Xem mẫu

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC ..... KHOA .... Đề tài: "Một số giải pháp nhằm tiếp tục khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước"
  2. LuËn v¨n tèt nghiÖp BẢNG KÊ CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. KKĐTTN = K huyến khích đầu tư trong nước 2. TSCĐ = Tài sản cố định . 3. D A' = D ự án . 4. KCX = Khu chế xuất . 5. KCN = Khu công nghiệp . 6 . TƯ = Trung ương . 7. XHCN = X ã hội chủ nghĩa . 8. N Đ = Nghị định . 1
  3. LuËn v¨n tèt nghiÖp LỜI NÓI ĐẦU Đổi mới cơ chế và nâng cao hiệu quả đầu tư nói chung, đầu tư trong nước nói riêng, là một nội dung quan trọng của quá trình đổi mới kinh tế theo hướng kinh tế thị trường ở nước ta. Ngay sau khi kết thúc các cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam, năm 1979, với Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (Khoá IV), Đảng ta đã khởi x ướng những quan điểm đầu tiên về giải phóng tiềm năng trong nước, bước đầu gỡ bỏ những trì hãm của cơ chế cũ, tạo tiền đề cho nhân tố mới và cơ chế mới ra đời và phát triển. Tư tưởng chỉ đạo của các chính sách của Đảng và nhà nước ta từ đó đến nay, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá VIII), đề cao việc khai thác và phát huy tốt những tiềm năng nội lực, coi đó như là một yếu tố cốt lõi bảo đảm cho sự phát triển đất nước diễn ra một cách bền vững lâu dài và đúng hướng. Để thực hiện tư tưởng chính sách đó, chúng ta đ ã thực thi nhiều biện pháp, một mặt nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài; mặt khác khơi dậy các nguồn vốn, các nguồn nhân tài, vật lực trong nước, thu hút chúng vào các dòng đ ầu tư thông qua nhiều con đ ường, nhiều cách thức khác nhau. Trong khuôn khổ một luận văn tốt nghiệp, đề tài: "Một số giải pháp nhằm tiếp tục khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước", hướng trọng tâm vào các nội dung sau: Một; đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư trong nước trong thời gian qua, nhất là từ khi Quốc hội ban hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (có hiệu lực pháp lý từ 22 tháng 6 năm 1994). Hai, chỉ rõ những kết quả bước đầu cũng như các vướng mắc cần tháo gỡ trong việc thi hành chính sách khuyến khích đầu tư trong nước. Ba, kiến nghị các giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn, 2
  4. LuËn v¨n tèt nghiÖp tài nguyên, lao động và các tiềm năng khác của đất nước góp phần phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Luận văn tốt nghiệp này sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tư duy logic, thống kê, phân tích hoạt động kinh tế. Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu gồm ba phần: Phần I: Một số vấn đề chung về đầu tư và khuyến khích đầu tư trong nước. Phần II: Thực trạng hoạt động khuyến khích đầu tư trong nước những năm qua. Phần III: Những giải pháp chủ yếu tiếp tục khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước. Qua đây em xin gửi lời cảm ơn đến GS. TS .Đỗ Hoàng Toàn, TS. Nguyễn Lê Trung , các thầy cô giáo trong Khoa và các cô chú trong Vụ doanh nghiệp - Bộ kế hoạch Đầu tư đã giúp em hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình. Vì thời gian có hạn và sự hiểu biết còn hạn chế nên luận văn tốt nghiệp của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo trong khoa Khoa học quản lý và các cô chú công tác ở Vụ doanh nghiệp để luận văn của em được hoàn thiện hơn. Em xin cam đoan nội dung báo cáo đ ã viết là do bản thân thực hiện, không sao chép, cắt ghép các báo cáo ho ặc luận văn của người khác. Nếu sai phạm em xin chịu kỷ luật với nhà trường. Hà Nội 01/06/2001 Sinh viên: Trần Công Khanh 3
  5. LuËn v¨n tèt nghiÖp PHẦN I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC 1. Đ ầu tư và các hình thức đầu tư Trong nền kinh tế thị trường, để tiến hành hoạt động kinh doanh thì điều kiện không thể thiếu là phải có tiền. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh , dịch vụ mới hình thành, tiền được dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị... nhằm tạo ra các cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu, mua sắm nguyên vật liệu, trả lương cho người lao động, tiền được dùng để mua sắm thêm các máy móc thiết bị, xây dựng thêm nhà xưởng, tăng thêm vốn lưu động nhằm mở rộng quy mô hoạt động hiện có, sửa chữa hoặc mua sắm các tài sản cố định (TSCĐ) mới thay thế các TSCĐ đã b ị hư hỏng, bị hao mòn hữu hình (do quá trình sử dụng và do các tác động của khí hậu, thời tiết) v à hao mòn vô hình (do tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm cho nhiều TSCĐ nhanh chóng trở nên lạc hậu, không còn thích hợp với điều kiện mới, tiếp tục sử dụng sẽ không có hiệu quả). Số tiền cần thiết để tiến hành các hoạt động như trên gọi là tiền đầu tư. Và hành vi của các chủ thể trong việc bỏ tiền ra, tổ chức sử dụng chúng theo những chuẩn mực nhất định nhằm mưu cầu những lợi ích cụ thể được gọi là hoạt động đầu tư. Cũng có thể nói, hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực nhằm duy trì tiềm lực sẵn có hoặc tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và sinh hoạt đời sống , các nguồn lực phục vụ cho hoạt động đầu tư đối với các trường hợp cá biệt có thể nhiều ít khác nhau, nhưng nhìn tổng thể, quy mô của các nguồn lực, trong đó có nguồn lực bằng 4
  6. LuËn v¨n tèt nghiÖp tiền, là rất lớn. Do đó để đảm bảo cho các hoạt động đầu tư diễn ra bình thường thì không thể dùng nguồn tiền trích ra cùng một lúc từ các khoản chi tiêu thường xuyên của các chủ thể kinh doanh của xã hội, của Chính phủ vì điều này sẽ làm xáo động các hoạt động kinh tế bình thường và sinh hoạt xã hội. Nguồn tiền sử dụng cho các hoạt động đầu tư đòi hỏi phải được tích luỹ từ nhiều nguồn khác nhau và chỉ có thể là tiền tích luỹ của xã hội, của các chủ thể kinh doanh, của phần chi cho đầu tư phát triển thuộc ngân sách Chính phủ, là tiền tiết kiệm của dân và tiền huy động từ nước ngoài. Quá trình sử dụng tiền đầu tư, x ét về mặt bản chất, là quá trình thực hiện sự chuyển hoá vốn bằng tiền (vốn đầu tư) thành vốn hiện vật để tạo nên những yếu tố cơ bản của quá trình tái sản xuất. Đó cũng chính là quá trình hoạt động đầu tư hay quá trình đầu tư vốn. Đầu tư trong nước, theo cách diễn đạt của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 là việc bỏ vốn vào sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam của các tổ chức, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu dài ở V iệt Nam (Điều 2 - Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994). Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) số 03/1998/QH10 cũng có quan niệm về đầu tư trong nước tương tự. Đầu tư trực tiếp nước ngoài, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, diễn đạt như sau: "là việc nhà đ ầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bằng bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy đ ịnh của luật này". Đối tượng của luật đầu tư nước ngo ài là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngo ài đầu tư vào Việt Nam. Đối tượng của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước gồm: tổ chức, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu dài (hay còn gọi là thường trú) tại Việt Nam. Các đối tượng tham gia hoạt động đầu tư có yếu tố nước ngoài thì có thể lựa chọn một trong hai Luật. 5
  7. LuËn v¨n tèt nghiÖp Tuỳ theo góc độ đề cập, hoạt động đầu tư trong nước có thể được phân theo các tiêu thức sau: - Theo tính chất của các đối tượng đầu tư, hoạt động đầu tư gồm: + Đ ầu tư cho đối tượng vật chất: nhà xưởng, máy móc thiết bị, công trình hạ tầng... là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế. + Đầu tư cho đối tượng tài chính: mua cổ phần, cổ phiếu... là điều kiện quan trọng để thu hút mọi nguồn vốn từ mọi tầng lớp dân cư cho đầu tư vào các đối tượng vật chất. + Đầu tư cho đối tượng phi vật chất: tài sản trí tuệ, nguồn nhân lực,. .. là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao. - Theo cơ cấu tái sản xuất: hoạt động đầu tư gồm: + Đầu tư theo chiều rộng: là quá trình tăng quy mô đầu tư của các chủ thể kinh doanh. Quá trình được xem xét ở hai góc độ: trên phạm vi nền kinh tế, đó là việc thành lập doanh nghiệp mới; ở góc độ doanh nghiệp, đó là việc triển khai dự án đầu tư m ới hoặc mở rộng quy mô của các dự án hiện có. Xét trên tổng thể, cách thứ nhất đòi hỏi vốn lớn, thời gian thực hiện đầu tư dài, vốn khê đọng lâu, thời gian cần hoạt động để thu hồi đủ vốn phải lớn, tính chất kỹ thuật phức tạp và độ thoả hiệp cao. + Đầu tư theo chiều sâu: là hoạt động làm tăng nguồn lực đầu tư gắn với việc làm tăng khả năng sinh lợi của các dự án đầu tư, của các doanh nghiệp. So với cách thứ nhất, cách thức này thường thu hút khối lượng vốn đầu tư ít hơn, thời gian thực hiện đầu tư nhanh hơn, độ mạo hiểm thấp và khả năng thu hồi vốn nhanh chóng. - Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư: hoạt động đầu tư có thể phân thành: 6
  8. LuËn v¨n tèt nghiÖp + Đầu tư gián tiếp: trong đó người bỏ vốn không nhất thiết tham gia trực tiếp điều hành, quản lý quá trình thực hiện và vận hành các yếu tố đầu tư. Một loại chủ thể thực hiện hình thức này có thể là các Chính phủ, thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp của mình, cung ứng tiền hoặc nguồn lực khác cho Chính phủ của các nước khác để các nước đó phát triển kinh tế xã hội, điều chỉnh cơ cấu. Một loại chủ thể khác, giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có khi là then chốt, là các cá nhân, tổ chức mua các loại chứng chỉ có giá trị như cổ phiếu, trái phiếu để hưởng lợi tức (còn gọi là đầu tư tài chính). + Đầu tư trực tiếp: ở đây người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý hoặc điều hành quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Đ ầu tư trực tiếp lại đ ược phân thành: đầu tư chuyển dịch và đ ầu tư phát triển. ++ Đầu tư chuyển dịch là loại đầu tư trong đó, người có tiền mua lại một số cổ phiếu đủ lớn để nắm quyền chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, việc đầu tư không làm gia tăng tài sản của doanh nghiệp, mà chỉ làm thay đổi quyền sở hữu các cổ phần của doanh nghiệp. ++ Đầu tư phát triển là loại bỏ vốn đầu tư để tạo nên những năng lực sản xuất phục vụ mới (cả về chất và lượng). Đây là loại đầu tư để tái sản xuất mở rộng, là biện pháp chủ yếu để tạo việc làm cho người lao động, là tiền đề để thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch. - Căn cứ vào thời gian thực hiện và thời gian phát huy tác dụng, hoạt động đầu tư có thể phân chia thành: + Đầu tư thương mại: là ho ạt động đầu tư là thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi đủ vốn đầu tư ngắn hạn, vốn vận động nhanh, mức độ mạo hiểm thấp do trong một thời gian ngắn, tính bất động không cao, lại dễ dự đoán và độ chính xác của dự đoán khá cao. 7
  9. LuËn v¨n tèt nghiÖp + Đầu tư sản xuất: Là loại đầu tư dài hạn, vốn đầu tư lớn, thu hồi chậm, thời gian thực hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao, vì tính chất kỹ thuật của hoạt động đầu tư phức tạp, phải chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tương lai không dự đoán trước được hoặc chất lượng dự đoán khó chính xác (về nhu cầu, giá cả đầu vào, cơ chế, chính sách, tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật, thiên tai, sự ổn định về chính trị...). Loại đầu tư này phải được chuẩn bị kỹ, phải cố gắng dự đoán những gì có liên quan đến kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư trong tương lai xa, xem xét các biện pháp xử lý khi các yếu tố bất định xảy ra để đảm bảo thu hồi đủ vốn và có lãi suất khi hoạt động đầu tư kết thúc, khi các kết quả đầu tư đã hoạt động đến hết vòng đời của m ình. - Theo đ ặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư: các hoạt động đầu tư được phân thành: + Đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định + Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu động cho các cơ sở hiện có, duy trì ho ạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật không thuộc các doanh nghiệp. Trong hai loại đầu tư đó thì đ ầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành. Đầu tư vận hành tạo điều kiện cho các kết quả của đầu tư cơ bản phát huy tác dụng. Không có đầu tư vận hành thì các kết quả của đầu tư cơ bản không hoạt động được, ngược lại, không có đầu tư cơ bản thì đầu tư vận hành chẳng để làm gì. Đ ầu tư cơ b ản có đặc điểm kỹ thuật phức tạp, đòi hỏi vốn lớn, thời hạn thu hồi dài. Còn đ ầu tư vận hành chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư, đặc điểm kỹ thuật của quá trình thực hiện đầu tư không đến nỗi phức tạp so với đầu tư cơ b ản và thời gian thu hồi vốn tương đối nhanh. Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế ở mức cần thiết, Việt Nam cần một lượng vốn đầu tư khá lớn (thời kỳ kế hoạch 5 năm 1996-2000 vào khoảng từ 40-42 tỷ USD), trong đó hơn một nửa là đầu tư trong nước. 8
  10. LuËn v¨n tèt nghiÖp Nguồn vốn bên ngoài là không thể thiếu và có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là trong thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, khi nhu cầu đầu tư rất lớn mà nguồn tích luỹ nội địa chưa đủ đáp ứng. Trước năm 1987, trong tổng vốn huy động cho đầu tư, nguồn vốn huy động từ ngân sách Nhà nước chiếm vị trí chủ yếu. Từ 1988 đến nay, với chính sách mở cửa, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nền kinh tế nước ta đang từng bước hoà nhập với khu vực và trên thế giới đ ã tạo điều kiện thuận lợi để chúng ta mở rộng dần diện huy động vốn trong nước, đồng thời thu hút thêm các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Cho đến nay, nguồn vốn cho đầu tư ở nước ta khá phong phú hơn trước và chủ yếu được huy động từ các nguồn chính: * Vốn huy động trong nước: - Vốn ngân sách tập trung: đây là nguồn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các hoạt động đầu tư trong nước. Nguồn này hiện nay chủ yếu được tập trung cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, đầu tư phát triển một số công trình công nghiệp then chốt, bảo đảm giữ các cao điểm trong nền kinh tế quốc dân, các công trình liên quan đến An ninh - Quốc phòng. - Vốn của các doanh nghiệp Nhà nước: nguồn vốn này luôn có vai trò quan trọng rất lớn và có tác dụng trực tiếp nhất đối với tốc độ tăng trưởng hàng năm tổng sản phẩm trong nước. Đây chính là nguồn vốn mà các chính sách kinh tế vĩ mô xem là một đối tượng hàng đầu tác động vào nền kinh tế, có vai trò rất lớn trực tiếp tác động tới tốc độ tăng trưởng bình quân trong các năm sắp tới. - Vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: nguồn này chủ yếu dùng vào các định hướng đầu tư phát triển chiều sâu, đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm và mở rộng quy mô doanh nghiệp hiện đang hoạt động cũng như mở rộng thêm doanh nghiệp mới do thị trường trong và ngoài nước mở 9
  11. LuËn v¨n tèt nghiÖp rộng thêm và do xuất hiện nhu cầu mới hoặc do yêu cầu phân tán rủi ro, tăng thêm khả năng cạnh tranh. - Vốn tiết kiệm trong dân cư: có thể nói đây là nguồn vốn khá lớn, có khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động đầu tư trong tương lai nhưng chưa được tổ chức khai thác huy động tốt. Nhiều kết quả tính toán cho thấy, nếu khoảng 40-45% số vốn trong dân cư đầu tư vào sản xuất và dịch vụ thì cũng là một yếu tố đáng kể làm lên tốc độ phát triển GDP hàng năm đáng kể của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và d ịch vu. Nếu chúng ta có chính sách huy động thoả đáng số vốn tiết kiệm trong dân thì sẽ có khả năng tăng nhanh cả về số tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng số các nguồn đầu tư trong nước. Nguồn vốn tiết kiệm trong dân cư có thể coi là nền tảng của các hoạt động đầu tư xét về lâu d ài, là cơ sở của việc hình thành ba tầng hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế nước ta: tầng hoạt động kinh doanh không phải đăng ký kinh doanh; tầng hộ kinh doanh cá thể; tầng kinh doanh của các doanh nghiệp. * Vốn huy động từ nước ngoài: - V ốn viện trợ phát triển chính thức (ODA): đây là nguồn vốn do các nước và các tổ chức quốc tế viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay ưu đãi (lãi suất, thời hạn vay...). Nguồn vốn này được tập trung vào ngân sách và có thể sử dụng trực tiếp để Nhà nước đầu tư hoặc cho vay lại (nhưng phải bảo đảm nguyên tắc hoàn trả). - V ốn của các tổ chức phi chính phủ (NGO). Nguồn vốn này chủ yếu dùng vào mục đích nhân đạo, nhưng cần có cơ chế thu hút thích hợp và sử dụng, có hiệu quả hơn, đặc biệt trong việc cải thiện và phát triển các vấn đề xã hội. - V ốn đầu tư trực tiếp (FDI) của tư nhân nước ngoài: đây là nguồn vốn khá lớn và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Một mặt, nó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển giao công nghệ, đào tạo kỹ thuật nghiệp vụ và tìm thị 10
  12. LuËn v¨n tèt nghiÖp trường tiêu thụ hàng hoá ổn định trong điều kiện Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm kinh doanh trên trường quốc tế. Mặt khác vốn FDI gắn với trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn của b ên nước ngoài đỡ được gánh nặng nợ nần của Chính phủ. - V ốn của Kiều dân Việt Nam làm ăn, sinh sống ở nước ngo ài: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài nói chung không có nhiều vốn như Kiều dân của một số nước khác như Trung Quốc, ... nhưng không phải là không có. Do đó một mặt phải xây dựng được chính sách thích hợp để thu hút đầu tư của họ; mặt khác cần phát huy tiềm năng của Việt kiều làm cầu nối để thu hút vốn của các quốc gia nơi họ sinh sống đầu tư vào Việt Nam. Thực tế ngày càng chứng tỏ rằng, nếu không huy động tốt và đủ các nguồn vốn đầu tư trong nước thì rất khó có thể khai thác và sử dụng có hiệu quả những nguồn đầu tư lớn từ bên ngoài nhằm phục vụ định hướng phát triển đất nước. Chính vì vậy trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, chiến lược lâu dài của nước ta là tăng nhanh tiết kiệm nội địa, huy động tối đa nguồn vốn trong nước, nâng dần tỷ trọng vốn trong nước trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. 2 - Khuyến khích đầu tư trong nước 2.1. Nhận thức Khuyến khích đầu tư trong nước là việc sử dụng các cơ chế, chính sách, biện pháp, nhằm kích thích quá trình đ ầu tư các nguồn lực vào các ngành, lĩnh vực, địa bàn trên cơ sở chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ của đất nước. Để khuyến khích các ho ạt động đầu tư trong nước, Nhà nước phải xây dựng, hoàn thiện một hệ thống các công cụ pháp lý và các biện pháp kinh tế, xã hội nhằm bảo hộ, bảo đảm đối xử bình đẳng với tất cả các chủ thể tham gia 11
  13. LuËn v¨n tèt nghiÖp hoạt động đầu tư, khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư, quy định thủ tục hành chính, đơn giản tiện lợi cho các tổ chức, cá nhân đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, x ã hội trên lãnh thổ theo những khung pháp lý cụ thể và theo các lĩnh vực, kế hoạch xác định cụ thể. Mục đích sự khuyến khích của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư là tạo cơ hội cho các chủ thể tham gia đầu tư có thể huy động và sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn vốn, tài nguyên, lao đ ộng... tạo thêm việc làm cho xã hội, nhằm thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đồng thời bảo hộ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, của người góp vốn đầu tư, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối với các hoạt động đầu tư, cải thiện ngày một tốt hơn môi trường kinh doanh, định hướng và tụ hội các ý đồ đầu tư của các chủ thể tập trung vào các ngành, vùng, lĩnh vực cần khuyến khích phát triển, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng theo hướng tiến bộ. Tuy các ý đồ cụ thể có khác nhau, song trên bình diện chung hầu hết các quốc gia đều hướng tới các m ục đích đó. Để tạo khung pháp lý khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước trong điều kiện thực thi nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý và định hướng của Nhà nước, ngày 22/6/19 94 Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật khuyến khích đầu tư trong nước (KKĐTTN). Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1995. Để hướng dẫn thực hiện Luật này, ngày 12 tháng 5 năm 1995, Chính phủ đ ã ban hành Nghị định số 29/CP quy định chi tiết thi hành Luật KKĐTTN. Đây là những văn bản pháp luật đầu tiên ở cấp Luật và cấp Nghị định nhằm điều chỉnh các quan hệ chủ yếu về KKĐTTN ở nước ta. Tuy mới được triển khai thực hiện từ 1/1/1995, Luật KKĐTTN đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế đất nước đem lại những luận điểm, kết quả đáng mừng, góp phần thúc đẩy đáng kể hoạt động đầu tư trong nước. 12
  14. LuËn v¨n tèt nghiÖp Muốn khuyến khích một hoạt động nào đó, trước hết phải hình thành được ý tưởng khuyến khích. Khâu tiếp theo là phải thiết kế được cơ chế vận hành cụ thể rồi tiến hành pháp lý hoá chung. Nói đến chính sách khuyến khích là nói trên tổng thể, trên những nét khái quát nhất thuộc lĩnh vực ý tưởng khuyến khích. ý tưởng đó có vào được cuộc sống hay không và mức độ chấp nhận, thái độ của đông đảo quần chúng trong việc đón nhận ý tưởng đó như thế nào phần nhiều phụ thuộc vào khâu thiết kế cơ chế vận hành và tính chính xác, tính khách quan của khâu pháp lý hoá. Trong việc khuyến khích đầu tư trong nước cũng vậy, muốn đạt được mục tiêu phát triển nào đó, trong những điều kiện lịch sử cụ thể thái độ khuyến khích cần được xác định rõ ràng. Đây cũng là điều kiện đầu tiên để đảm bảo yêu cầu về tính nhất quán của chính sách. Khâu tiếp đến hết sức cơ b ản là việc thiết kế cơ chế vận hành của chính sách. Công việc này thường do các nhà chuyên môn kịp ra chính sách thực hiện dưới sự chỉ đạo của các nhà chính trị. Khâu này phải bảo đảm thoả mãn 3 yêu cầu cùng một lúc: thể hiện đ ược thái độ chính trị của nhà nước trong việc khuyến khích, quy phạm hoá các quan hệ khuyến khích cần điều chỉnh bằng luật pháp và cuối cùng là bảo đảm khả năng chấp nhận của quần chúng số đông (khía cạnh tâm lý xã hội). Thông thường khi ý tưởng chính sách khuyến khích phù hợp với lợi ích của đại đa số quần chúng nhân dân thì có thể khâu thể chế hoá chưa thực sự tốt thì khả năng đi vào cuộc sống của chính sách vẫn có thể bảo đảm. Đó là trường hợp đã từng diễn ra trong đổi mới nông nghiệp Việt Nam thời kỳ "Khoán 100", và "Khoán 10", chỉ cần Đảng có chỉ thị cho phép, chưa đợi đến sự pháp lý hoá đầy đủ của nhà nước thì khoán nông nghiệp đã diễn ra trên diện rộng, như một trào lưu xã hội - kinh tế không thể đảo ngược. Tất nhiên, khi các quan hệ lợi ích ngày càng phức tạp thêm, đa dạng hơn, muốn tư tưởng khuyến khích ngày càng tiếp tục đi vào cuộc sống mà không bị khúc xạ, thì tất yếu phải làm tốt khâu thể chế hoá. V à nói chung trong xã hội công nhân, Nhà nước pháp quyền và kinh tế thị trường thì không thể làm thiếu, làm yếu 13
  15. LuËn v¨n tèt nghiÖp khâu thể chế hoá. Sự thiếu nhạy cảm với những vấn đề có tính nguyên tắc như vậy trong quy trình quản lý nói chung, quản lý bằng pháp luật nói riêng đều làm hạn chế tác dụng tích cực của chính sách khuyến khích. Hơn nữa trong trường hợp do chỗ những đối tượng m à Nhà nước cần khuyến khích trong từng thời kỳ không phải bao giờ cũng trùng hợp với nguyện vọng của mọi người dân (sự lệch pha nhất định giữa lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội và lợi ích của cá nhân công dân) nên nếu không có sự thể chế tốt, sát hợp thì khó có thể sử lý hài hoà các xung đột về lợi ích có thể có khi thực hiện chính sách khuyến khích, chính sách ưu đãi của Nhà nước. 2.2. Một số nội dung hỗ trợ và ưu đãi chủ yếu của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 Xét về mặt thời hiệu pháp lý, quá trình thực hiện các quy định pháp lý về khuyến khích đầu tư trong nước ở Việt Nam bao gồm hai giai đoạn chủ yếu: Một là từ 22/6/1994, ngày Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 5 thông qua Luật KKĐTTN cho đ ến ngày 01/01/1999 ngày có hiệu lực của Luật KKĐTTN (sửa đổi) số 03/QH10; Hai là từ ngày 01/01/1999 đ ến nay. Trong thời kỳ thứ nhất cũng có thể chia thành hai giai đoạn nhỏ: giai đoạn thực hiện Nghị định số 29/CP ngày 12/5/1995 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật KKĐTTN cho đến ngày 30/01/1998 ngày mà Nghị định số 07/1998/NĐ-CP thay thế Nghị định số 29/CP chính phủ; giai đoạn từ Nghị định 07 có hiệu lực đến ngày 01/01/1999 tức là ngày Luật KKĐTTN (sửa đổi) số 03/QH10 có hiệu lực - thực hiện Nghị định số 51/1999/NĐ-CP- cho đến nay. Xét về mặt kỹ thuật của vấn đề pháp lý có thể có một số điểm không giống nhau quy định tại các văn bản quy phạm, song xét về tư tưởng chính sách thì những nội dung về khuyến khích, hỗ trợ, ưu đãi không cách nhau quá xa. Nhiều nội dung quy định tại Luật KKĐTTN năm 1994 đ ã được các văn bản quy phạm pháp luật sau đó hoàn thiện và bổ sung dần. Dưới đây là một số nội dung về hỗ trợ và ưu đãi mà Luật KKĐTTN đề cập. 14
  16. LuËn v¨n tèt nghiÖp Mục đích của Luật KKĐTTN được xác định rõ ràng ở căn cứ ban hành Luật. Đó là, để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn, tài nguyên lao động và các tiềm năng khác của đất nước nhằm góp phần phát triển kinh tế xã hội, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, x ã hội công bằng, văn minh. Cả Luật 1994 và Luật 1998 đều quy định như vậy. Đồng thời cả hai Luật đều khẳng định sự bảo hộ, sự khuyến khích của Nhà nước đối với mọi tổ chức, công dân đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên Luật 1998 còn nói rõ và khẳng định một sự "đối xử bình đẳng", "sự tạo điều kiện thuận lợi" của Nhà nước đối với các chủ thể tham gia đầu tư. 2.2.1. Luật quy định ba loại hình đầu tư được áp dụng theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước bao gồm: a - Dự án đầu tư thành lập và phát triển cơ sở sản xuất kinh doanh mới thuộc mọi thành phần kinh tế. b - Đ ầu tư m ở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh , nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ của các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có. c - Mua cổ phần của các doanh nghiệp, góp phần vốn vào các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp Nhà nước được phép đa dạng hoá hình thức sở hữu. 2.2.2.Đối tượng khuyến khích đầu tư trong nước Trên cơ sở đó, Nghị định 29/3 CP, Nghị định số 07/1998/NĐ-CP cụ thể hoá các đối tượng khuyến khích đầu tư của Luật KKĐTTN gồm: a - Các doanh nghiệp được thành lập theo Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị - xã hội, hội nghề nghiệp và cá nhân, nhóm kinh doanh ho ạt động theo Nghị định số 66/HĐBT ngày 2 tháng 3 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). 15
  17. LuËn v¨n tèt nghiÖp b - Tổ chức, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu dài ở V iệt Nam mua cổ phần hoặc góp vốn vào các doanh nghiệp trong nước kể cả các doanh nghiệp Nhà nước được đa dạng hoá sở hữu hoặc các quỹ đầu tư tự chủ tài chính. c - Doanh nghiệp do người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. d - Doanh nghiệp do người nước ngo ài cư trú lâu dài tài Việt Nam đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. e - Doanh nghiệp do công dân Việt Nam cùng thành lập với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, với người nước ngoài cư trú lâu dài tại Việt Nam. 2.2.3 - Các biện pháp hỗ trợ đầu tư: gồm 7 biện pháp: a - G iao đất hoặc cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai. b - X ây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp (KCN) để cho thuê làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh. c - Lập và khuyến khích các quỹ hỗ trợ đầu tư đ ể cho vay đầu tư trung hạn và dài hạn. Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của các quỹ hỗ trợ đầu tư. d - Góp vốn thông qua các quỹ hỗ trợ đầu tư, Ngân hàng Thương mại, Công ty Tài chính, vào các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế trên cơ sở cùng có lợi. e - Quy định việc bảo lãnh tín dụng đầu tư của các Ngân hàng, Tổ chức tín dụng và Công ty tài chính. g - Phổ biến và chuyển giao công nghệ; tạo điều kiện cho các chủ đầu tư được sử dụng với mức phí ưu đãi các công nghệ mới, tạo ra từ vốn ngân sách Nhà nước. 16
  18. LuËn v¨n tèt nghiÖp h - Hỗ trợ việc tổ chức thực hiện các chương trình, dịch vụ khuyến khích đầu tư gồm: Tư vấn quản lý kinh doanh, tư vấn pháp lý, tổ chức dạy nghề và đào tạo cán bộ kỹ thuật, đào tạo và nâng cao kiến thức quản lý cung cấp thông tin kinh tế. 2.2.4 - Các dự án đầu tư được hưởng ưu đãi: Luật KKĐTTN dành một chương quy định về các nội dung ưu đãi đầu tư bắt đầu bằng việc xác định rõ các lo ại dự án được hưởng ưu đãi. Luật KKĐTTN còn quy đ ịnh các dự án đầu tư được hưởng ưu đãi như: 2.2.4.1 - Các dự án đầu tư Đầu tư vào các lĩnh vực: a) Trồng rừng, trồng cây trên đất chưa sử dụng, tận dụng, khai thác đất trống, đồi núi trọc vào mục đích kinh doanh; nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng nước chưa được khai thác, đánh bắt hải sản ở vùng biển xa bờ, chăn nuôi đại gia súc tập trung. b) Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, phát triển vận tải công cộng đô thị; phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá dân tộc; nghiên cứu khoa học, công nghệ. c) Chế biến nông sản, lâm sản, thuỷ sản, các dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. d) Sản xuất hàng xuất khẩu, thay thế nhập khẩu. e) Các ngành công nghiệp được ưu tiên phát triển (trong thời kỳ 1995- 2000), ngoài các ngành nghề đã nêu ở trên. g) Đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghiệp cao. 2.2.4.2 - Các dự án đầu tư ở các vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo,quy đ ịnh tại danh mục B (danh mục B ban hành kèm theo các Nghị định hướng dẫn của Chính phủ). 2.2.4.3 - Đầu tư vào các vùng khó khăn theo quy định tại danh mục C. 17
  19. LuËn v¨n tèt nghiÖp 2.2.4.4 - Đầu tư thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng công nghệ hiện đại, ít nhất có một trong các tiêu chuẩn quy định dưới đây: a) Công nghệ tạo ra sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu. b) Công nghệ áp dụng có khả năng tạo ra sự đổi mới công nghệ, thiết bị của các ngành khác. c) Công nghệ sử dụng nguyên vật liệu trong nước để làm ra sản phẩm đạt các chỉ tiêu chất lượng cao hơn so với các sản phẩm đã có cùng loại. d) Công nghệ sạch, công nghệ sử dụng các chất phế thải rắn, lỏng, khí. 2.2.4.5 - Đ ầu tư vào các dự án sản xuất, kinh doanh sử dụng số lao động bình quân trong năm ít nhất là: a) ở đ ô thị loại 1 và loại 2: 100 người. b) ở các vùng, huyện thuộc vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và các vùng khó khăn khác (được quy định tại danh mục B và C Nghị định 07/1998/ND-CP): 20 người. c) Các vùng khác: 50 người. 2.2.5 - Các nội dung ưu đãi ch ủ yếu theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước: Từ 2 và 1 xác định các loại dự án đ ược hưởng ưu đãi, Luật KKĐTTN và các văn bản Nghị định của Chính phủ quy định và cụ thể hoá các nội dung ưu đãi chủ yếu theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, đó là: 2.2.5.1 - Ưu đãi về thuế: Luật KKĐTTN quy định việc miễn, giảm đối với các loại thuế như: thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế tài nguyên (Nghị định số 07 quy định thêm trên cơ sở quy định của Luật thuế tài nguyên), thuế thu nhập cá nhân, kể cả thuế 18
  20. LuËn v¨n tèt nghiÖp thu nhập bổ sung đối với người có thu nhập cao, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, và thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị. 2.2.5.2 - Ưu đãi về đất đai: Một số dự án được Nhà nước giao đất thì không phải trả tiền sử dụng đất, còn những dự án phải thuê đất thì có các chế độ miễn giảm tiền thuê đất theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. 2.2.5.3 - Ưu đ ãi về vay vốn từ Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia, bảo lãnh tín dụng và vay tín dụng xuất khẩu. Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia thực hiện chức năng hỗ trợ thông qua việc cho vay vốn trung và dài hạn với lãi suất ưu đ ãi cho các dự án đầu tư thuộc danh mục B và danh m ục C. Chủ đầu tư có thể dùng tài sản mua bằng vốn vay để thế chấp cho các dự án đầu tư thuộc danh mục A, danh mục B và danh mục C được bảo lãnh tín dụng đầu tư. Luật cũng quy định cho Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia nhiệm vụ trợ cấp một phần lãi suất cho các khoản vay từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển và các Ngân hàng Thương mại Quốc doanh đối với các dự án đầu tư vào các ngành nghề thuộc danh mục A. 2.2.5.4 - Ưu đãi đối với riêng những doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được xác định thêm các ưu đ ãi: Những doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được quyền trực tiếp xuất khẩu hàng hoá do mình sản xuất; tuỳ lĩnh vực hoạt động có thể được giảm mức vốn lưu động và được bảo lãnh cho vay hoặc cho vay tín dụng xuất khẩu. Như vậy những nội dung hỗ trợ và ưu đãi đầu tư quy định tại Luật KKĐTTN và các văn b ản dưới Luật hướng dẫn thi hành là khá phong phú. Vấn đề còn lại là việc tổ chức triển khai những nội dung trong thực tế như thế nào để mọi chủ đầu tư có dự án thuộc diện khuyến khích, hỗ trợ có thể nhận 19
nguon tai.lieu . vn