Xem mẫu

  1. ---------- ĐỀ TÀI Thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo Giáo viên hướng dẫn : Họ tên sinh viên : ----------
  2. Đề án Kinh Tế Phát Triển Lời Mở Đầu Thực hiện công cuộc đổi mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh. Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu trong cả i cách và phát triển kinh tế xã hội, như bình quân thu nhập đầu người tăng lên, cơ sở hạ tầng được xây dựng h iện đại hóa, xây dựng nền văn hóa đậm đà bả n sắc dân tộc… Việc chuyển hướng từ nền kinh tế theo cơ chế quan niêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước tạo ra những bước phát triển, những cơ hội mới để Việt Nam nhanh c hóng hộ i nhập khu vực và thế giới, trở thành một nước công nghiệp phát triển. Tuy nhiên, sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường cũng còn có các mặt hạn chế, ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội không đồng đều tới các vùng, các nhóm dân cư. Vì vậy một bộ phận dân cư do các nguyên nhâ n khác nhau chưa bắt nhịp với sự thay đổi, gặp những khó khăn trong đời sống sản xuất và trở thành người nghèo. Xác định rõ tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội và khẳng định nghèo đói ảnh hưởng tiê u cựu đến ổ n định chính trị, kinh tế, xã hội và môi trường, Đảng và nhà nước ta coi xóa đó i giả m nghèo là một chủ chương lớn, là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về xóa đó i giả m nghèo thường nhấn mạnh về một hay một số khía cạnh nào đó, như sự cần thiết, cơ sở lý luận, các thành tựu, giải pháp….Trong đề án môn học của mình, em xin được đề cập đến khía cạnh mối quan hệ của tăng trưởng kinh tế đến xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam .
  3. Đề án Kinh Tế Phát Triển Chương I Tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo I- Tăng trưởng và phát triển kinh tế 1. Khái niệm về tăng trưởng và phát triển 1.1 Tăng trưởng Tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng thêm (hay gia tăng) về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kì nhất định. Đó là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất dịch vụ của nền kinh tế tạo ra. Do vậy, để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế người ta sử dụng mức tăng thê m của tổng sản lượng của nền kinh tế (tính toàn bộ hay tính bình quân đầu người) của thời kì sau so với thời kì trước. Như vậy tăng trưởng kinh tế được xem xét trên hai mặt biểu hiện: đó là tăng tuyệt đối hay mức tăng phần tră m(%) hàng năm, hoặc bình quân trong một giai đoạn. Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm liên tục trong một giai đoạn nhất định, sẽ cho ta khái niệm tốc độ tăng trưởng. Đó là sự tăng thê m sản lượng nhanh hay chậm so với thời điể m gốc. 1.2 Phát triển Phát triển kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất, nó là sự kết hợp chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Theo cách hiểu như vậy, phát triển phải là một quá trình lâu dài và do các nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết định. Nội dung của phát triển kinh tế được khái quát theo ba tiêu thứ c: Một là sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu nhập bình quân trê n mọi đầu người. Đây là tiêu thức về lượng, là điều kiện cần để nâng cao điều kiện sống của mọi quốc gia. Hai là sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấ u kinh tế. Đây là tiêu thức biến đổi về chất của nền kinh tế một quốc gia.Ba là sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội. Mục tiêu cuối cùng
  4. Đề án Kinh Tế Phát Triển trong phát triển kinh tế không phải là tăng trưởng hay chuyển dịch, mà lá việc xóa bỏ đói nghèo, suy dinh dưỡng, sự tăng lên của tuổi thọ trung bình… 2. Sự lựa chọn con đường phát triển của Việt Nam Trong quá trình cải tổ nền kinh tế, Đảng và chính phủ Việt Nam đã thể hiện sự lựa chọn theo hướng phát triển toàn diện. Đi đổi với mục tiêu tăng trưởng nhanh, chúng ta đã đưa ra mục tiêu giải quyết vấn đề công bằng xã hội và bảo vệ môi trường ngay từ đầu và trong toàn bộ tiến trình phát triển. Tất cả đều nhằ m mục tiêu đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất văn hóa tinh thần cho nhân dân. Từng bước xây dựng đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển, trên con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. II. Định nghĩa và phương pháp tiếp cận chuẩn đói nghèo 1. Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo quốc tế Phương pháp xác định đường đói nghèo theo chuẩn quốc tế do Tổng c ục Thống kê, Ngân hàng thế giới xác định và được thực hiện trong các cuộc khảo sát mức sống dân cư ở Việt Nam (năm 1992-1993 và năm 1997-1998). Đường đói nghèo ở mức thấp gọi là đường đói nghèo về lương thực, thực phẩ m. Đường đói nghèo thứ hai ở mức cao hơn gọi là đường đói nghèo chung (bao gồm cả mặt hàng lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm). Đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm được xác định theo chuẩn mà hầ u hết các nước đang phát triển cũng như Tổ chức Y tế Thế giới và các cơ quan khác đã xây d ựng mức Kcal tối thiểu cần thiết cho mỗi thể trạng con người, là chuẩn về nhu cầu 2.100 Kcal/người/ngày. Những người có mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt được lượng Kcal này gọi là nghèo về lương thực, thực phẩm. Đường đói nghèo chung tính thê m các chi phí cho các mặt hàng phi lương thực, thực phẩ m. Tính cả chi phí này với đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm ta có đường đói nghèo chung.
  5. Đề án Kinh Tế Phát Triển Năm 1993 đường đói nghèo chung có mức chi tiêu là 1,16 triệ u đồng/năm/người (cao hơn đường đói nghèo lương thực thực phẩm là 55%); năm 1998 là 1,79 triệu đồng/năm/người (cao hơn đường đói nghèo lương thực thực phẩm là 39%). Dựa trên các ngưỡng nghèo này, tỷ lệ đói nghèo chung năm 1993 là 58% và 1998 là 37,4%; còn tỷ lệ đói nghèo lương thực tương ứng là 25% và 15%. 2. Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung về đói nghèo Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung về đói nghèo do Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan tháng 9/1993: nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hộ i và phong tục tập quán của địa phương 3. Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo của Chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia Căn cứ vào quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế, nguồn lực tài chính 2001-2005 và mức sống thực tế của người dân ở từng vùng, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam đưa ra chuẩn nghèo đói nhằ m lập danh sách hộ nghèo từ cấp thôn, xã và danh sách xã nghèo từ các huyện trở lên để hưởng sự trợ giúp c ủa Chính phủ từ Chương trình mục tiêu Quốc gia về xóa đói giả m nghèo và các chính sách hỗ trợ khác... Trước những thành tích c ủa công cuộc giảm nghèo cũng như t ốc độ tăng trưởng kinh tế và mức sống, từ năm 2001 đã công bố mức chuẩn nghèo mớ i để áp dụng cho thời kỳ 2001-2005, theo đó chuẩn nghèo c ủa Chương trình xóa đói giả m nghèo quốc gia mới được xác định ở mức độ khác nhau tuỳ theo từng vùng, c ụ thể bình quân thu nhập là: 80 nghìn đồng/người/tháng ở các vùng hải đảo và vùng núi nông thôn;100 nghìn đồng/người/tháng ở các vùng đồng bằng nông thôn; 150 nghìn đồng/người/ tháng ở khu vực thành thị.
  6. Đề án Kinh Tế Phát Triển Trong tương lai sẽ tiến đến sử dụng một chuẩn thống nhất để đánh giá tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam và có tính đến tiêu chí Quốc tế để so sánh. III - Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo 1. Các phương thức phân phối Tăng trưởng tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Và thông qua các phươ ng thức phân phối, kết quả của sự tăng trưởng sẽ đến được với người dân. 1.1 Phân phối thu nhập theo chức năng Phân phối thu nhập theo chức năng có liên quan đến sự phân chia thu nhập theo các yếu tố sản xuất khác nhau như lao động (theo trình độ), đất đa i (tài sản), máy móc thiết bị (vốn)… Những khoản thu nhập từ các yếu tố sản xuất được hình thành từ kết quả của hoạt động kinh tế. Yếu tố tác động đến các khoản thu nhập theo chức năng là giá các yếu tố sản xuất ( tiền lương, địa tô, lãi xuất..). Nhưng tro ng thực tế giá của các yếu tố sản xuất có thể cao hơn (thấp hơn) do cung, cầu quyết định, chính điều đó đã làm thu nhập rơi vào tay những người sở hữu nhiều các yếu tố sản xuất tạo ra khoảng cách giữa những người có ít và có nhiều. Như vậy phấn phối theo chức năng được xác định chủ yếu dựa vào quyền sở hữu các yếu tố sản xuất và vai trò của từng yếu tố trong sản xuất. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến mức độ phúc lợi (thu nhập) khác nhau giữa các nhó m dân cư. 1.2 Phân phối lại thu nhập Nếu như tăng trưởng ki nh tế nhằ m mục tiêu không ngừng cải thiện đời sống nhân dân thì đòi hỏi phải có tác động nhằ m giảm bớt khoảng cách thu nhập giữa các nhó m dân cư do phân phối theo chức năng tạo ra. Phân phối lạ i thu nhập chính là hình thức để khắc phục.
  7. Đề án Kinh Tế Phát Triển Phương thức phân phối lại thu nhập thường được thực hiện qua đánh thuế thu nhập, các chương trình trợ cấp và chi tiêu công của Chính phủ nhằ m giả m bớt mức thu nhập của người giàu và nâng cao thu nhập của ngườ i nghèo. Nhưng đây không phải hình thức cơ bản nâng cao thu nhập củ a đai bộ phận dân cư. 2.Giới thiệu đường Lorenz và hệ số Gini 2.1 Đường Lozen Conrad Lozen là nhà thống kê người Mỹ năm 1905 đã xây dựng biểu đồ biểu thị mối quan hệ giữ các nhó m dân số và tỷ lệ thu nhập tương ứng của họ. Thu 100 nhập 80 Đường Lozen Đường 450 60 cộng 40 A B d ồn(%) 20 Dân số cộng dồn (%) 0 20 40 60 80 100 Đường Lozen Trục hoành biểu thị phần tră m cộng dồn của dân số và được sắp xếp theo thứ tự thu nhập tăng dần.Trục tung là tỷ lệ trong tổng thu nhập mà mỗi phần tră m trong dân số nhận được. Đường kẻ chéo (đường 450) trong hình cho thấy ở bất kì điể m nào trên đường này đều phản ánh tỷ lệ phần tră m thu nhập nhận được đúng bằng phần tră m c ủa người có thu nhập. Đường chéo là đại diện c ủa sự phân phối thu nhập "hoàn toàn công bằng". Đường Lozen cho thấy mối quan hệ định lượng thực sự giữa tỷ lệ phầ n trăm c ủa dân số có thu nhập và tỷ lệ phần trăm trong tổng thu nhập nhận được trong một khoảng thời gian nhất định chẳng hạn là một năm. Khoảng cách giữa đường chéo và đường Lozen là một dấu hiệu cho biết mức độ bất bình đẳng. Đường Lozen càng xa đường chéo thì mức độ bất bình
  8. Đề án Kinh Tế Phát Triển đẳng càng lớn, điều đó cũng có nghĩa là phần tră m thu nhập của người nghèo nhận được giả m đi. 2.2 Hệ số GINI Đường Lozen sử dụng mức độ đo lường mức độ bình đằng được biểu thị bằng hình vẽ. Hạn chế c ủa đường Lozen là không lượng hóa được mức độ bất bình đẳng và trong trường hợp so sánh 2 phân phối thu nhập, nếu đường Lozen tương ứng với 2 phân phối đo cắt nhau thì không thể xếp hạng sự bất bình đẳng được. Vì vậy phải biểu thị thước đo bằng con số. Hệ số GINI (G) là thước đo được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu thực nghiệ m. Dựa vào đường Lozen có thể tính toán hệ số GINI. Hệ số GINI chính là tỷ số giữa diện tích được giới hạn bởi đường cong Lozen và đường chéo 450 với diện tích tam giác nằm bên dưới đường 450. Hệ số GINI(G) = Diện tích (A)/ Diện tích (A+B) Về lý thuyết hệ số GINI có thể nhận được giá trị từ 0 đến 1. Song thực tế: 0
  9. Đề án Kinh Tế Phát Triển đạt mức độ tăng trưởng khiê m tốn h oặc thậm chí còn có giảm sút trong thu nhập bình quân đầu người. Ngược lại một số nước như Thái Lan (những nă m 1980) Malaixia (những năm 1990) và Sri Lanka (những nă m 1990) đã thất bạu trong giảm nghèo mặc dù đạt được mức tăng trưởng khá cao trong thu nhập bình quân đầu người. Kinh nghiệm của Việt Nam cũng cho thấy suốt thập kỷ 90 của thế kỷ XX và đầu những năm 2000. Tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với giảm nghèo nhanh chóng. Tuy nhiên, tác đọng giảm nghèo của tăng trưởng kinh tế đã suy giả m trong những năm gần đây: 1% tăng trưởng GDP đưa đến giảm 0.77% số người nghèo trong những năm 1993 - 1998 nhưng chỉ còn 0.66% giai đọan 1998 -2002. Điều này cho thấy tác động rất khác nhau của những chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cụ thể cho từng giai đoạn. Nghèo đói có thể ngăn cản tăng trưởng kinh tế vì người nghèo có năng suất lao động thấp do sức khỏe kém và kỹ năng lao động bất cập sẽ làm só i mòn năng lực sản xuất của nền kinh tế. Nghèo đói cũng là m suy giảm năng lực tiết kiệm và đầu tư, làm cho tăng trưởng kinh tế bị triệt tiêu dần.Thêm vào đó, những đòi hỏi khắt khe về tài sản thế chấp cũng ngăn cản người nghèo tiếp cận với các khoản vay trên thị trường tín dụng. Hệ quả tất yếu: người nghèo ít có khả năng khai thác những cơ hội tích lũy vốn vật chất và vốn con người. Điều này làm giảm tốc độ tăng trưởng của thu nhập, và hệ quả có thể là nghèo đói gia tăng. Ngược lại việc giảm nghèo rất có lợi cho tăng trưởng kinh tế: Khi mức nghèo tuyệt đối giảm đáng kể thì song song đó, chúng ta thường chứng kiến mức tăng trưởn g kinh tế cao, bởi vì phần lớn những chính sách tăng thu nhập của người nghèo một cách hiệu quả như đầu tư vào giáo dục tiểu học hạ tầng nông thôn, chăm sóc sức khỏe và nâng coa dinh dưỡng cũng là các chính sách gia tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế. Có thể kết lụân rằng tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần cho giảm nghèo, chứ chưa là điều kiện đủ. Theo UNDP định nghĩa tăng trưởng có lợi cho người nghèo là tăng trưởng kinh tế đưa đến phân phối lại thu nhập có lợi cho người nghèo. Còn
  10. Đề án Kinh Tế Phát Triển theo ADB cho rằng tăng trưởng kinh tế có lợi cho người nghèo khi đó là dạng tăng trưởng tận dụng lao động và kèm theo bằng những chính sách và chương trình giả m thiểu những bất bình đẳng, thúc đẩy tạo việc làm và tăng thu nhập cho người nghèo, đặc biệt là cho phụ nữ và các nhóm xã hội bị cô lập. Nói cách khác Tăng trưởng kinh tế có lợi cho người nghèo là tăng trưởng tối đa hóa tác động tích cực của tăng trưởng trong việc giảm nghèo. Một chiến lược tăng trưởng có lợi cho người nghèo không chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế mà còn tác động đến mô hình phân phối thu nhập để từ đó người nghèo hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế theo một tỷ lệ lớn hơn người giàu thu hẹp lại khoảng cách giàu nghèo và cuối cùng là xóa nghèo. 3.2 Bất bình đ ẳng và nghèo đói trong tăng trưởng kinh tế Việc giảm nghèo tuyệt đối về cở chế do 2 bộ phận cấu thành: do tăng trưởng thu nhập trung bình (trong điều kiện phân phối thu nhập không đổi) và do sự giảm sút bất bình đẳng ( trong điều kiện thu nhập chung không đổi). Các nhà kinh tế phân tách hai tác động kể trên thành tác động do tăng trưởng và tác động do phân phối lại. Bên cạnh đó, ngay cả khi bất bình đẳng không tăng nhưng mức độ bất bình đẳng ban đầu cao cũng hạn chế khả năng tăng trưởng kinh tế giả m nghèo.Thêm nữa, bất bình đẳng thấp còn có tác dụng thúc đẩy gia tăng tỷ lệ giảm nghèo trong tương lai vì hệ số co dãn của tỷ lệ nghèo đối với thu nhập bình quân tỷ lệ nghịch với bất bình đẳng. Như vậy có thể thấy song song mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và nghèo đói, giả m nghèo cần được xem xét trong mối quan hệ giữa nghèo và bất bình đẳng trong quá trình tăng tưởng.
  11. Đề án Kinh Tế Phát Triển Chương II Thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo I- Thực trạng chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam 1. Đầu vào của tăng trưởng Tăng trưởng GDP do ba yếu tố đóng góp là vốn, lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Theo Tổng cục Thống kê, trong mấy nă m gần đây, tăng trưởng GDP của nước ta do đóng góp của yếu tố vốn chiế m 52,7%, lao động chiếm 19,1% và năng suất các nhân tố tổng hợp chiếm 28,2%. Điều đáng lưu ý là đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp tỏ ra vừa thấp hơn những năm 1992-1994, vừa thấp hơn tỷ lệ đó của các nước trong khu vực (thường trên dưới 40%). Các chỉ số này phản ánh xu hướng phát triển của nền kinh tế nước ta còn nghiêng về chiều rộng hơn là chiều sâu. Ngay trong xu hướng phát triển theo chiều rộng, thực tế lại cũng nghiêng về yếu tố vốn đầu tư, là yếu tố mà nước ta còn thiếu, phải đi vay, vừa phải hoàn vốn, vừa phả i trả lãi. Nhưng lượng vốn đầu tư lại đang quyết đ ịnh tốc độ tăng trưởng tới hơ n một nửa. Trong khi đó yếu tố lao động được coi là nguồn lực nội sinh, hiệ n đang có nhiều lợi thế so sánh, như giá rẻ, dồi dào thì lại chỉ đóng vai trò rất nhỏ trong tăng trưởng. Đây là một vấn đề rất đáng quan tâm để tận dụng lợi thế so sánh động trong phát triển kinh tế và chủ động hội nhập. 2. Quá trình tăng trưởng Tốc độ tăng trưởng của giá trị tăng thêm thấp hơn tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất do tốc độ tăng chi phí trung gian cao, làm tỷ lệ của chi phí trung gian tăng lên. Điều này diễn ra trong một thời gian khá dài ở cả ba khu vực. Tính chung trong thời kỳ 1991 - 2003, tăng trưởng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp là 6,2%/năm, nhưng tăng trưởng giá trị tăng thêm chỉ đạt
  12. Đề án Kinh Tế Phát Triển 4,1% , chỉ bằng 2/3 tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất. Chi phí trung gian của khu vực này tăng cao do nhiều nguyên nhân; trong đó, có nguyên nhân khách quan như chi phí do phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai tăng (có nă m thiệt hại lên đến gần 10 nghìn tỷ đồng); do giá cả thế giới thấp và sụt giả m liên tục. Ngoài ra, còn có nguyên nhân chuyển dịch cơ cấu những ngành có tỷ lệ chi phí trung gian cao hơn lại tăng nhanh hơn, nên đã làm cho tỷ lệ chi phí trung gian chung của toàn khu vực nông, lâ m, ngư nghiệp tăng lên. Quy hoạch và thực hiện quy hoạch chưa tốt, đầu tư theo phong trào hoặc tự phát, tình trạng "trồng rồi lại chặt" khi vòng đời kinh tế chưa kết thúc, chưa thu hồi được vốn... do không có thị trường tiêu thụ. Chi phí đầu vào của hầ u hết các khâu từ làm đất, thủy lợi, giống, bả o vệ thực vật,... đều còn ở mức cao. 3. Đầu ra của tăng trưởng Trong cơ chế thị trường, đầu ra - tiêu thụ sản phẩ m, mới có ý nghĩa quyết định quá trình tái sản xuất xã hội. Trong các kênh tiêu thụ, xuất khẩu là một kênh có tầm quan trọng đặc biệt đối với n ền kinh tế nước ta: năm 2003 chiế m trên 50% GDP (cao thứ 6 trong khu vực, thứ 9 ở châu Á và thứ 17 trê n thế giới). Tuy nhiên, trong tổng kim ngạch xuất khẩu tỷ trọng hàng nguyê n liệu, hàng thô, hàng sơ chế hoặc hàng gia công còn chiế m tỷ trọng khá cao, do đó khả năng thu ngoại tệ chưa khai thác hết. Trong tổng số 19,1 tỷ USD hàng xuất khẩu trong chín tháng đầu năm 2004, kim ngạch của những mặt hàng này chiếm 3/4 tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong khi đó, nhập siêu vài năm gần đây lại gia tăng cả về giá trị kim ngạch nhập khẩu, cả về tỷ lệ nhập siêu: năm 1999 có 200,7 triệu USD (chiế m 1,7% xuất khẩu), năm 2001 là 1.189 triệu USD (chiếm 7,9%), năm 2002 là 3.039 triệu (chiếm 18,2%), nă m 2003 lên 5.050 triệu USD (chiếm 25%), chín tháng đầu năm 2004 là 3.389 triệu U SD (chiế m 17,8%). Điều đáng lưu ý là nhập siêu tập trung vào khu vực kinh tế trong nước, chứng tỏ chúng ta chưa tận dụng được thời cơ, chậm khắc phục thách thức do cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu theo những cam kết và lịch trình hội nhập.
  13. Đề án Kinh Tế Phát Triển Thêm vào đó, bên cạnh một số mặt hàng hiện đứng thứ nhất, thứ nhì thế giới hoặc khu vực, thì vẫn còn nhiều mặt hàng chưa có thương hiệu riêng hoặc phải đứng dưới thương hiệu của nước khác, nên chẳng những không quyết định được mức giá cả, mà còn không bán được với giá c ả cùng loại như các nước khác. II. Thực trạng đói nghèo của Việt Nam trong thời gian qua 1. Tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta đã giảm nhanh, trong đó thành thị giảm nhanh hơn nông thôn Năm 2004 tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta là 8.3% tương đương với khoảng 1.45 triệu hộ ( nă m 2001 tỷ lệ nghèo là 17.4% với khoảng 2.8 triệu hộ). Điều này cho thấy thực trạng nghèo đói đã được cải thiện nhanh. Xu hướng nà y được phản ánh cụ thể dưới đây: Tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta trong thời gian qua Đơn vị: % 1993 1998 2002 Các chỉ tiêu 58.1 37.4 28.9 Tỷ lệ hộ nghèo( theo chuẩn chung) 25.1 9.2 6.6 Thành thị Nông thôn 66.4 45.5 35.6 24.9 15 10.9 Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn lương thực 7.9 2.5 1.9 Thành thị Nông thôn 29.1 18.6 13.6 18.5 9.5 6.9 Khoảng cach nghèo 6.4 1.7 1.3 Thành thị Nông thôn 21.5 11.8 8.7 Nguồn: Chương trình phát triển của Liên hợp quốc(2003), báo cáo phát triển con người 2002
  14. Đề án Kinh Tế Phát Triển Nếu như năm 1993 có 58.1% hộ nghèo, thì nă m 1998 có 37.4% hộ và đến năm 20 02 tỷ lệ này là 28.9%(khoảng 4.73 triệu hộ nghèo) nghĩa là sau 10 năm hơn một nửa số hộ nghèo đã được thoát nghèo. Tuy nhiên tốc đọ giảm nghèo ở nông thôn và thành thị không giống nhau. Trong đó thành thị giả m đ i tới 4 lần từ 25.1% năm 1993 xuống còn 6.6% năm 2002, trong khi đó nông thôn chỉ giảm được 1/2 số hộ nghèo, từ 66.4% xuống còn 35.6%. Nếu tính theo chuẩn lương thực thực phẩ m thì số hộ nghèo ở thành thị còn giảm nhanh hơn, từ 7.9% xuống còn 1.9% nghĩa là giảm đi 4 lần trong khi đó ở nông thô n chỉ giảm đi hơn 2 lần. từ 29.1% xuống còn 13.6%. 2. Số hộ nghèo vẫn còn nhiều và phần lớn ở vùng nông thôn, số hộ ở cận kề chuẩn nghèo còn đông Theo các nhà hoạch định chính sách nếu nâng chuẩn nghèo lên 180.000 VND-200.000 VND/người /tháng đối với vùng nông thô n và 250.000 VND- 260.000 VND/người/ tháng đối với thành thị, thì Việt Nam sẽ có 4.6 triệu hộ nghèo, chiếm 26% tổng số hộ toàn quốc. Trong đó hộ nghèo nông thôn miề n núi 45.9%, ở vùng nông thôn đồng bằng sẽ là 23.2% và ở khu vực thành thị là 12.2%. Khi đó tỷ lệ nghèo ở các vùng kinh tế sẽ có chênh lệch đáng kể: Tâ y Bắc là 72.3%; Đông Bắc là 36.1%; Đồng bằng Sông Hồng 19.8%; Bắc Trung Bộ 39.7%; Duyên Hải miền Trung 23.3%; Tây Nguyên 52.2%; Đông Nam Bộ 10.2% và Đồng Bằng Sông Cửu Long20.8%. Có thể thấy rõ hơn qua chỉ tiêu phản ánh cuộc sống hàng ngày. Theo số liệu điều tra về mức sống dân cư Việt Nam, chia dân cư ra thành 5 nhóm thu nhập (đường Lozen) thì nhóm I - nhóm nghèo nhất có thu nhập trung bình năm 1998 là 62.916 VND/người/tháng (755.000 VND/năm) và năm 2002 là 107.670 VND/người/tháng. Trên 62.71 thu nhập của hộ nghèo là từ hoạt động nông lâm nghiệp và thủy sản, 8% từ hoạt động phi nông nghiệp, 19.24% từ tiền công, tiền lương và 10.05% là từ nguồn thu khác. Điều này phản ánh rằng các hộ nghèo sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp và ở nông thôn. Cơ cấu
  15. Đề án Kinh Tế Phát Triển chi tiêu cho các nhóm nghèo tập trung cho các nhu cầu thiết yếu, như 70% cho nhu cầu ăn, uống hút và chưa đến 30% cho các nhu cầu khác như mặc, y tế, giao thôn, giáo dục văn hóa thể thao. Một trong những nhu cầ u cơ bản của con người là nơi ở. Nă m 2002 có 39.93% người nghèo sống trong các ngôi nhà tạm bợ, không bảo đảm an toàn. Các đồ dùng lâu bền phục vụ sinh hoạt hàng ngày vẫn còn rất thiếu cho các nhu cầu hiện đại. 3. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các khu vực, giữ các vùng kinh tế và giữa các đơn vị hành chính Sự phân hóa giàu nghèo là một hiện tượng được chú ý trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở nước ta. Trước hết tỷ lệ nghèo phân biệt theo các vùng. Tỷ lệ nghèo theo chuẩn nghèo chung chia theo vùng Đơn vị: % Vùng 1998 2002 29.3 22.4 Đồng bằng sông Hồng 62.0 38.4 Đông Bắc 73.4 68.0 Tây Bắc 48.1 43.9 Bắc Trung Bộ 34.5 25.2 Duyên Hải Nam Trung Bộ Tây Nguyên 52.4 51 12.2 10.6 Đông Nam Bộ 36.9 23.4 Đồng bằng Sông Cửu Long Nguồn: Tổng cục thống kê (2004) Các số liệu cho thấy tỷ lệ hộ nghèo ở cùng Tây Bắc nhiều gấp 7 lần vùng Đông Nam Bộ, còn Tây Nguyên là gần 5 lần và Bắc Trung Bộ là 4 lần… Cùng với xu hướng giảm hộ nghèo chung của cả nước, các vùng cũng có xu hướng giảm, trong đó Đông Bắc và Đồng bằng Sông Cửu Long có mức giả m nhanh nhất. Các tỉnh có tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm cao nhất tập trung ở miền núi phía Bắc là Lai Châu (35.68%), Bắc Kạn (30.74%), Lào Cai
  16. Đề án Kinh Tế Phát Triển (29.56%), Cao Bằng (2 7.01%) ở Tây Nguyên có tỉnh Gia Lai( 18.18%), ở Bắc Trung Bộ có tỉnh Hà Tĩnh (22.55%). Các tỉnh có tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm thấp nhất là thành phố Hồ Chí Minh (1.26%), Bình Dương (1.68%), Đà Nẵng (1.83%), Hà Nội (2.25%). Nếu so sánh chỉ tiêu này chúng ta thấy sự chệnh lệch này rất lớn, thí dụ tỷ lệ nghèo của Lai Châu lớn gấp hơn 28.3 lần so với Thành Phố Hồ Chí Minh và gấp 15.86 lần so với Hà Nội. 1.4 Sự bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư Sự phân hóa giàu nghèo thể hiện rõ khi điều tra dựa trên 5 nhóm thu nhập (đường Lozen). Năm 2002 nhóm giàu nhất có thu nhập 873.000 VND/người/tháng gấp 8.1 lần nhóm nghèo nhất (108.000VND) Sự bất bình đẳng đó thể hiện qua: Sự bất bình đẳng giữa nhóm nghèo nhất và giàu nhất năm 2002 Nhóm Nhóm Các chỉ tiêu chủ yếu nghèo nhất giàu nhất 83.9 97 1.Tỷ lệ biết chữ (%) 236 1418 2.Chỉ tiêu cho giáo dục bình quân năm (1.000VND) 16.5 22 3.Tỷ lệ đến khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế (%) 395.03 1181.43 4.Chi tiêu cho y tế bình quân năm (1.000VND) 25 42.4 5.Số giờ làm việc trung bình tuần (giờ) 6.Thu nhập bình quân đầu người tháng (1.000VND) 108 873 123.3 547.53 7.Chi tiêu cho đời sống bình quân người/tháng (1.000VND) 8.Diện tích ở bình quân nhân khẩu (m2) 9.5 17.5 1.28 34.93 9.Tỷ lệ hộ sử dụng nước máy (%) Nguồn: Tổng cục thống kê (2004) Kết quả cho thấy mức độ bất bình đẳng giữa hai nhóm dân cư giàu nhất và nghèo nhất. Nhó m dân cư giàu đã có ưu thế trong nhiều lĩnh vực dịch vụ, kể cả việc là m. Bởi vì số giờ làm việc trung bình của nhóm giàu nhiều hơ n nhó m nghèo đến 1.7 lần, k hông phải những người nghèo là m ít giờ và không
  17. Đề án Kinh Tế Phát Triển muốn là m việc, mà do tình trạng thiếu việc làm, đặc biệt là thời gian nhàn rỗi ở khu vực nông thôn. Sự phân hóa giàu nghèo còn được thể hiện qua hệ số GINI. Hệ số GINI ở Việt Nam: nă m 1994 là 0.35, năm 1999 là 0.39 năm 2002 là 0.42. Chỉ tiê u này có khác biệt nhưng không nhiều giữa các khu vực và các vùng. Điều đấy cho thấy sự bất bình đẳng về thu nhập ở mức thấp nhưng đang có xu hướng gia tăng. 1.5 Tỷ lệ hộ đói nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn còn 20% Sau 7 năm thực hiện, chương trình phát triển kinh tế -xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (còn gọi là chương trình 135) đã góp phần giảm tỷ lệ hộ đói nghèo ở những vùng này từ 60% năm 1998 xuống còn 20% hiện nay. Chương trình 135 được thực hiện ở 2410 xã của 52 tỉnh. Những kết quả đạt được của Chương trình này đã tạo nên sự thay đổi về vật chất, tinh thần trong đời sống mỗi gia đình, mỗi thôn bản và cả bộ mặt nông thôn miền núi, rõ nét nhất là trên lĩnh vực cơ sở hạ tầng thiết yếu gồ m điện, đường, trường học và trạm xá. Đến nay, đã có 97% số xã đặc biệt khó khăn có đường ôtô đến trung tâ m xã, tạo nên sự giao lưu kinh tế, hàng hóa thuận lợi hơn. Khoảng 64% số hộ vùng sâu, vùng xa có điện sử dụng, nhờ đó năng suất lao động được tăng lên và nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở miền núi phát triển. Trên 5000 trường học đã được xây dựng và đưa vào sử dụng, thu hút 90% con em ngườ i dân tộc vùng sâu, vùng xa trong độ tuổi đến lớp. Hiện có 96% số dân trong vùng được chăm sóc sức khỏe tại gần 390 c ông trình y tế. Đa số thôn bản đề u có y tế cộng đồng, cơ bản trong vùng đã kiểm soát được dịch bệnh hiể m nghèo Gần 300 công trình thủy lợi đã góp phần quan trọng trong việc quy hoạch và bố trí lại dân cư ở những nơi cần thiết và ở các vùng biên giới. Khoả ng 70% hộ dân đã được sử dụng nước sạch. Hàng trăm công trình chợ đã
  18. Đề án Kinh Tế Phát Triển trở thành trung tâm giao lưu hàng hóa nông -lâm thổ sản và là nơi giao lưu văn hóa của mỗi vùng. Trạm bưu điện văn hóa xã xây dựng ở nhiều nơi đã giúp người dân giao lưu, mở rộng thông ti n với cả nước. Nhờ khai hoang đất canh tác, gần 32 nghìn hộ dân đã có thêm đất sản xuất và có nơi ở mới. Lương thực bình quân đầu người đã tăng từ 280kg nă m 1998 lên 320kg năm 2004, cá biệt có xã đạt 500kg. Khoảng cách đói nghèo giữa các vùng, các dân tộc đang dần được thu hẹp. Mặc dù đạt được kết quả như vậy, nhưng thực tế các xã đặc biệt khó khăn vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức do trình độ dân trí của người dâ n trong vùng vẫn còn thấp, cuộc sống vẫn bị chi phối của nền kinh tế tự cấp, tự túc; cơ sở vật chất hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển do phần lớn công trình được xây dựng quy mô nhỏ, thiếu đồng bộ và thiếu yếu tố đảm bảo bền vững. Gần 90 xã vẫn chưa có đường ôtô đến trung tâ m, 550 xã chưa có điện lưới quốc gia và 290 xã chưa có trạm xá. Theo báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, nếu tính theo tiêu chí nghèo mới được Việt Nam công bố tháng 7/2005, tỷ lệ hộ nghèo ở vùng Tây Bắc lên tới trên 60%, Tây Nguyên 50%. III - Thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo 1. Phân phối thu nhập thời gian qua ở Việt Nam Nhờ có chính sách phân phối lại qua hệ thống thuế, Nhà nước có thể huy động được một nguồn lực quan trọng để phân phối lại cho đầu tư và đảm bảo chi thường xuyên. Đặc biệt trong thời gian gần đây N hà nước đang đẩy mạnh việc thu thuế thu nhập cá nhân, điều này sẽ giúp tăng thu ngân sách, phâ n phối lại thu nhập giả m khoảng cách giàu nghèo. Kết quả giai đoạn 1991 -2000 kinh tế tăng trưởng đạt 7.56%, tỷ lệ huy động từ GDP giả m từ 25% xuống 20% nên thu nhập của người dân tăng lê n nhanh theo đà tăng trưởng kinh tế, 1991-1995 tăng trưởng bình quân nă m
  19. Đề án Kinh Tế Phát Triển 8.2% thì thu nhập bình quân là 168.000VND/năm, 1996-2000 tăng trưởng 6.9% thu nhập bình quân là 226.700VND. Do kinh tế ở đô thị phát triể n nhanh hơn nông thôn lên thu nhập ở thành thị chênh lệch với nông thôn giai đoạn 1990-1995 là 2.55 lần, giai đoạn 1996 -2000 gấp 2.1 lần. Phân phối lần đầu qua hệ thống tiền công, tiền lương có điều chính chính sách nên đời sống công nhân viên chức được cải thiện, tuy rằng khoả ng cách giàu nghèo giữa các nghành nghề, khu vực có xu hướng gia tăng. Mặc dầu sự bình đẳng trên các vùng có cải thiện nhưng do trình độ phát triển có chênh lệch giữa các vùng nên độ phân hóa trong cả nước vẫn doãng ra. Nhưng đối với nông thôn, khoảng cách giàu nghèo có giảm do kết quả chính sách bỏ thuế sát sinh, miễn giảm thuế nông nghiệp, trợ giá, hỗ trợ nông dân, thực hiện xóa đói giảm nghèo. Thu nhập ở nông thôn 1993-1994 bình quân nhó m nghèo nhất là 63.000VND, nhóm giàu nhất là 409.000VND (chênh lệch 6.5 lần) giai đoạn 2001-2002 nhó m nghèo nhất là 100.000VND nhóm giàu nhất là 599.000VND (chênh lệch 6 lần,giảm 0.5). 2. Những thành tựu đã đạt được của sự kết giữa tăng trưởng và xoa đói giảm nghèo Từ quan điểm cơ bản: "tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển", thể hiệ n tính ưu việt c ủa chế độ xã hội ở Việt Nam, gần 20 nă m qua, Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra hàng loạt các chương trình, mục tiêu quốc gia nhằm giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc (dạy nghề, tạo việc làm, xuất khẩu lao động, xóa mù, phổ cập tiểu học, xóa đói giảm nghèo (Chương trình 133), hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn (Chương trình 135), chính sách đ ối xử với ngườ i có công, v.v..). Hàng loạt văn bản luật và dưới luật được thể chế hóa để giải quyết các vấn đề xã hội: xây dựng Luật Lao động, Luật Giáo dục, Pháp lệnh Nghĩa vụ công ích, Luật Phòng chống ma túy, Luật Di sản văn hóa, Pháp lệnh
  20. Đề án Kinh Tế Phát Triển Thư viện, Pháp lệnh về các lĩnh vực y tế, giáo dục, thể thao, Nghị định về đưa lao động đi là m việc ở nước ngoài, cải tiến tiền lương, thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiể m y tế, v.v.. Nhờ vậy nước ta đã đ ạt được những thành tựu quan trọng trong giải quyết các vấn đề xã hội. Trước hết là đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt: thu nhập bình quâ n đầu người nước ta từ 220USD/người/nă m trong đầu những nă m 90 của thế kỷ XX đã tăng lên 400USD/người/năm (2000), tăng 1,8 lần, 483USD/người/năm (2003) và 580 USD/người/nă m (2004). Theo đánh giá c ủa WB thì tỷ lệ nghèo đói c ủa Việt Nam giữa những nă m 80 là 51% giả m xuống 37% cuối những năm 90 c ủa thế kỷ XX, được xếp vào nước có tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh. Còn theo chuẩn c ủa Việt Nam thì tỷ lệ hộ nghèo đói ở nước ta từ 30,1% nă m 1992 xuống 11% năm 2000 và theo chuẩn mới thì năm 2002 còn 17,2%, đ ến năm 2004 giảm xuống còn 8,3%. Chỉ riêng ngân sách nhà nước chi cho các chương trình quốc gia liên quan đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo đã chiế m trên 21 tỉ đồng. Nguồn quỹ tín dụng giúp hộ nghèo vay vốn lãi suất thấp được mở rộng. Ngân hàng phục vụ người nghèo đến cuối năm 1999 đã huy đ ộng được 4.078 tỉ đồng. Tổng dư nợ đạt 3.503 tỉ đồng, đã cho 2.170.000 hộ vay, bình quân mỗi hộ vay 1,56 triệu đồng. Có hàng tră m chương trình, d ự án vớ i hơn 40 tỉ đồng giúp hộ nghèo, huyện nghèo, xã nghèo. Theo đánh giá c ủa Liên hợp quốc thì Việt Nam đã giảm được 1/2 tỷ lệ đói nghèo trong thập niên vừa qua. Nước ta đã xây d ựng được quỹ trợ cấp thường xuyên và trợ cấp đột xuất. Hàng năm, có từ 1 triệu đến 1,5 triệu người (gồm người già neo đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật, trẻ lang thang hoặc các gia đình b ị thiên tai) được c ứu tế. Riêng nă m 1999 và 2000 nhờ quỹ trợ cấp đột xuất, hàng triệu hộ được cứu trợ do bị lũ lụt ở miền Trung và Nam Bộ. Mức tiêu dùng bình quân tăng từ 2,6 triệu đồng/người/năm (1995) lê n 4,3 triệu đồng/người/nă m (2001). Việt Nam được công nhận là nước đạt chuẩn xóa mù chữ, phổ cập tiểu học. Đầu tư cho giáo dục trong tổng đầu tư ngân sách năm 2000 là 15% và năm 2003 là trên 16%. Tính đến hết nă m 2003, có tới 19 tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Về y
nguon tai.lieu . vn