Xem mẫu
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. Bộ luật tố tụng dân sự
2. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3. Dân sự 4. Pháp luật
BLTTDS CHXHCNVN
DS PL
1
PHẦN MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của xã hội và xu hướng hội nhập, toàn cầu hoá ngày
một lớn mạnh giữa các quốc gia, đòi hỏi sự phát triển quan hệ hợp tác giữa các
quốc gia trên mọi lĩnh vực và ở các cấp độ khác nhau. Sự hợp tác này làm phát
sinh ngày một nhiều các vấn đề DS, hình sự, hành chính, thương mại, lao động,
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Sự hợp tác giữa các quốc gia trên
thực tế có thể tiến hành theo nguyên tắc có đi có lại hoặc trên cơ sở điều ước
quốc tế với mục đích chính là đảm bảo sự thừa nhận về quyền nhân thân và
quyền tài sản của cá nhân và pháp nhân của quốc gia này trên phạm vi lãnh thổ
của một quốc gia khác.
Để tiến hành hoạt động này, các quốc gia thực hiện việc ký kết các điều
ước quốc tế trong đó thừa nhận và điều chỉnh sự hợp tác giữa các cơ quan tư
pháp của hai bên về các vấn đề: xác định thẩm quyền của các Toà án, áp dụng
PL, đảm bảo các quyền tố tụng của cá nhân và pháp nhân nước ngoài, thực hiện
các uỷ thác tư pháp, công nhận và thi hành các quyết định của Toà án hoặc
Trọng tài nước ngoài về các vấn đề DS, chuyển giao tài liệu, dẫn độ tội phạm
và các vấn đề khác thuộc lĩnh vực hình sự.
Trong tất cả các vấn đề được nêu ở trên, hoạt động tương trợ tư pháp có vị
trí vô cùng quan trọng trong việc thực hiện công nhận và thi hành các quyết định
của Toà án hoặc Trọng tài nước ngoài về các vấn đề dân sự, chuyển giao tài
liệu, dẫn độ tội phạm và các vấn đề khác thuộc lĩnh vực hình sự. Để các hoạt
động tương trợ tư pháp đạt hiệu quả và giữ vững chủ quyền, an ninh quốc gia,
hoạt động tương trợ tư pháp phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Hoạt
2
động này có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý giữa các quốc gia, vì nếu không
có sự trợ giúp này các cơ quan tư pháp của các quốc gia rất khó có thể thực hiện
việc điều chỉnh cũng như thi hành PL đối với cá nhân và pháp nhân của quốc gia
mình.
Bảng: Thống kê của Bộ tư pháp trang thông tin tương trợ tư pháp về “Giới
thiệu sơ lược kết quả tổng kết 6 năm thi hành luật Tương trợ tư pháp” ngày 31
32016 .
Trích yếu
Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực DS giữa CHXHCHVN với Cộng hòa Cadắcxtan
Ngày Kí: 31102011
Hiệu lực: 2862015
Hiệp định tương trợ tư pháp trong Kí: 21012013
lĩnh vực DS giữa CHXHCHVN với Hiệu lực: 9102014 Vương quốc Campuchia
Hiệp định tương trợ tư pháp trong Kí: 14042012
lĩnh vực DS và thương mại giữa Hiệu lực: 14042012 CHXHCHVN với Cộng hòa Angieri
dân chủ nhân dân
Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp Kí: 25081998
lí về các vấn đề DS và hình sự giữa Hiệu lực: 27082012 CHXHCNVN với Liên bang Nga
Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp Kí: 452002
lí về các vấn đề DS giữa Việt Nam Hiệu lực:2422004 với Triều Tiên
Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp Kí: 642000
lí về các vấn đề DS giữa Việt Nam Hiệu lực: 1982002 với Ucraina
Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lí Kí: 17042000
về các vấn đề DS giữa Việt Nam với Hiệu lực:13062002 Mông Cổ
Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp Kí :24021999
lí về các vấn đề DS giữa Việt Nam Hiệu lực: 512001 với Pháp
3
Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp Kí: 671998
lí về các vấn đề DS giữa Việt Nam Hiệu lực: 19022000 với Lào
Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp Kí: 19101998
lí về các vấn đề DS giữa Việt Nam Hiệu lực:25121999 với Trung Quốc
Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lí Kí: 12101982
về các vấn đề DS giữa Việt Nam với Hiệu lực:16041994
CHXHCN Tiệp Khắc
Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lí về các vấn đề DS, gia đình, lao động, hình sự giữa Việt Nam với Cộng hòa Cuba
Kí: 30111984
Hiệu lực: 19091987
Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp Kí: 3101986
lí về các vấn đề DS , hình sự giữa Hiệu lực: 571987 CHXHCNVN với CHND Bungari
Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp Kí: 811985
lí về các vấn đề DS giữa Việt Nam Hiệu lực: 571987 với Hungari
Theo thống kê trên của bộ tư pháp, có tới 15 hiệp định tương trợ tư pháp
Việt Nam kí kết với các quốc gia khác nhau trên thế giới đang có hiệu lực.
Trong đó gần nhất là kí với Cộng hòa Cadắcxtan, Campuchia, Cộng hòa Angieri
dân chủ nhân dân. Sở dĩ số lượng các hiệp định tương trợ tư pháp tăng đáng kể
trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay là bởi vì những năm gần đây Việt Nam đã
có những chính sách thông thoáng về xuất, nhập khẩu và công tác quản lí người
ngoại quốc. Điều này đã thu hút rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam. Đây là một tin đáng mừng cho nước ta. Tuy nhiên từ đây hệ thống tư
pháp của nhà nước ta cũng thêm gánh nặng khi vừa phải đáp ứng các yêu cầu về
công nhận, thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam vừa
phải có giải pháp hoàn thiện qui định PL trong nước cho phù hợp với xu hướng
hội nhập quốc tế.
4
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1.
Những vấn đề lý luận chung về các quy định của pháp luật Việt Nam
về vấn đề công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước
ngoài
5
...
- tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn