụng một hay một vài phương pháp cho mọi thị trường, mọi đối tác. II. Nội dung của hoạt động nhập khẩu. 1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu. Thị trường có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại của một doanh nghiệp, bởi thị trường là tổng thể các mối quan hệ về lưu thông hàng hoá và tiền tệ. Qua thị trường, doanh nghiệp sẽ biết được lượng cung, lượng cầu từ đó có kế hoạch sản xuất kinh doanh cho thích hợp. Có nhiều doanh nghiệp nhờ năng động, nắm bắt phản ứng nhanh nhạy với thị trường mà việc kinh doanh thành đạt, song không ít doanh nghiệp vì khả năng hiểu biết về thị trường hạn chế mà dẫn đến phá sản. Chính vì vậy, để hoạt động kinh doanh có hiệu quả doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhập khẩu nói riêng phải nắm vững các yếu tố của thị trường, hiểu biết quy luật vận động của thị trường, từ đó phản ứng kịp thời trước những thay đổi của của thị trường. Công việc nghiên cứu thị trường của một doanh nghiệp nhập khẩu gồm có: + Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu. + Nghiên cứu thị trường và các nhân tố ảnh hưởng tới dung lượng thị trường. + Nghiên cứu quan hệ cung cầu hàng hoá và sự biến động của chúng. Trang 10
  12. + Nghiên cứu giá cả hàng hoá nhập khẩu. + Xác định mức giá thấp nhập khẩu đối với thị ttrường có quan hệ giao dịch. Trên cơ sở phân tích đúng đắn ảnh hưởng của nhân tố tới giá cả, ta sẽ nắm được xu hướng biến động của chúng, từ đó xác định mức giá cho mặt hàng mà ta có kế hoạch nhập khẩu đối với thị trường mà ta sẽ giao dịch. Nếu mặt hàng này thuộc về đối tượng giao dịch phổ biến hoặc có những trung tâm giao dịch trên thế giới thì nhất định phải tham khảo giá thị trường thế giới về mặt hàng đó. Và phải chú ý khi định giá cần tính đến yếu tố cước phí vận tải và cũng có thể dựa vào chào hàng của hãng, dựa vào giá nhập khẩu của thời kỳ trước, vào giá của lô hàng trước, tính đến những chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật để tăng hay giảm giá thành nhập khẩu khi giao dịch. 2. Lựa chọn phương thức giao dịch nhập khẩu. a/ Giao dịch thông thường. Là phương thức giao dịch được thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc, người bán và người mua trực tiếp quan hệ bằng cách gặp gỡ trực tiếp hoặc qua thư từ để bàn bạc và thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch. Những nội dung của lần giao dịch này được thực hiện một cách tự nguyện, không có sự ràng buộc với lần giao dịch trước, việc mua không nhất thiết phải gắn với việc bán. b/ Giao dịch qua trung gian. Trong hình thức giao dịch này có người thứ ba làm trung gian giữa người bán và người mua. Các trung gian phổ biến trên thị trường là đại lý và môi giới. Đại lý là tự nhiên nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo sự uỷ thác. Quan hệ giữa người uỷ thác và đại lý là hợp đồng đại lý. Môi giới là thương nhân trung gian giữa người mua và người bán nhận sự uỷ thác của họ. Những người môi giới khi thực hiện nghiệp vụ không đứng tên mình, không chiếm hữu hàng hoá và không chịu trách nhiệm pháp nhân trước Trang 11
  13. người uỷ thác về việc khách hàng có thực hiện hợp đồng hay không. Quan hệ giữa người uỷ thác và người môi giới dựa trên sự uỷ thác từng lần chứ không dựa vào hợp đồng dài hạn, Sử dụng đại lý, người môi giới có nhiều thuận lợi hơn do họ có nhiều hiểu biết về thị trường, luật pháp, tập quán của địa phương, và ta cũng có tận dụng được những cơ sở vật chất của họ,... song nó có nhược điểm là ta không có sự liên hệ trực tiếp với khách hàng, với thị trường, và lợi nhuận bị chia sẻ. c/ Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá. Sở giao dịch hàng hoá là một thị trường đặc biệt tại đó thông qua những người môi giới do sở giao dịch chỉ định, người ta mua bán các loại hàng hoá có khối lượng lớn, có tính chất đồng loạt, có phẩm chất có thể thay thế được nhau. Giá công bố ở sở giao dịch có thể là giá tham khảo trong việc xác định giá quốc tế. d/ Giao dịch tại hội trợ triển lãm. Hội trợ là thị trường hoạt động định kỳ tổ chức vào một thời hạn nhất định, tại đó người bán trưng bày hàng hoá của mình và tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng. Triển lãm là việc trưng bày giới thiệu thành tựu của một nền kinh tế hoặc tổ chức một nghành nào đó. Ngày nay, triển lãm không phải là nơi trưng bày mà còn là nơi thương nhân hoặc tổ chức kinh doanh tiếp xúc giao dịch ký kết hợp đồng mua bán cụ thể. 3. Ký kết hợp đồng nhập khẩu. Trong hoạt động xuất nhập khẩu sau khi chọn các bên tiến hành giao dịch đàm phán có kết quả phải đi đến ký kết hợp đồng kinh tế ngoại thương. a/ Khái niệm về hợp đồng kinh tế ngoại thương. Hợp đồng nói chung là sự thoả thuận giữa hai bên hay nhiều bên nhằm mục đích tạo lập, chuyển dịch, biến đổi hay chấm dứt một nghĩa vụ. Trang 12
  14. Hợp đồng kinh tế ngoại thương là sự thoả thuận của những đương sự có quốc tịch khác nhau trong đó một bên là bên bán (xuất khẩu) có nghĩa vụ phải chuyển vào quyền sở hữu của bên mua (nhập khẩu) một khối lượng hàng hoá nhất định, bên mua có nghĩa vụ trả tiền và nhận hàng. Hợp đồng kinh tế ngoại thương có những điểm khác so với hợp đồng kinh tế trong nước, đó là: - Chủ thể của hợp đồng kinh tế ngoại thương là các pháp nhân có quốc tịch khác nhau. - Hàng hoá được di chuyển từ nước này sang nước khác. - Đồng tiền dùng trong thanh toán ngoại thương là ngoại tệ hay có nguồn gốc ngoại tệ đối với ít nhất một bên ký kết hợp đồng. Trong tập quán thương mại quốc tế phần lớn các hợp đồng được thành lập thành văn bản, đó là một chứng từ cần thiết của sự thoả thuận giữa bên mua và bên bán. b/ Những điều khoản cơ bản của một hợp đồng ngoại thương. Về nội dung của hợp đồng theo nguyên tắc tự do ký hợp đồng hai bên được tuỳ ý quyết định những nghĩa vụ của họ sao cho phù hợp với quyền lợi của cả hai bên. Tuy nhiên, việc ký kết hợp đồng kinh tế ngoại thương thường khó khăn hơp hợp đồng trong nước do các chủ thể hợp đồng thường không có sự tương đồng về văn hoá, ngôn ngữ, phong tục tập quán,...Do vậy, để tránh sự tranh chấp có thể xảy ra, để đảm bảo sự thi hành hợp đồng được suôn sẻ, nội dung hợp đồng xuất nhập khẩu cần có một số điều căn bản, ngoài ra hai bên có thể ghi thêm các điều khoản khác mà họ thấy cần thiết.  Một số điều khoản căn bản trong hợp đồng kinh tế ngoại thương. - Điều khoản về đối tượng hợp đồng: Trang 13
  15. + Điều khoản tên hàng: Cần ghi tên thông dụng, tên thương mại và tên khoa học (nếu có). + Điều khoản chất lượng: Hợp đồng cần ghi rõ tiêu chuẩn quy định phẩm chất của hàng hoá. Có thể căn cứ vào mẫu hàng, vào các tài liệu kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hoá, hay căn cứ vào một tiêu chuẩn được tập quán thương mại quốc tế công nhận. + Điều khoản số lượng: Hợp đồng phải ghi rõ đơn vị đo lường đươc hai bên lựa chọn, quy định cụ thể số lượng hàng giao dịch. Nếu số lượng quy định phỏng chừng phải dự liệu một số có thể chấp nhận được. + Điều khoản trọng lượng của hàng hoá: Có thể tính theo trọng lượng cả bì hay không có bì. Người ta tính theo trọng lượng thương mại tức là trọng lượng của hàng hoá có độ ẩm tiêu chuẩn. - Điều khoản về giá cả hàng hoá: Điều khoản về giá cả hàng hoá trong buôn bán ngoại thương là điều kiện cơ bản, điều kiện giá cả bao gồm: Đồng tiền tính giá, mức giá, phương pháp quy định và giảm giá. + Đồng tiền tính giá: Có thể dùng đồng tiền của nước xuất khẩu hoặc nhập khẩu hoặc của nước thứ ba, nhưng phải là đồng tiền ổn định và tự do chuyển đổi được. + Mức giá: Thường là mức giá quốc tế. + Phương pháp quy định giá: Tuỳ theo thoả thuận trong hợp đồng, giá có thể được quy định theo các loại sau: * Giá cố định: Là loại giá được quy định lúc ký kết hợp đồng và không thay đổi trong cả quá trình hiệu lực. Giá cố định dùng trong các hợp đồng giao hàng ngay hay giao trong thời hạn ngắn, có khi giao hàng trong thời gian dài cũng dùng giá cố định và thường có quy ước trong hợp đồng giá cố định, không thay đổi. Trang 14
  16. * Giá quy định sau: Là giá được quy định trong quá trình thực hiện hợp đồng. Trong hợp đồng xác định thời điểm định giá và nguyên tắc xác định mức giá để hai bên tính toán. Ví dụ: một tháng trước khi giao hàng, người mua có thể được quyền lựa chọn thời điểm định giá trong quá trình thực hiện hợp đồng, có cam kết về nguồn tài liệu thông tin giá cả. * Giá có thể điều chỉnh lại: Giá được xác định trong hợp đồng lúc ký kết, nhưng trong hợp đồng có quy ước: Nếu lúc thực hiện hợp đồng giá thị trường tăng hay giảm thì giá đã ghi trong hợp đồng sẽ thay đôỉ theo quy ước tăng hay giảm. Thường mức chênh lệch thấp nhất giữa giá hợp đồng so với giá thị trường là 2- 5% thì không được tính lại. * Giá di động: Giá chỉ tính dứt khoát lúc thực hiện hợp đồng bằng điều chỉnh giá cả cơ sở đã ghi trong hợp đồng tính đến thay đổi về chi phí sản xuất trong quá trình chuẩn bị hàng. Giá sản xuất bao gồm giá nguyên vật liệu, tiền lương. Thường áp dụng cho hàng phải sản xuất dài hạn. + Giảm giá: Giá công bố và giá thật chênh lệch nhau vì người mua được giảm giá khi ký kết hợp đồng. Giảm giá có thể vì tiền được trả ngay, mua khối lượng lớn hay vì khách quen,...Các loại giảm giá: * Giảm giá đơn: Giảm giá so với thời giá thường tới 20 - 30% có khi tới 30 - 40%. Giảm giá như vậy thường gặp ở các hợp đồng mua bán thiết bị, nhất là loại máy có tiêu chuẩn, giảm giá so với giá tham khảo về hàng nguyên liệu công nghiệp giảm trung bình 2- 5%. Mặt khác giảm giá đơn cũng thường gặp khi trả tiền mặt vì thường bán hàng theo tín dụng ngắn hạn, nhưng người mua trả tiền mặt nên được giảm giá 2- 3% giá tham khảo nghĩa là tương ứng với phần trăm vay lãi. * Giảm giá đoạt doanh số: Giảm giá cho người mua trái vụ để khuyến khích mua hàng lúc khó tiêu thụ. Trang 15
  17. * Giảm giá kép: Giảm giá khi mua hàng với số lượng lớn với mức tăng dần theo số lượng mua. - Điều khoản giao hàng. Nội dung cơ bản là xác định thời hạn, thời điểm, phương thức và việc thông báo giao hàng. + Trong hợp đồng cần ghi rõ thời hạn giao hàng: Giao hàng không đúng thời hạn quy định có thể gây thiệt hại lớn và chịu trách nhiệm, có thể phải trả tiền phạt. + Điểm giao hàng: Trên thực tế người nhập khẩu thường chỉ định bến đi và bến đến cho hàng hoá. Nơi giao hàng có thể là đầu mối vận tải để mang tiếp hàng đi nơi khác hoặc là nơi họ đã nắm vững tập quán giao hàng, khả năng bốc dỡ, khả năng về kho tàng, trình độ trang thiết bị bảo quản hàng hoá,... + Phương thức giao hàng: Về sơ bộ cuối cùng hay giao nhận về số lượng, chất lượng. + Thông báo giao hàng: Quy định số lần thông báo và nội dung thông báo khi người bán giao hàng xong. - Điều khoản về thanh toán trả tiền. + Đồng tiền thanh toán: Phải là đồng tiền ổn định, tự do chuyển đổi trên thị trường tiền tệ quốc tế, có thể là đồng tiền của bên xuất hoặc bên nhập hoặc là của nước thứ ba. Đồng tiền thanh toán có thể trùng hợp hoặc không trùng hợp với đồng tiền tính giá. Trong trường hợp không trùng hợp thì trong hợp đồng quy định rõ tỷ giá chuyển đổi từ đơn vị tiền tính giá sang đơn vị tiền thanh toán được thực hiện theo tỷ giá hiện hành ở nước tiến hành thanh toán. Khi chọn tỷ giá ngoại tệ, người ta không chỉ quan tâm đến lợi thế của tỷ giá chuyển đổi ngoại tệ mà còn tính đến cả khả năng chuyển đổi của ngoại tệ. Trang 16
  18. + Thời hạn thanh toán: Có thể trả ngay, trả trước hay trả sau hoặc có thể kết hợp các loại hình đó với nhau trong một hợp đồng. + Phương thức thanh toán: Có nhiều phương thức trả tiền nhưng chủ yếu trong thanh toán quốc tế dùng hai phương thức sau: * Phương thức nhờ thu: Là phương thức thanh toán trong đó người bán hàng sau khi giao hàng hoá - dịch vụ uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền của người mua hàng hoá - dịch vụ. * Phương thức tín dụng chứng từ: Là sự thoả thuận mà một ngân hàng theo yêu cầu của bên mua sẽ trả tiền cho bên bán hoặc cho bất cứ người mua này theo lệnh của bên bán, khi bên bán xuất trình đầy đủ các loại chứng từ và thực hiện đầy đủ các yêu cầu được quy định trong một văn bản gọi là thư tín dụng ( letter of credit).Có cá loại thư tín dụng sau đây: # Thư tín dụng huỷ ngang (revocable L/C): Là loại thư tín dụng mà ngân hàng mở (tức ngân hàng phát hành thư tín dụng) có thể sửa đổi hoặc huỷ bỏ vào bất cứ lúc nào mà không phải báo trước cho người hưởng (bên bán). # Thư tín dụng không huỷ ngang: Là loại thư tín dụng mà trong một thời hạn hiệu lực của nó, ngân hàng mở không có quyền huỷ bỏ hay sửa đổi nội dung thư tín dụng nếu không có sự đồng ý của người hưởng, ngay cả khi người yêu cầu mở thư tín dụng (bên mua) ra lệnh huỷ bỏ hay sửa đổi thư tín dụng đó. Như vậy, thư tín dụng không huỷ ngang là cam kết chắc chắn đối với người bán trong việc thanh toán tiền hàng. # Thư tín dụng huỷ ngang có xác nhận (Confirmed irrvocable L/C): Là thư tín dụng huỷ ngang nhưng lại có thể được xác nhận bởi một ngân hàng nào đó theo yêu cầu của một ngân hàng mở. Xác nhận ở đây có nghĩa cam kết trực tiếp trả tiền cho người hưởng. Thông thường ngân hàng xác nhận là ngân hàng thông báo thư tín dụng tại nước người bán. Trang 17
  19. Xét về mặt thực hiện, thư tín dụng có thể là trả tiền ngay (At Sight), hoặc trả tiền sau (With deferrer Payment) hoặc có thể chuyển nhượng được (Transferable) cho người thứ ba. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ có nhiều ưu điểm hơn so với phương thức nhờ thu. Đối với người bán, nó đảm bảo chắc chắn thu được tiền hàng. Đối với người mua, nó đảm bảo rằng việc trả tiền cho người bán chỉ được thực hiện khi người bán đã xuất trình đầy đủ bộ chứng từ hợp lệ và ngân hàng đã kiểm tra bộ chứng từ đó. c/ Phương pháp ký hợp đồng. Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương. ở các nước tư bản, hợp đồng có thể được thành lập dưới hình thức văn bản hoặc dưới hình thức miệng, hoặc hình thức mặc nhiên. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, hợp đồng phải được ký kết dưới hình thức văn bản. Hợp đồng dưới hình thức văn bản có thể được thành lập dưới nhiều cách như: - Hợp đồng gồm một văn bản, trong đó ghi rõ nội dung buôn bán, mọi điều kiện giao dịch đã thoả thuận và có chữ ký của hai bên. - Hợp đồng gồm nhiều văn bản như: điện báo, thư từ giao dịch, chẳng hạn hợp đồng gồm hai văn bản như đơn chào hàng cố định của người bán, chấp nhận của người mua và chấp nhận của người bán. Hình thức văn bản của hợp đồng là bắt buộc đối với các đơn vị xuất nhập khẩu của ta trong quan hệ với các nước. Hình thức hợp đồng bằng văn bản là hình thức tốt nhất trong việc bảo vệ quyền lợi của hai bên, nó xác định mọi quyền lợi và nghĩa vụ của bên mua và bên bán, tránh được những hiểu lầm do không thống nhất được quan niệm. Ngoài ra hình thức văn bản còn tạo thuận lợi cho thống kê, kiểm tra việc ký kết và thực hiện hợp đồng. */ Khi ký kết hợp đồng, các bên cần chú ý một số đặc điểm sau: Trang 18
  20. - Cần có sự thoả thuận thống nhất với tất cả mọi điều khoản cần thiết trước khi ký kết. Một khi đã ký kết rồi thì việc thay đổi một số điều khoản nào đó rất khó khăn và bất lợi. - Văn bản hợp đồng thường do một bên dự thảo. Trước khi ký kết bên kia xem xét lại kĩ lưỡng, cẩn thận, đối chiếu với những thoả thuận đã đạt được trong đàm phán, tránh việc đối phương có thể thêm vào hợp đồng một cách khéo léo những điểm chưa thoả thuận và bỏ qua không ghi vào những điều đã thống nhất. - Hợp đồng cần được trình bày rõ ràng, sáng sủa, cách trình bày phải phản ánh nội dung đã thoả thuận, không để tình trạng mập mờ có thể suy luận ra nhiều cách. - Hợp đồng nên đề cập đến mọi vấn đề, tránh việc phải áp dụng tập quán để giải quyết những điểm hai bên không đề cập đến. - Những điều khoản trong hợp đồng phải xuất phát từ những đặc tính của hàng hoá định mua bán, từ những điều kiện, hoàn cảnh tự nhiên, xã hội của nước người bán, người mua, từ đặc điểm và quan hệ giữa hai bên. - Trong hợp đồng không được có những điều khoản trái với luật lệ hiện hành ở nước người bán hoặc nước người mua. - Người đứng ra ký kết hợp đồng phải là người có thẩm quyền ký kết. - Ngôn ngữ dùng để xây dựng hợp đồng nên là thứ ngôn ngữ mà cả hai bên cùng thông thạo. */ Có nhiều cách ký kết hợp đồng đó là: - Hai bên ký kết vào một hợp đồng mua bán (một văn bản). - Người mua xác nhận (bằng văn bản) là người mua đồng ý với các điều khoản của thư chào hàng tự do. Nếu người mua viết đúng thủ tục cần thiết và gửi trong thời hạn quy định cho người bán. Trang 19
nguon tai.lieu . vn