Xem mẫu

  1. -1- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu. Hoạt động đầu tư phát triển đối với 1 Doanh nghiệp là vô cùng quan trọng vì nó quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, phải làm sao cho hoạt động đầu tư của Doanh nghiệp trở nên có hiệu quả cao nhất không phải là 1 điều đơn giản đối với tất cả các doanh nghiệp. Cho đến nay khái niệm đầu tư phát triển không còn gì xa lạ với những doanh nghiệp sản xuất cũng như kinh doanh sản phẩm dịch vụ, song việc nhìn nhận, thực hiện có hiệu quả các nội dung của hoạt động đầu tư phát triển trong Doanh nghiệp đối với mọi doanh nghiệp không phải là dễ dàng. Không ngoại lệ, công ty cổ phần Hải Hưng cũng nhận thức rõ được tầm quan trọng của hoạt động đầu tư phát triển. Từ khi thành lập năm 2002, công ty cổ phần Hải Hưng luôn quan tâm chú trọng đến hoạt động đầu tư phát triển của công ty. Đến nay trải qua hơn 10 năm hoạt động, công ty đã đạt những kết quả kinh doanh đáng kể. Tuy nhiên, công ty cũng không tránh khỏi có những khó khăn và hạn chế trong hoạt động đầu tư phát triển,khiến cho hoạt động đầu tư phát triển không đạt được kết quả và hiệu quả như mong muốn. Qua quá trình tìm hiểu tình hình thực tế hoạt động đầu tư phát triển của công ty cùng những kiến thức đã được học, em đã quyết định chọn đề tài: “Đầu tư phát triển trong công ty cổ phần Hải Hưng” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề về lý luận có tính khoa học đ ối với hoạt động sử dụng vốn đầu tư phát triển tại công ty cổ phần Hải Hưng Đánh giá thực trạng sử dụng vốn đầu tư phát triển tại công ty cổ phần Hải Hưng. Đề xuất các giải pháp cụ thể để tăng cường sử dụng hiệu quả vốn đầu tư phát triển tại công ty cổ phần Hải Hưng trong thời gian sắp tới.
  2. -2- 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: tập trung nghiên cứu tình hình sử dụng vốn đầu tư tại doanh nghiệp Phạm vi nghiên cứu:chuyên đề tập trung nghiên cứu tình hình sử dụng vốn đầu tư tại công ty cổ phần Hải Hưng từ năm 2010 đến năm 2012, định hướng phát triển của công ty cổ phần Hải Hưng đến năm 2015. 4. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, phương pháp dự báo, phương pháp suy luận logic để phân tích, đánh giá. Kế thừa một số kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu có liên quan đến vốn đầu tư phát triển tại địa bản tỉnh Kon Tum và công ty cổ phần Hải Hưng. 5. Các kết quả chính của đề tài: Hệ thống các vấn đề lí luận và thực tiễn, các nhân tố tác động, kinh nghiệm của một số công ty trong cả nước nói chung và tỉnh Kon Tum nói riêng, rút ra bài học kinh nghiệm. Đánh giá thực trạng đầu tư phát triển trong công ty cổ phần Hải Hưng. 6. Nội dung của đề tài: Chuyên đề tốt nghiệp này ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng đầu tư phát triển tại công ty cổ phần Công ty cổ phần Hải Hưng. Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động đầu tư phát triển tại công ty cổ phần Công ty cổ phần Hải Hưng.
  3. -3- CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG DOANH NGHIỆP 1.1. Bản chất của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. 1.1.1. Khái niệm về đầu tư phát triển trong nền kinh tế nói chung và trong doanh nghiệp nói riêng. Đầu tư, đầu tư phát triển. Đầu tư theo nghĩa chung nhất là sự bỏ ra hay sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đạt các kết quả, thực hiện được các mục tiêu nhất định trong tương lai. Tuy nhiên, đứng dưới các góc độ khác nhau thì nó cụ thể như sau: − Theo quan điểm tài chính: đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu đ ể chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn sinh lời. − Theo góc độ tiêu dùng: đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu về một mức độ tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Để có thể hiểu rõ bản chất của hoạt động đầu tư chúng ta cần làm rõ những yếu tố như: nguồn lực đầu tư, hoạt động đầu tư, đối tượng của hoạt động đầu tư. Nguồn lực đầu tư: theo nghĩa hẹp được hiểu là bao gồm tiền vốn, còn theo nghĩa rộng nó bao gồm vốn bằng tiền, đất đai, máy móc, lao động. Mục tiêu của hoạt động đầu tư: bao gồm những lợi ích về mặt tài chính gắn liền với doanh nghiệp, chủ đầu tư; những lợi ích về mặt kinh tế và những lợi ích về mặt xã hội mà do hoạt động đầu tư tạo nên. Đối tượng của hoạt động đầu tư: đầu tư vào tài sản hữu hình (tài sản vật chất), đầu tư vào tài sản vô hình (nghiên cứu và phát triển, dịch vụ, quảng cáo, thương hiệu), đầu tư vào tài sản sản xuất hay đầu tư vào tài sản lâu bền.
  4. -4- Đầu tư phát triển Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực trí tuệ và lao động để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và kiến trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt đ ộng của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm l ực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo ra việc làm và nâng cao đời sống cho mọi thành viên trong xã hội. Đầu tư phát triển làm gia tăng tài sản cho nền kinh tế mà không phải là sự chu chuyển từ đơn vị này sang đơn vị kia của nền kinh tế. Vốn đầu tư Căn cứ theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng: vốn đầu tư được hiểu là tiền tích lũy của xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở sẵn có và tạo ra tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. Nguồn vốn đầu tư. Là cụm từ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm: nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. 1.1.2. Vai trò của đầu tư phát triển. a. Trên góc độ vĩ mô. • Đầu tư là nhân tố quan trọng tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Về mặt lý luận, hầu hết các tư tưởng, mô hình và lý thuyết về tăng trưởng kinh tế đều trực tiếp hoặc gián tiếp thừa nhận đầu tư và việc tích lũy vốn cho
  5. -5- đầu tư là một nhân tố quan trọng cho việc gia tăng năng lực sản xuất, cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế. Từ các nhà kinh tế học cổ điển như Adam Smith trong cuốn “của cải của các dân tộc” đã cho rằng vốn đầu tư là yếu tố quy ết đ ịnh ch ủ yếu của số lao động hữu dụng và hiệu quả. Việc gia tăng quy mô vốn đ ầu t ư sẽ góp phần quan trọng trong việc gia tăng sản lượng quốc gia và sản lượng bình quân của mỗi lao động. Theo mô hình của Harrod – Domar, mức tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc trực tiếp vào mức độ gia tăng vốn đầu tư thuần. g =∆Y/Y =∆Y/Y *∆K/∆K =∆Y/∆K *∆K/Y = 1/ICOR *I/Y Từ đó có thể suy ra: ∆Y =1/ICOR *I Trong đó: ∆Y: mức gia tăng sản lượng ∆K: mức gia tăng vốn đầu tư I: mức đầu tư đơn thuần K: tổng quy mô vốn của nền kinh tế Y: tổng sản lượng của nền kinh tế ICOR: hệ số gia tăng vốn – sản lượng Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thể hiện cũng rất rõ nét trong tiến trình đổi mới của nền kinh tế nước ta thời gian qua. Với chính sách đ ổi mới, các nguồn vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài ngày càng được đa dạng hóa và gia tăng về quy mô, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đạt được cũng rất thỏa đáng. Cuộc sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận dân cư ngày càng được cải thiện. • Đầu tư tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế Đầu tư có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua những chính sách tác động đến cơ cấu đầu tư. Trong điều hành chính sách đầu tư, nhà nước có
  6. -6- thể can thiệp trực tiếp như thực hiện chính sách phân bổ vốn, kế hoạch hóa, xây dựng cơ chế quản lý đầu tư hoặc điều tiết gián tiếp qua các công cụ chính sách như thuế, tín dụng, lãi suất để xác lập và định hướng 1 cơ cấu đầu tư dẫn dắt sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý hơn. Kinh nghiệm của nhiều nước đi trước cho thấy nếu có chính sách đầu tư hợp lý sẽ tạo đà cho sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tỷ trọng phân bổ vốn cho các ngành khác nhau sẽ mang lại hiệu quả và kết quả khác nhau. Vốn đầu tư cũng như tỷ trọng vốn đầu tư cho các ngành và các vùng kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp tới sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng và cũng đồng thời đến tốc độ tăng trưởng chung của cả nền kinh tế. Không những thế, giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế cũng như dịch chuyển cơ cấu kinh tế có mối quan hệ khăng khít với nhau. Việc đầu tư vốn nhằm mục đích mang lại hiệu quả kinh tế cao, tăng trưởng nhanh trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế cũng sẽ dẫn đến hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý. Ngược lại tăng trưởng kinh tế cao kết hợp với việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ tạo nguồn vốn đầu tư dồi dào, định hướng đầu tư vào các ngành hiệu quả hơn. • Đầu tư tác động làm tăng năng lực khoa học công nghệ của đất nước Đầu tư và đặc biệt là đầu tư phát triển trực tiếp tạo mới và cải tạo chất lượng và năng lực sản xuất, phục vụ của nền kinh tế và các đơn vị c ơ sở. Chính vì vậy, đầu tư cũng là điều kiện tiên quyết cho quá trình đổi mới và nâng cao năng lực công nghệ của quốc gia theo cơ cấu kỹ thuật của đầu tư, trong giai đoạn vừa qua, tỷ trọng giá trị máy móc thiết bị trong tổng vốn đầu tư của Việt Nam chiếm khoảng 28% (xây dựng chiếm khoảng 57%). Cơ cấu này chưa phản ánh đúng yêu cầu CNH – HĐH, tuy nhiên nó cũng là con số không nhỏ tạo ra năng lực công nghệ cho toàn bộ nền kinh tế. Đối với đầu tư nước ngoài, hoạt động của doanh nghiệp FDI thường gắn với các chương trình chuyển giao công nghệ trong đó nước nhận vốn cũng có thể là điểm đến của một số công nghệ và phương thức sản xuất mới. Đối với chi đầu tư của Nhà nước cho
  7. -7- nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ mới mặc dù vẫn còn nhỏ về quy mô, thấp về tỷ trọng (giai đoạn 2001 – 2005 là 7,6 nghỉn tỷ đồng chiếm 0,9% vốn đầu tư toàn xã hội) nhưng ở đây cũng là một trong những biểu hiện của đầu tư và ở mức độ nhận định nó cũng có tạo ra và tăng cường năng l ực khoa học công ngh ệ nước ta (đạt được những thành tựu nhất định trong lĩnh vực nông nghiệp: giống mới, công nghệ gen,…) • Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu của nền kinh tế. Đầu tư là một bộ phận quan trọng của tổng cầu (AD = C + I + G – M). Vì vậy, khi quy mô đầu tư thay đổi cũng sẽ có tác động trực tiếp tới quy mô tổng cầu. Tuy nhiên, tác động của đầu tư đến tổng cầu là ngắn hạn. Khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư sẽ làm cho tổng cầu tăng kéo theo sự gia tăng của sản lượng và giá cả các yếu tố đầu vào. Trong dài hạn, khi các thành quả của đầu tư đã được huy động và phát huy tác dụng, năng lực sản xuất và cung ứng dịch vụ gia tăng thì tổng cung cũng sẽ tăng lên. Khi đó sản l ượng ti ềm năng s ẽ tăng và đạt mức cân bằng trong khi giá cả của sản phẩm sẽ có xu hướng đi xuống. Sản lượng tăng trong khi giá cả giảm sẽ kích thích tiêu dùng và hoạt động sản xuất cung ứng dịch vụ của nền kinh tế. b. Trên góc độ vi mô Trên góc độ vi mô thì nhà đầu tư là nhân tố quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của các cơ sở sản xuất cung ứng dịch vụ và của cả các đơn vị vô vị lợi. Để tạo dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm, lắp đặt máy móc thiết bị tiến hành các công tác xây dựng cơ bản khác và thực hiện các chi phí gắn liền với hoạt động trong một chu kỳ chứa các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được tạo ra. Đây chính là biểu hiện cụ thể của hoạt động đầu tư đối với các đơn vị đang hoạt động, khi các cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng cần phải tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay
  8. -8- mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới đ ể thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời. Đó chính là hoạt động đầu tư. 1.1.3. Đặc điểm của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp Đầu tư phát triển: là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn l ực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo ra việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Đầu tư phát triển có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia, là một lĩnh vực hoạt động nhằm tạo ra và duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế. Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, hoạt động đầu tư là một bộ phận quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật mới, duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện có và vì thế là điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ của các doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư khác, đó là: − Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá l ớn của hoạt động đầu tư phát triển bởi vì trong suốt quá trình đầu tư nó vẫn nằm dưới dạng các công trình dở dang, do vốn lớn nên các nhà đầu tư cần phải cân
  9. -9- nhắc lựa chọn đầu tư vào đâu cho có hiệu quả cao nhất, phải nghiên cứu thị trường,… Vốn nằm khê đọng trong suốt quá trình đầu tư nên ảnh hưởng tới chi phí sử dụng, quản lý vốn (thời gian, chi phí, chất lượng) và khả năng cạnh tranh trên thị trường nếu vốn nằm khê đọng quá dài thì sẽ bỏ lỡ thời cơ và cơ hội cạnh tranh. − Hoạt động đầu tư phát triển mang tính chất lâu dài: thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường kéo dài trong nhiều năm tháng, nó phụ thuộc vào giai đoạn thực hiện đầu tư. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi đủ vốn hoặc thanh lý tài sản cũng kéo dài, điều này chịu tác động của cung cầu thị trường, của các yếu tố đầu vào hay đầu ra của dự án. Thời gian thực hiện đầu tư dài còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố không dự đoán ảnh hưởng đến quá trình thực hiện: môi trường, điều kiện tự nhiên, pháp lý, kinh tế, chính trị. Điều này có thể thay đổi kết quả và hiệu quả của đầu tư. − Hơn nữa thời gian của hoạt động đầu tư phát triển kéo dài nên mang tính rủi ro cao. Vì vậy cần phải phân tích kỹ để loại trừ hạn chế tới mức thấp nhất các rủi ro như: trong trường hợp rủi ro nhất thì hiệu quả của dự án là bao nhiêu, những rủi ro nào có thể xảy ra nhất; trong trường hợp thuận l ợi nhất thì hiệu quả đạt được bao nhiêu để bù lại trong trường hợp rủi ro. Tuy nhiên đối với những yếu tố rủi ro bất định, bất khả kháng thì chúng ta phải chấp nhận. − Các thành quả của các hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm năm, hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình kiến trúc nổi tiếng (kim tự tháp Ai Cập, Vạn lý trường thành ở Trung Quốc, Awngcovat ở Campuhcia,…). Điều này nói lên giá trị lớn của các thành quả hoạt động đầu tư phát triển. − Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do các điều kiện về
  10. -10- địa lý, địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư. Ví dụ: quy mô đầu tư để xây dựng nhà máy sang tuyển than ở khu vực có mỏ than tùy thuộc rất nhiều vào trữ lượng của mỏ than. Nếu trữ lượng của mỏ ít thì quy mô của nhà máy cũng không nên lớn để đảm bảo cho nhà máy hàng năm hoạt động hết công suất với số năm tồn tại của nhà máy theo dự kiến trong dự án. Vì thế cần có chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư đúng đắn và đầu tư phải theo quy hoạch, kế hoạch, cần phải có cơ sở khoa học để lựa chọn địa điểm mà doanh nghiệp hoạt động trên đó. Nếu công trình không tiến hành cẩn thận có thể ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế không chỉ một hai năm mà là lâu dài. − Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị. Sự chuẩn bị này được thể hiện trong việc soạn thảo các dự án đầu tư (lập dự án đầu tư) có nghĩa là phải thực hiện đầu tư theo dự án được soạn thảo với chất lượng tốt. Đó là quá trình thực hiện đầu tư và quá trình vận hành khai thác. Quá trình thực hiện đầu tư ảnh hưởng tới việc lựa chọn địa điểm, đến giá thành, chi phí xây dựng (giá đất) như chọn những nơi địa hình bằng phẳng sẽ giảm được chi phí san bằng,… Quá trình vận hành khai thác ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn cao nếu địa lý thuận lợi, phải cân đối giữa giá thành xây dựng công trình, chi phí vận chuyển và chi phí cung cấp sản phẩm với khả năng tiêu thụ yếu tố đầu ra. Ngoài ra việc lựa chọn địa điểm còn ảnh hưởng đến dân cư, địa bàn, môi trường sống. 1.1.4. Phân loại đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. Để tạo thuận lợi cho quản lý việc sử dụng vốn đầu tư nhằm đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, có thể phân chia vốn đầu tư thành các khoản mục sau:
  11. -11- − Trên góc độ quản lý vĩ mô, vốn đầu tư được phân thành bốn khoản mục lớn như sau: + Những chi phí tạo ra tài sản cố định (mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn cố định). + Những chi phí tạo ra tài sản lưu động (mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn lưu động) và các chi phí thường xuyên gắn với một chu kỳ hoạt động của tài sản cố định vừa được tạo ra. + Những chi phí chuẩn bị đầu tư chiếm khoảng 0,3 – 15% vốn đầu tư. + Chi phí dự phòng. − Trên góc độ quản lý vi mô tại các cơ sở, những khoản mục trên đây lại được tách thành những khoản chi tiết hơn: + Những chi phí tạo ra tài sản cố định bao gồm: chi phí ban đầu cho đất đai; chi phí xây dựng, sửa chữa nhà cửa, cấu trúc hạ tầng; chi phí mua sắm, lắp đặt thiết bị, dụng cụ mua sắm, phương tiện vận chuyển; chi phí khác. + Những chi phí tạo ra tài sản lưu động bao gồm: chi phí nằm trong giai đoạn sản xuất như chi phí mua nguyên vật liệu, trả lương người lao động, chi phí điện nước…; chi phí nằm trong giai đoạn lưu thông gồm có sản phẩm dở dang tồn kho, hàng hóa bán chịu, vốn bằng tiền; chi phí chuẩn bị đầu tư bao gồm chi phí nghiên cứu cơ hội đầu tư, chi phí nghiên cứu tiền khả thi, chi phí nghiên cứu khả thi và thẩm định dự án đầu tư; chi phí dự phòng. Qua phân tích trên ta thấy tăng số lượng vốn là rất quan trọng nhưng thường có giới hạn về nguồn, còn nâng cao hiệu quả đầu tư quan trọng hơn vì vừa tốn ít vốn vừa gần như không có giới hạn.
  12. -12- Để nâng cao hiệu quả đầu tư trên cơ sở giảm suất đầu tư xuống là nhiệm vụ rất khó khăn. Muốn vậy, cần phải có giải pháp quyết liệt ở tất c ả các khâu của quá trình đầu tư và đặc biệt quan tâm đến khu vực vốn đầu tư nhà nước. Trước hết ở khâu quy hoạch chúng ta cần phải quy hoạch đồng bộ, phải kết hợp quy hoạch theo ngành và theo vùng lãnh thổ tránh trùng chéo, dàn tr ải, đồng thời phải có tầm nhìn để tránh việc vay vốn đầu tư xây dựng đưa vào hoạt động chưa được mấy năm, chưa trả được nợ đã phải di chuyển khỏi khu vực đông dân hoặc không gần nguồn nguyên liệu… Khắc phục tình trạng thất thoát trong đầu tư xây dựng hiện đang ở mức rất lớn mà báo chí, chính phủ, quốc hội đã đề cập rất nhiều. Khắc phục tình tr ạng khép kín để đảm bảo tính minh bạch, công khai. Khắc phục tình trạng thi công kéo dài làm cho công trình vừa chậm đi vào hoạt động, vừa lỡ thời cơ, trong khi lãi chồng lên vốn vay. Giảm thiểu chi phí giải phóng mặt bằng hiện đang quá lớn, ở những công trình còn lớn hơn cả vốn đầu tư cho công trình chính. 1.1.5. Nguồn vốn cho hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. Vốn đầu tư là một nguồn lực quan trọng cho hoạt động đầu tư. Đứng trên góc độ vĩ mô, nguồn vốn hình thành vốn đầu tư phát triển bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. a. Nguồn vốn đầu tư trong nước: được hình thành từ phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế. Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn vốn nhà nước và nguồn vốn khu vực dân doanh: Nguồn vốn nhà nước bao gồm: nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn và có ý nghĩa quan tr ọng cho hoạt động đầu tư phát triển kinh tế Việt Nam thời gian qua.
  13. -13- • Nguồn vốn ngân sách nhà nước. Đây là nguồn đầu tư chủ yếu, quyết định sự phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở kỹ thuật xã hội, là nền tảng để thực hiện CNH – HĐH đ ất nước. Nhà n ước của bất kỳ quốc gia nào cũng quan tâm đến hoạt động đầu tư này. Đ ặc biệt là ở các nước đang phát triển như nước ta là yếu tố vật chất có ý nghĩa quyết định để thực hiện tốt nhất các chủ trương, chính sách phát triển KTXH của đất nước. Ở Việt Nam đây là điều kiện vật chất ổn định và củng cố chế độ chính trị, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước cũng như không ngừng cải thiện đời sống nhân dân. Vốn ngân sách đầu tư hiện nay chia làm hai loại: − Vốn ngân sách TW dùng để đầu tư xây dựng các dự án (trồng rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn, các công trình chủ yếu của nền kinh tế…) − Vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các địa phương đầu tư vào những vấn đề quan trọng của địa phương. Trong những năm gần đây, quy mô vốn đầu tư nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau. Trong những năm 2001 – 2004 đ ầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn chiếm khoảng 25%, công nghiệp 7,9%, GTVT và bưu chính viễn thông là 28,7%. Tuy nhiên nguồn vốn này có một số hạn chế như hiệu quả sử dụng thấp, tỷ lệ thất thoát cao, vốn đầu tư thường dàn trải, không trọng tâm trọng điểm, hệ thống các cơ quan quản lý vốn ngân sách chồng chéo, chức năng không rõ giữa quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh. Do vậy chúng ta cần có một số giải pháp như làm thế nào để tăng nền kinh tế cao và liên tục, tận thu chống thất thu thuế, phân bổ ngân sách cho chi đầu tư và chi thường xuyên cho hợp lý. • Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển Tín dụng đầu tư là quan hệ tín dụng trong đó nhà nước là người đi vay đ ể đảm bảo các khoản chi của ngân sách đồng thời nhà nước cũng là người cho vay để đảm bảo các chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế. Là nguồn vốn
  14. -14- tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Ngoài ra nó còn có tác dụng khuy ến khích các doanh nghiệp quan tâm hơn đến hiệu quả đầu tư vì với cơ chế tín dụng các doanh nghiệp vay vốn phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Do có yếu tố ưu đãi nên khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư theo định hướng của nhà nước. Trong những năm gần đây đã sử dụng nguồn vốn này hỗ trợ cho các chương trình đầu tư lớn. Đầu tư cho các dự án thuộc các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 51,6%, vào các ngành nông lâm thủy sản chiếm 16,2%, GTVT chiếm 28,8%, các dự án khác chiếm 4,2%. Quá trình này góp phần tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH. • Nguồn vốn từ khu vực tư nhân. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, của hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ khu vực kinh tế ngoài nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để. Việc phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc doanh cho thấy chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được hàng nghìn tỷ đồng và hàng chục tỷ đồng từ khu vực dân cư. Cụ thể năm 2010, tổng giá trị trong năm đạt 47 nghìn tỷ đồng, tăng 76% so với năm 2009. Trong đó, trái phiếu doanh nghiệp của các doanh nghiệp sản xuất, thương mại và bất động sản chiếm tỷ trọng 55%; các ngân hàng thương mại chiếm khoảng 45%. Theo báo cáo, tính đến 31/12/2011, tổng số doanh nghiệp đăng ký theo Luật Doanh nghiệp là 622.977, số lượng đăng ký mới đạt 77.548 doanh nghiệp, với số vốn đăng ký đạt trên 513 nghìn tỷ đồng. Vốn của hộ gia đình: là phần thu nhập của hộ gia đình không bị tiêu dùng, được tiết kiệm để đầu tư và tiền tích lũy từ các hoạt động kinh doanh mà không phải là công ty. • Thị trường vốn:
  15. -15- Là nơi diễn ra các hoạt động mua, bán chứng khoán và các giấy ghi nợ trung và dài hạn. Đây không phải là các sự kiện mua đi bán lại hay chuyển đổi các giấy tờ có giá từ tay của một chủ thể này sang tay một chủ thể khác một cách đ ơn thuần nếu nhìn nhận từ bên ngoài. Về thực chất, đây là quá trình vận động tư bản ở hình thái tiền tệ - là quá trình chuyển tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ và chính quyền địa phương tạo ra một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế. Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động nào có thể làm được. Gần đây việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng đã huy động được một nguồn vốn đáng kể. Kênh huy động này ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia. Từ gần 3.000 tài khoản của nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán khi mới mở cửa vào năm 2000, tính đến tháng 12/2011, con số này đã tăng lên 1.17 triệu tài khoản, tính đ ến cuối năm 2011, đã có 708 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên cả hai Sở giao dịch chứng khoán và chứng chỉ quỹ, với tổng số lượng chứng khoán niêm yết đạt 26,82 tỷ đơn vị. Tổng giá trị vốn hóa thị trường tính tại thời điểm ngày 31/12/2011 đ ạt 535,673 nghìn tỷ đồng, suy giảm 32% so với thời gian trước đó. b. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế, đó là quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Theo tính chất lưu chuyển của vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài chính như sau: • Tài trợ phát triển chính thức ODF: Nguồn vốn này bao gồm viện trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức tài trợ phát triển khác. Dòng vốn này phải qua chính phủ quốc gia tiếp nhận hoặc được bảo lãnh chính thức, dòng vốn phải đáp ứng cho đầu tư phát triển, duy trì và
  16. -16- tạo mới để đảm bảo sự hoạt động của nền kinh tế và các cơ sở, nó không bao hàm các nguồn vốn mang tính chất dài hạn, trong đó ODA chiếm phần lớn trong ODF. Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác. Nguồn vốn này thường lớn nên có tác dụng nhanh và mạnh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu kinh tế xã hội của nước nhận đ ầu tư. Tuy nhiên tiếp nhận vốn này thường gắn với sự trả giá về mặt chính trị và tình trạng nợ nần chồng chất nếu sử dụng không hiệu quả vốn vay nếu thực hiện không nghiêm ngặt việc trả nợ vay. Thời gian qua, việc thu hút ODA phục vụ cho sự nghiệp CNH – HĐH ở Việt Nam đã diễn ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi. Theo báo cáo từ Vụ Kinh tế đối ngoại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Bộ KH&ĐT), hiện Việt Nam có 51 nhà tài trợ, gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương với các chương trình ODA thường xuyên. Tổng vốn ODA cam kết mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam tính đến thời điểm tháng 12/2011 đạt trên 64,322 tỷ USD. Mức cam kết này cho thấy, sự đồng tình và ủng hộ chính trị mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc đổi mới của Việt Nam. Mặc dù có tính ưu đãi cao song sự ưu đãi của loại vốn này thường đi kèm với các điều kiện ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường …). Vì vậy chúng ta cần xem xét kỹ khi tiếp nhận viện trợ và cần có nghệ thuật thỏa thuận để có thể nhận vốn, vừa bảo tồn đ ược các mục tiêu có tính nguyên tắc. • Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại Điều kiện huy động loại vốn này không dễ dàng như nguồn vốn ODA. Tuy nhiên nó lại có ưu điểm rõ ràng là không gắn liền với các ràng buộc về chính trị xã hội. Mặc dù vậy thủ tục vay tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
  17. -17- Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng, nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đ ặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa. Đối với Việt Nam việc tiếp cận với các nguồn vốn này vẫn còn khá hạn chế. • Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đ ối với các nước nghèo mà cả đối với các nước phát triển. Nguồn vốn này khác cơ bản với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận đ ược phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đ ầu tư tr ực ti ếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghiệp hay cần nhiều vốn. Vì thế nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình CNH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư. Do vậy để sử dụng hiệu quả vốn đầu tư FDI tùy thuộc chủ yếu vào cách thức huy động và quản lý sử dụng nó tại nước tiếp nhận đầu tư chứ không phải ở ý đồ của người đầu tư. Không những là nguồn bổ sung vốn quan trọng, nguồn vốn FDI còn đóng góp vào bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai và cải thiện cán cân thanh toán quốc t ế. Theo đánh giá, tỷ trọng đóng góp của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào GDP có xu hướng tăng dần qua các năm. Năm 2000 đạt 12,7%, giai đoạn 2001-2005 tăng cao hơn, đạt mức bình quân khoảng 14,5%/năm. Tỷ trọng này tiếp tục tăng trong các năm 2006-2009 với các con số là 16,98%-18,33%. Bên cạnh đó nó còn đóng góp vào ngân sách một phần đáng kể, đặc biệt nó góp phần tích cực vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, bưu chính viễn thông … dần dần hình thành khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
  18. -18- nghệ cao góp phần thực hiện CNH – HĐH và đô thị hóa các khu vực phát tri ển, hình thành các khu dân cư mới, tạo việc làm cho người lao động tại các đ ịa phương. • Thị trường vốn quốc tế Với xu hướng toàn cầu hóa, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc gia đã tạo ra vẻ đa dạng của các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Thực tế cho thấy, mặc dù tất cả các nguồn vốn đều có sự gia tăng về khối lượng nhưng luồng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán có mức tăng nhanh hơn các luồng vốn khác. Đây là phần tích lũy từ các đối tượng kinh tế ở nước ngoài được chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam huy động trong hoạt động đầu tư phát triển của mình thông qua hình thức phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty (ra nước ngoài hoặc phát hành trên nội bộ Việt Nam nhưng cho phép người nước ngoài mua). Đối với Việt Nam, đây là một hình thức huy động vốn khá mới mẻ và còn phức tạp. Tuy nhiên nguồn vốn này có thể huy động với số lượng lớn trong thời gian dài để đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế mà không bị ràng buộc về điều kiện tín dụng, tạo cho Việt Nam tiếp cận với thị trường vốn quốc tế …, bên cạnh đó hệ số tín nhiệm của Việt Nam thấp nên nếu phát hành thì trái phiếu c ủa Việt Nam sẽ chịu lãi suất ở mức cao và Việt Nam vẫn còn quá ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Bởi vậy đối với hình thức huy động này chúng ta cần phải nghiên cứu, lựa chọn loại hình trái phiếu phát hành, thời gian đáo hạn thị trường phát hành và nhà bao tiêu phù hợp với điều kiện Việt Nam. 1.2. Nội dung chủ yếu của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 1.2.1. Đầu tư phát triển tài sản cố định
  19. -19- Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, bên cạnh sức lao động và đối tượng lao động, các doanh nghiệp còn cần phải có tư liệu lao động. Trong đó, bộ phận tư liệu lao động có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài trong quá trình sản xuất kinh doanh được gọi là TSCĐ. TSCĐ trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu và các tài sản khác có giá trị lớn, tham gia nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh, khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, nhưng giá trị của TSCĐ đã bị giảm dần và được chuyển vào giá trị sản phẩm, dưới hình thức khấu hao. Tài sản cố định trong doanh nghiệp, có nhiều công dụng khác nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tùy theo mục đích nghiên cứu, để quản lý tốt cần phải phân loại tài sản cố định. Phân loại tài sản cố định là việc sắp xếp, các tài sản cố định trong doanh nghiệp thành các loại, các nhóm tài sản cố định có cùng tính chất, đặc điểm theo các tiêu thức nhất định. Trong doanh nghiệp thường phân loại TSCĐ theo một số tiêu thức sau: • Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện: Tài sản cố định hữu hình: Là những TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể như đất đai, nhà cửa, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị sản xuất, thiết bị truyền dẫn, dụng cụ quản lý, cây lâu năm và TSCĐ hữu hình khác,… Tài sản cố định vô hình:Là những TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể như giá trị quyền sử dụng đất, nhãn hiệu hàng hóa, bản quyền, bằng sáng chế, phần mềm máy vi tính; giấy phép, giấy phép nhượng quyền, quyền phát hành,… Cách phân loại này dùng làm căn cứ cho việc đề ra các quyết định đầu tư, hoặc điều chỉnh phương hướng đầu tư, cho phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp. • Phân loại TSCĐ theo công dụng kinh tế Căn cứ theo công dụng kinh tế, TSCĐ được phân thành 2 loại:
  20. -20- Tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh: Là những TSCĐ tham gia trực tiếp, hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như nhà cửa, vật kiến trúc, thiết bị động lực, máy móc thiết bị sản xuất,. . và những TSCĐ không có hình thái vật chất khác. Tài sản cố định dùng ngoài sản xuất kinh doanh: Là những TSCĐ, dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh phụ trợ trong doanh nghiệp; và những TSCĐ dùng cho phúc lợi công cộng gồm nhà cửa, máy móc thiết bị sản xuất, phục vụ cho sản xuất kinh doanh phụ; nhà cửa và phương tiện dùng cho sinh hoạt văn hóa, nghiên cứu, và các công trình phúc lợi tập thể. Giúp người quản lý thấy được kết cấu TSCĐ theo công dụng kinh tế và trình độ cơ giới hóa của doanh nghiệp từ đó xác định được mức độ đảm bảo đối với nhiệm vụ sản xuất và có phương hướng cải tiến tình hình trang bị kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định. • Phân loại tài sản cố định theo tình hình sử dụng Tài sản cố định đang dùng: Là những TSCĐ đang sử dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, hay các hoạt động khác của doanh nghiệp như hoạt động phúc lợi sự nghiệp, hay an ninh quốc phòng. Tài sản cố định chưa cần dùng: Là những TSCĐ cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hay các hoạt động khác của doanh nghiệp, nhưng hiện tại chưa đưa vào sử dụng đang được dự trữ để sử dụng cho kỳ sau. Tài sản cố định không cần dùng: Là những TSCĐ không còn sử dụng được cho sản xuất của doanh nghiệp, vì không còn phù hợp với qui trình sản xuất hiện nay của doanh nghiệp. • Phân loại tài sản cố định theo quyền sở hữu Tài sản cố định tự có: Là những TSCĐ do doanh nghiệp tự mua sắm, xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách cấp, vốn vay, vốn tự bổ sung và vốn góp liên doanh.
nguon tai.lieu . vn