Xem mẫu

  1. Đề tài: Thực thi quyền hạn của quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước Thực trạng và giải pháp
  2. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................................ 2 Em xin chân thành cảm ơn ! ............................................................................................................ 2 NỘI DUNG .................................................................................................................................... 3 I. Quyền hạn của quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước .................................................. 3 1.1. Quốc hội .................................................................................................................................. 3 1.2. Quyền hạn của quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước ............................................... 4 1.2.1. Ngân sách nhà nước ............................................................................................................ 4 1.2.2. Quyền hạn của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước .......................................... 5 II. Việc thực thi quyền hạn của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước ........................... 9 2.1. Thực trạng việc thực thi quyền hạn của quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước ....... 9 2.2. Một số giải pháp kiến nghị .................................................................................................. 13 III. KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 14
  3. LỜI MỞ ĐẦU Như chúng ta đã biết , sự ra đời và tồn tại của nhà nước và sự xuất hiện của nền sản xuất hàng hóa bao giờ cũng gắn liền với sự ra đời và tồn tại của ngân sách nhà nước. Đó là hệ thống các mối quan hệ kinh tế phát sinh giữa nhà nước và các chủ thể khác trong nền kinh tế thông qua quá trình hình thành, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung quan trọng nhất của nhà nước nhằm đáp ứng cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước về mọi mặt. Ngân sách nhà nước cũng đã trở thành công cụ quan trọng nhất được nhà nước sử dụng để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, huy động nguồn tài chính, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, cũng như điều tiết thu nhập nhằm đảm bảo công bằng xã hội. Những việc đó được thực hiện thông qua hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước. Thu để định hướng đầu tư , kích thích hoặc hạn chế sản xuất,kinh doanh…chi để nâng cao chất lượng y tế, giáo dục, nâng cao đời sống nhân dân…Tuy nhiên trong điều kiện ngân sách nhà nước còn eo hẹp ,thì việc thu, chi ngân sách thế nào cho hiệu quả và tiết kiệm , tránh được tình trạng thất thoát, thâm hụt ngân sách luôn là bài toán khó đặt ra cho nhà nước ta. Với tư cách là cơ quan đại diện của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội được hiến pháp và pháp luật quy định thẩm quyền tối cao trong việc quyết định các vấn đề quan trọng nhất của đất nước, trong đó có lĩnh vực tài chính ngân sách. Với mục đích tìm hiểu rõ hơn về quyền hạn của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước cũng như việc thực hiện quyền hạn đó đến đâu ? thực sự tốt hay chưa ? Nhóm chúng em xin lựa đề số 03 : “Thực thi quyền hạn của quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước – thực trạng và giải pháp” Trong quá trình làm bài tập thể nhóm đã cố gắng nhiều, song với trình độ hiểu biết vấn đề còn hạn chế nên bài viết khó thể tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy, chúng em rất mong có thể nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía thầy cô cũng như các bạn để bài làm của chúng em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn !
  4. NỘI DUNG I. Quyền hạn của quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước 1.1. Quốc hội Quốc hội là một cơ quan quan trọng trong hệ thống chính trị Việt Nam, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân Việt Nam và là cơ quan quyền lực Nhà nuớc cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Vị trí, tính chất của quốc hội được quy định tại Điều 93 Hiến pháp 1992: “ Quốc hội là cơ quan đại biểu của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Thành phần nhân sự của cơ quan này là các đại biểu quốc hội Việt Nam, do cử tri Việt Nam bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các đại biểu được bầu chịu trách nhiệm trước cử tri bầu ra mình và trước cử tri cả nước. Thông qua các đại biểu và thông qua quốc hội, nhân dân Việt Nam sử dụng quyền lực của mình để định đoạt các vấn đề của đất nước. Quốc hội có ba chức năng chính sau : 1. Lập pháp 2. Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước 3. Giám sát tối cao các hoạt động của nhà nước Chức năng của Quốc hội được quy định cụ thể tại Điều 83 Hiến pháp 1992 như sau:  Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.  Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yểu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.  Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước nhằm bảo đảm cho những quy định của hiến pháp và pháp luật được thi hàn triệt để và thống nhất, bộ máy nhà nước hoạt động đồng bộ, có hiệu lực và hiệu quả. Như vậy, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước, Quốc hội thực thiện các chức năng, nhiệm vụ của mình
  5. bằng chính những quyền hạn mà nhân dân giao cho. Trong đó việc Quốc hội sử dụng quyền hạn trong lĩnh vực ngân sách nhà nước cũng chính là việc dùng một công cụ đặc biệt để đảm bảo hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. 1.2. Quyền hạn của quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước 1.2.1. Ngân sách nhà nước Ngân sách nhà nước được nhìn nhận dưới hai phương diện khác nhau, đó là phương diện kinh tế và phương diện pháp lý. Xét dưới phương diện kinh tế thì: Ngân sách nhà nước là bản dự toán thu và chi tiền tệ của quốc gia được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Xét dưới phương diện pháp lý thì: Ngân sách là một đạo luật đặc biệt do quốc hội ban hành để cho phép chính phủ thực hiện trong thời hạn xác định. Tính chất đặc biệt của đạo luật được thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, ngân sách nhà nước là đạo luật được cơ quan lập pháp làm ra theo một trình tự riêng, không hoàn toàn giống với trình tự lập pháp thông thường; Thứ hai, hiệu lực về thời gian của đạo luật ngân sách nhà nước bao giờ cũng được xác định rõ là một năm, trong khi các đạo luật thông thường là vô hạn. Từ việc nhìn nhận về ngân sách nhà nước qua các phương diện khác nhau, ta có thể rút ra các đặc điểm của ngân sách nhà nước như sau: +) Ngân sách nhà nước là một bản kế hoạch tài chính khổng lồ nhất cần được quốc hội biểu quyết thông qua trước khi thi hành. +) Ngân sách nhà nước không phải là một bản kế hoạch thuần túy mà còn là một đạo luật. +) Ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính của toàn thể quốc gia, được trao cho chính phủ tổ chức, thực hiện nhưng phải đặt dưới sự giám sát trực tiếp của quốc hội. +) Ngân sách nhà nước được thiết lập và thực thi hoàn toàn vì mục tiêu mưu cầu lợi ích chung cho toàn thể quốc gia, không phân biệt người thụ hưởng các lợi ích đó là ai, thuộc thành phần kinh tế nào hay đẳng cấp xã hội nào. +) Ngân sách nhà nước luôn phản ánh mối tương quan giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp trong quá trình xây dựng và thực hiện ngân sách. Về cơ cấu của ngân sách nhà nước, do ngân sách của một quốc gia là văn kiện tài chính quan trọng nhất, trong đó những cơ quan có thẩm quyền tìm cách dự trù,
  6. tiên liệu các khoản thu, các khoản chi của quốc gia trong thời hạn nhất định, vì thế, văn kiện tài chính đặc biệt này bao giờ cũng được cấu trúc bưởi hai phần, đó là phần thu và phần chi : Theo Khoản 1 Điều 2 Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 thì các khoản thu ngân sách nhà nước “bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu theo quy định của pháp luật”. Khoản 2 Điều 2 Luật ngân sách nhà nước năm 2002 quy định rõ nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước “bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế - xã hộ, đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật”. 1.2.2. Quyền hạn của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước Quá trình ngân sách là toàn bộ những hoạt động lập, chấp hành, quyết toán ngân sách của một quốc gia. Quá trình ngân sách được tính từ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc hướng dẫn lập dự toán ngân sách nhà nước cho đến khi báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước đã được quốc hội phê chuẩn. Như vậy quá trình ngân sách nhà nước bao gồm ba khâu hay ba giai đoạn chính là: Lập dự toán ngân sách nhà nước; chấp hành ngân sách nhà nước; quyết toán ngân sách nhà nước. Để phân tích được quyền hạn của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước ta sẽ đi phân tích quyền hạn cụ thể của Quốc hội trong từng giai đoạn của quá tr ình ngân sách nhà nước. Giai đoạn thứ nhất lập dự toán ngân sách nhà nước là quá trình xây dựng và quyết định dự toán thu, chi ngân sách của nhà nước trong thời hạn một năm. Thẩm quyền của quốc hội trong lập dự toán ngân sách nhà nước được thể hiện như sau: Một là, quyết định dự toán ngân sách nhà nước. Quốc hội thảo luận và quyết định tổng quát về dự toán ngân sách gồm tổng số thu ngân sách nhà nước, tổng số chi ngân sách nhà nước, mức bội chi ngân sách nhà nước và nguồn bù đắp. Quốc hội quy định chi tiết một số nội dung quan trọng trong dự toán ngân sách nhà nước như: +) Tổng số thu ngân sách nhà nước bao gồm thu nội địa, thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, thu viện trợ không hoàn lại. +) Tổng số chi ngân sách nhà nước trong đó có chi ngân sách trung ương và chi ngân sách địa phương.
  7. +) Quyết định chi tiết theo các lĩnh vực đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ và chi viện trợ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, dự phòng ngân sách. Đối với khoản chi phát triển và chi thường xuyên, quốc hội quyết định chi tiết mức chi cụ thể cho các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Hai là, quyết định ngân sách phân bổ ngân sách trung ương gồm tổng số và mức chi từng lĩnh vực, dự toán chi của từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương theo từng lĩnh vực, mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách từng địa phương, bao gồm bổ sung cân đối ngân sách và bổ sung có mục tiêu. Ba là. Quyết định các dự án, công trình quan trọng quốc gia được đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước. Bốn là, quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước trong trường hợp cần thiết. Năm là, quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia để phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm cân đối thu, chi ngân sách nhà nước. Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, có thẩm quyền trong lĩnh vực lập dự toán ngân sách nhà nước như sau: +) Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương năm đầu của thời kì ổn định ngân sách, quyết định tỷ lệ phần trăm phân chia giữ ngân sách trung ương và ngân sách từng địa phương đối với các khoản thu quy định tại khoản 2 điều 30 Luật Ngân sách nhà nước. +) Xem xét cho ý kiến đối với các báo cáo của chính phủ về dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bố ngân sách trung ương để chính phủ bổ sung, hoàn chỉnh báo cáo trình Quốc hội. Cho ý kiến về từng nội dung chi tiết chi quốc phòng an ninh. Ủy ban kinh tế và ngân sách có thẩm quyển cơ bản sau: +) Thẩm tra, chủ trì tổ chức phiên họp, có đại diện Hội đồng dân tộc, các ủy ban khác của Quốc hội, đại diện Chính phủ và các cơ quan hữu quan tham dự để thẩm tra các báo cáo của Chính phủ trước khi trình quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định trong lĩnh vực ngân sách nhà nước nói chung và trong lập dự toán ngân sách nhà nước nói riêng. +) Tổng hợp các ý kiến của Hội đồng dân tộc và các ủy ban khác của Quốc hội, lập báo cáo thẩm tra để trình ủy ban thường vụ Quốc hộ cho ý kiến trước, sau đó hoàn chỉnh báo cáo thẩm tra trình Quốc hội.
  8. Ngoài ra, một trong những quyền cơ bản của Quốc hội mà được ghi nhận trong hiến pháp 1992 được xét cụ thể trong lĩnh vực ngân sách nhà nước đó là: Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao về lĩnh vực tài chính - ngân sách trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội”. Giai đoạn thứ hai: Chấp hành ngân sách nhà nước là quá trình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước sau khi các cơ quan có thẩm quyền thông qua theo những trật tự, nguyên tắc luật định. Bản chất của giai đoạn này chính là các hoạt động “chấp hành” bưởi vậy các hoạt động đó luôn gắn liền với cơ quan hành pháp đó là chính phủ. Tuy nhiên với tư cách là chủ thể có quyền quyết định khối tài sản lớn của quốc gia, Quốc hội cũng có thẩm quyền và trách nhiệm tham gia trực tiếp vào tất cả các giai đoạn chấp hành ngân sách nhà nước. Quốc hội tham gia vào hoạt động chấp hành ngân sách nhà nước thông qua các nội dung như điều chỉnh các chỉ tiêu ngân sách nhà nước trong trường hợp cần thiết, giám sát hoạt động chấp hành ngân sách của chính phủ. Giai đoạn thứ ba: quyết toán ngân sách nhà nước là giai đoạn cuối cùng của quá trình ngân sách. Quyết toán ngân sách là báo cáo kế toán về kết quả chấp hành ngân sách nhà nước hàng năm đã được phê duyệt theo trình tự luật định. Quốc hội là cơ quan có trách nhiệm cao nhất trong hoạt động ngân sách nhà nước , phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước, quyết toán các dự án, công trình đầu tư quốc gia quan trọng đã được Quốc hội phê chuẩn. Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội có trách nhiệm thẩm tra trước khi Chính phủ trình Quốc hội nội dung thực hiện ngân sách nhà nước, quyết toán ngân sách nhà nước. Ngoài các chức năng cơ bản của Quốc hội trong các giai đoạn cụ thể của quá trình ngân sách nhà nước thì Quốc hội còn có quyền đặc biệt quan trọng, xuyết suốt của quá trình ngân sách đó là quyền kiểm soát, giám sát các hoạt động trong các quá trình ngân sách nhà nước. Hoạt động kiểm soát, giám sát được thực hiện chặt chẽ trong quá trình chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước. Kiểm soát hoạt động chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước là quá trình xem xét việc tuân thủ pháp luật về chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước nhằm
  9. phát hiện, ngăn chặn nguy cơ vi phạm pháp luật trong quá trình chấp hành, quyết toán ngân sách nhà nước. Khoản 7 điều 15 Luật Ngân sách quy định: “ Quốc hội giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, nghị quyết của Quốc hội về ngân sách nhà nước, các công trình quan trọng của quốc gia, các trương trình phát triển kinh tế xã hội, các dự án và công trình xây dựng cơ bản quan trọng nhất”. Quy định trên của Luật Ngân sách được cụ thể hóa như sau: +) Quốc hội xem xét báo cáo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ những vấn đề liên quan đến hoạt động chấp hành, quyết toán ngân sách nhà nước và giải trình những vấn đề phát sinh trước Quốc hội. +) Quốc hội xem xét việc trả lời chất vấn của các vị bộ trưởng gắn với nội dung chấp hành, quyết toán ngân sách nhà nước. +) Quốc hội có thể lập những ủy ban lâm thời để điều tra về những vấn đề gắn với chấp hành, quyết toán ngân sách nhà nước. Dựa trên kết quả giám sát, Quốc hội có thể đưa ra quyết định thích hợp đảm bảo hoạt động chấp hành, quyết toán ngân sách nhà nước được thực hiện theo đúng yêu cầu, mục đích đã đặt ra. Khoản 3 điều 17 Luật ngân sách nhà nước 2002 quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền: “ giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài chính- ngân sách; giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước và chính sách tài chính”. Ủy ban thường vụ Quốc hội có thể xem xét báo cáo của Chính phủ về chấp hành, quyết toán ngân sách nhà nước; xem trả lời chất vấn của người bị chất vấn liên quan đến ngân sách nhà nước; xem xét báo cáo hoạt động cảu cơ quan cấp tỉnh khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật ngân sách nhà nước. Dựa trên kết quả kiểm tra Ủy ban thường vụ Quốc hội có thể đình chỉ toàn bộ hoặc một phần đối với văn bản về pháp luật ngân sách; kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật ngân sách. Bên cạnh đó, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội cũng tham gia vào hoạt động giám sát chấp hành ngân sách nhà nước trong những trường hợp cần thiết.
  10. II. Việc thực thi quyền hạn của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước 2.1. Thực trạng việc thực thi quyền hạn của quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước Quốc hội Việt Nam với vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ở nước ta đã có nhiều đóng góp cho quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, phát triển đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế thông qua thực hiện các nhiệm vụ đ ược Hiến pháp quy định, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Vai trò quan trọng của Quốc hội được thực hiện trên các phương diện khác nhau, trong lĩnh vực tài chính, ngân sách Quốc hội đã thực hiện các hoạt động như: Các chính sách tài chính quốc gia chủ yếu được Quốc hội quyết định thông qua việc ban hành các luật có liên quan như các Luật Thuế, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Quản lý nợ công… và trên cơ sở đó, Quốc hội quyết định Dự toán tổng thu, tổng chi, những nội dung thu chi ngân sách và quyết định mức bội chi và nguồn bù đắp. Quốc hội quyết định phân bổ ngân sách trung ương, quyết định tổng số và mức chi từng lĩnh vực; phân bổ dự toán chi đến từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương theo từng lĩnh vực; phân bổ mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách từng địa phương. Quốc hội phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước bao gồm cả ngân sách Trung ương và địa phương. Đây là một bước tiến bộ khi Quốc hội thảo luận đánh giá các nguồn thu, các khoản thu, chính sách thu để quyết định huy động tối đa cho ngân sách Nhà nước. Đánh giá các khoản chi, chính sách chi để quyết định chi cho phù hợp và hiệu quả. Việc quyết định phân bổ ngân sách cho từng lĩnh vực tạo điều kiện để Quốc hội đánh giá, so sánh, đối chiếu giữa kết quả thực tiễn với mức đầu tư ngân sách, thực hiện các nhiệm vụ chính trị của từng lĩnh vực, bộ, ngành, sự cần thiết điều tiết và hỗ trợ ngân sách bảo đảm cho các địa phương hoạt động một cách bình thường, cũng như việc đánh giá cơ cấu ngân sách cho đầu tư phát triển để quyết định cho phù hợp từng giai đoạn. Thông qua đó để quản lý và sử dụng Ngân sách Nhà nước ngày càng thiết thực, hiệu quả, đúng với bản chất Ngân sách Nhà nước là tiền đóng thuế của nhân dân. Không những thế, Quốc hội còn quyết định danh mục các dự án, công trình quan trọng quốc gia, quyết định cụ thể những nội dung của công trình. Sự tham gia
  11. trực tiếp của Quốc hội trong việc quyết định phân bổ chi tiết ngân sách Trung ương và số bổ sung cho ngân sách địa phương, quyết định những công trình quan trọng quốc gia là một bước cải cách về thể chế nhằm trao cho Quốc hội thực hiện đúng chức năng của mình - chức năng thuộc về bản chất của cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân. Sự cải cách đó đã tạo sự phân công trách nhiệm rõ ràng giữa cơ quan hành pháp và lập pháp trong hệ thống chính trị, thúc đẩy cơ quan chuẩn bị dự án trình và cơ quan thẩm tra, quyết định; cơ quan thực hiện và cơ quan giám sát phải làm tốt hơn trách nhiệm của mình, góp phần tạo ra sự chuyển biến tích cực trong quá trình phân chia quyền hạn và trách nhiệm của mỗi cơ quan trong quy trình ngân sách. Qua sự phân tích trên ta thấy rằng, các hoạt động của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước đạt được một số thành tích như:  Quốc hội đã có thực quyền quyết định về ngân sách Nhà nước.  Tính công khai, minh bạch, công bằng trong phân bổ ngân sách trung ương đã có tiến bộ nổi bật.  Hạn chế được tình trạng "xin - cho" trong lĩnh vực ngân sách.  Tạo ra động lực thúc đẩy các ngành, các cấp các khu vực tích cực khai thác các nguồn thu và chi tiêu ngân sách tiết kiệm, có hiệu quả.  Số tỉnh tự cân đổi được ngân sách và có nộp về về ngân sách trung ương ngày một tăng.  Góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, hướng tới mục tiêu chung của nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Tuy nhiên, ngoài những kết quả đạt được và tác động tích cực trong việc thực hiện chức năng quyết định ngân sách Nhà nước, các chương trình, dự án quan trọng quốc gia, một số hạn chế về quy trình ngân sách, tổ chức bộ máy cơ quan lập pháp và công cụ hỗ trợ còn tồn tại những hạn chế trong việc nâng cao vai trò của Quốc hội như sau: Thứ nhất, thời gian dành cho hoạt động thẩm tra, thảo luận ngân sách và quyết định chương trình, dự án quan trọng quốc gia trong lịch biểu tài chính còn hạn chế. Theo quy định của Luật NSNN, để các cơ quan của Quốc hội xem xét, thẩm tra tình hình thực hiện NSNN năm hiện hành, dự toán NSNN và phương án phân bổ NSTW, các báo cáo này phải gửi tới HĐND và các Uỷ ban của Quốc hội trước 1/10. Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách chủ trì thẩm tra chậm nhất là ngày 5/10, tiếp đó các báo cáo
  12. phải được hoàn thiện gửi tới ĐBQH 10 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội. Quy trình trên cho thấy các cơ quan Quốc hội phải chịu sức ép về thời gian rất lớn để hoàn thành báo cáo thẩm tra trình ra Quốc hội. Thời gian khoảng 1 tuần để Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách chủ trì thẩm tra cùng với HĐDT và các Uỷ ban khác của Quốc hội về các báo cáo ngân sách là quá ngắn làm ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo thẩm tra ngân sách và chất lượng thảo luận, quyết định ngân sách của Quốc hội. Ở nhiều quốc gia, thời gian để Quốc hội và các Uỷ ban thẩm tra, thảo luận ngân sách từ 2 - 3 tháng, có một số nước trên 4 tháng. Thứ hai, sự phối hợp giữa Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách với Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban khác của Quốc hội trong quá trình thẩm tra, giám sát ngân sách, thẩm định chương trình, dự án quan trọng quốc gia còn thiếu hiệu quả. Việc chia sẻ thông tin, phân tích số liệu giữa các cân đối vĩ mô với chỉ tiêu chuyên ngành; sự hợp lý, gắn kết giữa chính sách ngân sách Nhà nước và ngân sách ngành, lĩnh vực cũng chưa được phối hợp đánh giá một cách chặt chẽ, gắn kết giữa các Uỷ ban. Nội dung trình các chương trình, dự án quan trọng quốc gia tại Quốc hội rất phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, nên sự phối hợp giữa các Uỷ ban của Quốc hội để có một báo cáo thẩm tra toàn diện, có chất lượng là rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thảo luận và quyết định của Quốc hội về chương trình, dự án đó tại phiên họp toàn thể của Quốc hội. Thứ ba, chế độ báo cáo, cung cấp thông tin cho cơ quan Quốc hội còn nhiều bất cập, sự phối hợp giữa cơ quan hành pháp và lập pháp về chia sẻ thông tin còn mang tính hình thức, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thảo luận và quyết định ngân sách và những công trình quan trọng quốc gia của Quốc hội. Để cơ quan lập pháp có điều kiện thảo luận và quyết định ngân sách một cách tích cực, có chất lượng thì những thông tin quản lý cần phải được cung cấp một cách kịp thời, chính xác và có hệ thống. Ngoài những thông tin do Chính phủ cung cấp, Quốc hội cũng cần nhận được những thông tin từ Kiểm toán Nhà nước và những ý kiến đóng góp của các tổ chức xã hội. Nguồn thông tin độc lập sẽ tạo ra cách nhìn nhận, đánh giá của đại biểu Quốc hội từ nhiều góc độ, quan điểm khác nhau. Thứ tư, bộ máy của Quốc hội còn nhiều hạn chế về cơ cấu và tổ chức, thiếu công cụ chuyên môn hỗ trợ có hiệu quả cho việc quyết định những vấn đề quan trọng Quốc gia. Một trong những khó khăn khi triển khai hoạt động thẩm tra, đánh giá về những vấn đề quan trọng quốc gia là giới hạn về số lượng các Uỷ ban Quốc hội nên
  13. lĩnh vực hoạt động quá rộng điều đó làm phân tán nguồn nhân lực của Uỷ ban. Hơn nữa, số đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách quá ít, đội ngũ chuyên gia hỗ trợ các Uỷ ban còn thiếu về số lượng và hạn chế về kinh nghiệm, kỹ năng, nhất là trong lĩnh vực kinh tế - ngân sách. Luật kiểm toán Nhà nước có hiệu lực từ 1/1/2006, theo đó Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập theo pháp luật là một bước tiến dài về cải cách thể chế. Để Kiểm toán Nhà nước trở thành một công cụ hữu hiệu giúp Quốc hội thực hiện quyền giám sát của mình, cần phải sớm sắp xếp lại tổ chức và nhân sự của cơ quan này theo quy định của Luật Kiểm toán Nhà nước. ở nhiều quốc gia, bộ máy của Quốc hội được tổ chức thành nhiều Uỷ ban chuyên sâu, các thành viên đều hoạt động chuyên trách với kinh nghiệm hoạt động của Quốc hội được kế thừa, tích luỹ qua nhiều nhiệm kỳ do Quốc hội có tính chuyên nghiệp cao, ở nước họ, làm Nghị sỹ đã trở thành một nghề. Cơ quan kiểm toán quốc gia là cơ quan chuyên môn hỗ trợ Quốc hội rất tích cực thông qua việc cung cấp thông tin và trình Quốc hội báo cáo kiểm toán trước và kiểm toán sau đối với những chương trình, dự án Quốc hội đặc biệt quan tâm. Thứ năm, cơ chế trách nhiệm trong toàn hệ thống không rõ ràng, có sự xung đột về lợi ích khi đại biểu Quốc hội vừa ở vai hành pháp, vừa ở vai lập pháp hoặc đại diện cho đoàn thể, doanh nghiệp, địa phương. Nhìn chung, chưa có động lực thực sự để đại biểu Quốc hội làm tốt chức năng của mình. Sự đan xen, lẫn lộn giữa trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm tập thể trong quy trình ra quyết định hiện nay là rào cản cho quy trình xác định trách nhiệm khi có sai phạm, nhất là những sai phạm lớn thuộc về chủ trương, chính sách. Quy định bỏ phiếu tín nhiệm các thành viên Chính phủ đã được Luật hoá nhưng vẫn còn thiếu những trình tự, thủ tục cụ thể để quy định này có tính khả thi. Những yếu tố đó đều ảnh hưởng đến việc trình, thảo luận và quyết định, triển khai những vấn đề quan trọng của Quốc hội trong toàn hệ thống chính trị. Thứ sáu, chức năng giám sát của Quốc hội đối với cơ quan hành pháp trong việc thực hiện các Quyết định, Nghị quyết của Quốc hội trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong thời gian qua còn chưa tốt nên đã hạn chế tính hiệu quả, hiệu lực chức năng giám sát của Quốc hội.
  14. 2.2. Một số giải pháp kiến nghị Để Quốc hội thực hiện tốt quyền hạn của mình cũng như quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước trong lĩnh vực tài chính - ngân sách,tập thể xin kiến nghị một số giải pháp sau: Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà - nước. Hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định về các vấn đề quan trọng trong lĩnh vực - ngân sách nhà nước thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Kiện toàn tổ chức và nhân sự của Quốc hội, thể hiện: Về cơ cấu, thành phần, chất lượng đại biểu Quốc hội; Tổ chức và hoạt động của các cơ quan của Quốc hội; Đoàn ĐBQH, bộ máy tham mưu, giúp việc. Đổi mới cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Quốc hội để đảm bảo - Quốc hội vừa thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, đồng thời cũng phát huy tính dân chủ, quyền chủ động trong hoạt động của Quốc hội nhằm tạo điều kiện để Quốc hội thực hiện có hiệu quả những chức năng được Hiến pháp và Luật quy định, đặc biệt là quyền quyết định của Quốc hội đối với những vấn đề quan trọng của Quốc gia. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cách thức tổ chức và quy trình, thủ tục tại các kỳ - họp Quốc hội quyết định các chính sách tài chính của Quốc gia. Đề cao trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trình Quốc hội hội - xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan thực hiện các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp trong lĩnh vực ngân sách nhà nước. Thời gian dành cho hoạt động thẩm tra, thảo luận ngân sách, và quyết định - chương trình, dự án trọng điểm quốc gia về tài chính còn bị hạn chế. Chính vì vậy, việc lên lịch trình, sắp xếp thời gian cho hoạt động dự toán ngân sách nhà nước cần được chú trọng hơn. Cần triển khai lịch trình ngay từ khâu báo cáo đến khâu thẩm tra, thẩm định và cuối cùng là lập một bản dự thảo hoàn chỉnh. Siết chặt sự phối hợp giữa Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách với Hội đồng dân tộc và - các Uỷ ban khác của Quốc hội trong quá trình thẩm tra, giám sát ngân sách, thẩm định chương trình, dự án quan trọng quốc gia. Nhằm tăng cương hiệu quả quản lý tài chính. Phát triển đồng bộ, quy định chặt chẽ nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan liên quan nhằm thúc đẩy sự hợp tác.
  15. Để cơ quan lập pháp có điều kiện thảo luận và quyết định ngân sách một cách - tích cực, có chất lượng thì những thông tin quản lý cần phải được cung cấp một cách kịp thời, chính xác và có hệ thống. Ngoài những thông tin do Chính phủ cung cấp, Quốc hội cũng cần nhận được những thông tin từ Kiểm toán Nhà nước và những ý kiến đóng góp của các tổ chức xã hội. Nguồn thông tin độc lập sẽ tạo ra cách nhìn nhận, đánh giá của đại biểu Quốc hội từ nhiều góc độ, quan điểm khác nhau. Cần đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giám sát của Quốc hội thông qua - lựa chọn nội dung và hình thức giám sát thích hợp, kết hợp chặt chẽ giữa giám sát của các Uỷ ban của Quốc hội với các Đoàn đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp; sử dụng có hiệu quả các công cụ phục vụ công tác giám sát của Quốc hội như Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tài chính, Thanh tra chuyên ngành. Cần nâng cao chất lượng báo cáo thẩm tra các dự án về kinh tế - ngân sách, các - báo cáo thẩm tra các dự án công trình quan trọng quốc gia kết hợp với cung cấp cho Đại biểu Quốc hội đầy đủ các thông tin liên quan cần thiết để giúp Quốc hội có thể thảo luận, đưa ra những quyết sách đúng đắn, có hiệu quả cao. Tăng cường đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức để hình thành - một đội ngũ chuyên nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý nhân sách chủa nhà nước. III. KẾT LUẬN Ngày mùng 6/1/1945 nhân dân cả nước đã tiến hành thành công cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội Việt Nam khóa đầu tiên. Từ đó cho tới nay, trải qua hơn 65 năm, Quốc hội Việt Nam luôn giữ vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị - là cơ quan quyền lực cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân ở nước ta, đã có nhiều đóng góp trong công cuộc dựng nước và giữ nước, có vai trò quyết định nhiều vấn đề quan trọng của đất nước. Trong lĩnh vực tài chính ngân sách, với vai trò là cơ quan quyết định cao nhất đối với việc thu, chi ngân sách Quốc hội thực đã thực hiện đầy đủ quyền hạn của mình, đóng góp to lớn trong công cuộc phát triển kinh tế, bảo vệ giữ gìn an ninh quốc gia…, Tuy nhiên xét ở nhiều khía cạnh khác thì hoạt động của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước vẫn chưa thực sự hiểu quả, cần thực hiện các biện pháp hữu ích để nâng cao hơn, phát huy đúng vai trò của mình, hoàn thành sứ mệnh mà nhân dân trao cho.
nguon tai.lieu . vn