Xem mẫu

  1. ĐỀ TÀI: KINH DOANH NGOẠI THƯƠNG
  2. Lời nói đầu Từ sau khi mở cửa, cải cách nền kinh tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định trên đường phát triển: tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 1991-1996 bình quân đạt 8,4%, năm 1997 và 1998 đạt 8,15%, mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính c hính tiền tệ, tốc độ vẫn đạt 5,83%. Đây là những con số rất có ý nghĩa. Nó khẳng định tính đúng đắn trong đường lối, chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước ta. Để có được kết quả đó, chúng ta không thể phủ nhận những đóng góp to lớn của ngoại thương- chiếc cầu nối giữa kinh tế Việt Nam và kinh tế thế giới. Trong giai đoạn hiện nay, khi xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá bùng nổ thì Việt Nam lại càng cần mở cửa để hoà nhập với sự phát triển của quốc tế, tránh tụt hậu. Càng mở cửa, hoà nhập thì hơn bao giờ hết, ngoại thương lại càng khẳng định vị trí quan trọng của mình. Vì vậy, việc nghiên cứu hoạt động ngoại thương của nước ta là cần thiết, không thể chậm trễ. Qua bài viết này, chúng ta có thể đưa ra những cái nhìn rõ hơn về thực trạng, hướng đi cho ng oại thương Việt Nam. Từ đó đề xuất những chính sách, giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của lĩnh vực này. Làm tốt được điều này cũng có nghĩa là góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc CNH - HĐH đất nước, đưa Việt Nam phát triển ở một vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. 1
  3. Phần I NGOẠI THƢƠNG VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ Nguồn gốc ra đời và lợi thế cạnh tranh của hoạt động ngoại thƣơng. I-/ 1-/ Nguồn gốc ra đời của hoạt động ngoại thƣơng. Từ khi xuất hiện trên trái đất, con người đã biết tự tìm kiếm, khai thác những vật thể trong tự nhiên để sinh tồn. Qua thời gian, trước những thử thách khắc nghiệt của tự nhiên con người đã phát triển không ngừng, kinh nghiệm sống được đúc rút. Cũng qua quá trình phát triển, phân cô ng lao động (PCLĐ) nảy sinh và ngày càng diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc hơn. Từ chỗ con người phải tự tổ chức mọi việc nhằm phục vụ cho nhu cầu bản thân, dần dần, họ đã biết chia sẻ công việc cho nhiều người. Mỗi người làm một hoặc mọt số phần việc nhất đinh, phù hợp nhất với khả năng cá nhân. Kết quả là tạo ra được năng suất lao động cao hơn. Quá trình PCLĐ lúc đầu chỉ diễn ra trong phạm vi một tổ chức, một nhóm người, sau đó là giữa những nhóm người trong xã hội (PCLĐ xã hội). Và đến một ngưỡng nhất đinh, sự ph ân công đó vượt ra ngoài khuôn khổ một quốc gia và trở thành quá trình PCLĐ quốc tế. Chính PCLĐ là cơ sở hình thành, là nguồn gốc cho sự ra đời của hoạt động ngoại thương ngày nay. Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội cho đến nay đã trải qua 3 giai đoạn PCLĐ xã hội lớn.  Giai đoạn 1: Chăn nuôi tách rời trồng trọt. Các bộ lạc chăn nuôi mang sữa, thịt để đổi lấy ngũ cốc, rau quả của các bộ lạc trồng trọt. Đó là mầm mống ra đời của quan hệ sản xuất, trao đổi hàng hoá giản đơn.  Giai đoạn 2: Nghề thủ công tách khỏi nghề nông. Sản xuất chuyên môn hoá bắt đầu phát triển, dẫn đến sự ra đời của ngành công nghiệp. Đặc biệt, với 2
  4. sự xuất hiện của tiền tệ đã khiến cho quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hoá -tiền tệ ra đời, thay thế cho sản xuất và trao đổi hàng hoá g iản đơn.  Giai đoạn 3: Tầng lớp thương nhân xuất hiện, lưu thông hàng hoá tách khỏi lĩnh vực sản xuất vật chất. Điều này khiến cho các quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hoá-tiền tệ thêm mở rộng, phức tạp, tạo điều kiện thuận lợi để ngoại thương quốc gia phát triển và thương mại quốc tế ra đời. Như vậy, có thể nói PCLĐ quốc tế chính là cơ sở hình thành, là điều kiện tiên quyết thúc đẩy sự phát triển của các mối quan hệ kinh tế quốc tế, trong đó, sôi động nhất và cũng chiếm vị trí, vai trò, động lực quan trọng nhất cho sự tăng trưởng, phát triển nền kinh tế mở của mỗi quốc gia và cho cả nền kinh tế thế giới là các hoạt động thương mại quốc tế (hoạt động ngoại thương). 2-/ Lợi thế cạnh tranh trong thƣơng mại quốc tế Thương mại quốc tế ra đời, đánh dấu một bước phát triển mới trong quá trình sản xuất, trao đổi hàng hoá. Khi chưa có ngoại thương, mỗi quốc gia đều phải cố gắng sản xuất ra sản phẩm phục vụ tiêu dùng xã hội bằng mọi giá, nhưng khi phát hiện ra lợi thế trong mua bán, trao đổi quốc tế, vấn đề này đã được giải quyết. Đó là lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đôi (lợi thế so sánh) của hoạt động ngoại thương. Lợi thế tuyệt đối là lợi thế có được trong điều kiện so sánh chi phí để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm. Mỗi quốc gia sẽ tập trung vào sản xuất những mặt hàng có chi phí sản xuất thấp hơn các nước khác, sau đó đem trao đổi. Còn các quốc gia khác, khi có chi phí sản xuất ra mặt hàng này bất lợi thì nên nhập khẩu. Với việc nhập khẩu và xuất khẩu như vậy sẽ đem lại lợi ích cho cả 2 bên. Đối với các nước xuất khẩu sẽ càng thu được nhiều lợi nhuận hơn khi bán sản phẩm trên thị trường quốc tế, còn các nước nhập khẩu không phải lãng phí nguồn lực khi cố gắng sản xuất ra những sản phẩm không có hoặc ít có điều kiện để sản xuất. Nhưng liệu một nước, mà việc sản xuất ra tất cả các hàng hoá đều bất lợi hơn tất cả các nước khác thì có thể tham gia vào quá trình thương mại quốc tế được không? Câu trả lời được lợi thế so sánh đưa ra là có. Nếu lợi thế tuyệt đối 3
  5. được xem xét dựa vào chi phí sản xuất, thì lợi thế so sánh dựa vào chi phí so sánh. Đó là chi phí có được trên cơ sở thực hiện chuyên môn hoá sản xuất vỡi những sản phẩm có năng suất cao hơn. Lợi thế so sánh chỉ ra một nước nên tập trung vào việc sản xuất ra những sản phẩm mà mì nh có khả năng sản xuất tốt nhất trên cơ sở so sánh về năng suất lao động với nước trao đổi. Là như vậy sẽ tận dụng được tối đa nguồn lực của từng nước, đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Để làm rõ hơn, ta xét một ví dụ về chi phí sản xuất thép và quần áo giữa Việt Nam với Nga theo số liệu cho ở bảng sau: Bảng 1: Chi phí sản xuất Chi phí sản xuất (ngày công lao động) Sản phẩm Việt Nam Nga - Thép (1 đơn vị) 25 16 - Quần áo (1 đơn vị) 5 4 Nếu xét theo chi phí sản xuất ở bảng 1 thì Việt Nam bất lợi trong việc sản xuất ra cả 2 mặt hàng trên vì đều có chi phí sản xuất cao hơn Nga. Lợi thế tuyệt đối chỉ ra rằng Việt Nam không có khả năng xuất khẩu sản phẩm nào vào Nga. Song nếu xét theo khía cạnh chi phí so sánh ở bảng 2 thì lại khác. Bảng 2: Chi phí so sánh Chi phí so sánh Sản phẩm Việt Nam Nga - Thép (1 đơn vị) 5 4 - Quần áo (1 đơn vị) 1/5 1/4 Theo chi phí so sánh, ta thấy rằng: chi phí sản xuất thép của Việt Nam cao hơn Nga (để sản xuát ra một đơn vị thép ở Việt Nam cần nhiều đơn vị quần áo, trong khi đó ở Nga chỉ cần 4 đơn vị), nhưng ngược lại, chi phí sản xuất quần áo của Việt Nam lại thấp hơ n Nga (để sản xuất ra 1 đơn vị quần áo ở Việt Nam cần 4
  6. 1/5 đơn vị thép, trong khi đó Nga cần tới ẳ đơn vị). Như vậy, lợi thế so sánh lại chỉ ra rằng Việt Nam có thể xuất khẩu quần áo sang Nga. Nếu Nga đi vào chuyên môn hoá sản xuất thép và Việt Nam chuyên môn hoá sản xuất quần áo, sau đó trao đổi cho nhau thì kết quả là cả 2 cùng được lợi qua thương mại quốc tế. Những lí thuyết trên được A. Smith -đại diện tiêu biểu của trường phái kinh tế cổ điển, đưa ra đầu tiên. Đến nay, qua nhiều thế kỷ phát triển, nó không ngừng được các nhà lý luận kinh tế học nghiên cứu và phát triển, trong đó phải kết đến một đại diện tiêu biểu là M.Porter. Ông đã đưa ra lý thuyết “Lợi thế cạnh tranh của mỗi quốc gia” (The Competitive Advantages of Nations). Theo lý thuyết của ông, lợi thế cạnh tranh của 1 quốc gia được quyết định bởi sự tác động qua lại giữa 6 nhân tố cơ bản: 1 -Điều kiện sản xuất vốn có (lao động, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lí...); 2 -Các điều kiện của thị trường nội địa (số lượng cần, sự đòi hỏi của người ti êu dùng...); 3-Các ngành công nghiệp bổ trợ và liên đới; 4-Chiến lược, cơ cấu của các công ty và sự cạnh tranh trong nội bộ ngành; 5-Chính phủ; 6-Các nhân tố ngẫu nhiên. Trong 6 nhân tố trên thì 4 nhân tố đầu giữ vai trò quyết định. Hơn thế nữa, nếu lợi th ế dựa trên một trong 4 nhân tố đó được phát huy ở mực độ cao thì lợi thế dựa trên các nhân tố khác sẽ dần xuất hiện do sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Ngược lại, việc để mất lợi thế cạnh tranh dựa trên 1 trong những nhân tố kể trên cũng dễ dẫn đến việc mất lợi thế dựa trên những nhân tố khác. Trên cơ sở lí thuyết của M. Porter, xem xét đến Việt Nam, ta thấy trong giai đoạn hiện nay có những lợi thế cạnh tranh như sau:  Lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng : theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế Việt Nam cũng như nước ngoài, Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên tương đối phong phú, đa dạng. Việt Nam là quốc gia có rừng đa sinh vật, có biển với nguồn thuỷ sản đa dạng và có nhiều loại khoáng sản khác nhau từ dầu khí cho đến đất hiếm, than nâu...Với khi hậu nhiệt 5
  7. đới, nước ta cũng thuận lợi cho việc phát triển cây nông nghiệp và cây công nghiệp. Bên cạnh đó, Việt Nam còn có nguồn nước dồi dào. Tiềm năng nước bề mặt rất lớn và phân bố đều khắp ở các vùng. Nước ngầm của ta tuy không lớn nhưng cũng có thể đáp ứng được nhu cầu nước công nghiệp và nước tiêu dùng của dân cư.  Về vị trí địa lí: Việt Nam nằm ở Tây Thái Bình Dương-khu vực phát triển kinh tế cao, ổn định, nơi cửa ngõ giao lưu quốc tế. Do đó, VN có nhiều khả năng để phát triển các loại hình kinh tế khác nhau dựa trên những lợi thế về vận tải biển, dịch vụ viễn thông, du lịch...  Về tài nguyên con người: Với khoảng 78 triệu dân, VN là quốc gia có dân số đông thứ 13 trên thế giới. Ước tính, mỗi năm nước ta có khoảng 1,2 t riệu người bước vào tuổi lao động. Đây là nguồn lực lao động dồi dào, sẵn sang cung cấp cho nền kinh tế. Không những thế, giá lao động của ta lại thuộc vào loại rẻ so với thế giới và khu vực. Những lợi thế trên của VN, theo quan điểm của M.Porter, thực chấ t là những lợi thế về chi phí sản xuất dựa trên các điều kiện sản xuất vốn có. Nhờ đó, hàng hoá và dịch vụ sản xuất tại VN có sức cạnh tranh về giá cả, đặc biệt là những hàng hoá có hàm lượng lao động và nguyên liệu cao. Tuy nhiên, đây cũng là những lợi th ế cấp thấp, lợi thế “trời cho”, lợi thế có được và không cần phải có những đầu tư lớn về vốn và tri thức. Những lợi thế này thương không vững chắc, chỉ mang tính ngắn hạn và trung hạn nếu các điều kiện sản xuất vốn có không được liên tục tái tạo và phát tr iển. Do vậy, vấn đề duy trì, tái tạo và phát huy ở mức độ cao hơn những nguồn lợi thế này là yêu cầu đặt ra với VN. Từ đó có thể tạo ra các mối liên hệ tác động tốt, dần làm xuất hiện lợi thế ở những nhân tố khác. Như vậy, lợi thế cạnh tranh sẽ là 1 căn cứ quan trọng để một nước chọn ra chiến lược ngoại thương hợp lý phục vụ cho đường lối phát triển kinh tế của đất nước. Với mỗi nước khác nhau, những lợi thế sẽ khác nhau và do đó, các chiến 6
  8. lược áp dụng cũng khác nhau. Qua kinh nghiệm phát triển hoạt động n goại thương của 1 số nước, các nhà kinh tế đã đúc kết và tổng hợp thnàh các chiến lược cụ thể mà ta sẽ đi xem xét, nghiên cứu dưới đây. II-/ Kinh nghiệm của một số nƣớc trong việc lựa chọn chiến lƣợc ngoại thƣơng 1-/ Chiến lƣợc xuất khẩu sản phẩm thô Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô thực thi việc xuất khẩu dựa trên sự sẵn có của tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện thuận lợi của đất nước. Sản phẩm xuất khẩu thô là các sản phẩm chưa qua chế biến hoặc đang còn ở dạng sơ chế, đó là các sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm khai khoáng. Như vậy, thực chất có thể gọi đây là chiến lược hướng ngoại nhưng ở trình độ thấp. Chiến lược này chủ yếu được sử dụng ở các nước đang phát triển với trình độ sản xuất còn thấp kém. Đối với phát triển kinh tế, nó có những tác động nhất định, thể hiện ở những điểm sau:  Tạo ra nguồn tích luỹ ban đầu cho nền kinh tế : Mọi sự khởi đầu đều cần có cái gốc cơ bản. Với phát triển kinh tế cũng vậy. Một nước muốn đi lên thì đòi hỏi về vốn là rất cần thiết, không thể phát triển kinh tế với “ 2 bàn tay trắng”. Do vậy, với các nước kém và đang phát triển được tự nhiên ưu đãi, việc thực thi chiến lược này sẽ góp phần tạo ra 1 nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho giai đoạn đầu của quá trình phát triển, tạo ra những tiền đề vật chất cần thiết cho nền kin h tế tăng trưởng.  Tạo điều kiện để phát triển kinh tế theo chiều rộng: Dựa trên việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, sản xuất các sản phẩm sơ chế, từ đó, nó thúc đẩy các ngành công nghiệp khai khoáng, chế biến không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Kết quả là tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, tăng đội ngũ công nhân lành nghề và tất yếu dẫn đến tăng quy mô sản xuất của nền kinh tế.  Làm nảy sinh các mối liên kết trong kinh tế : Với sự phát triển của công nghiệp khai khoáng, chế biến , trước hết, nó tác động ngược trở lại với các ngành cung ứng nguyên liệu, tạo ra “mối liên hệ ngược”. Chẳng hạn, sự phát triển của 7
  9. công nghiệp dệt sẽ tạo ra nhu cầu đối với nguyên liệu bông và thuốc nhuộm, do đó, đẩy mạnh sản xuất những ngành này. Sự phát triene của các ngành có liên quan còn được thể hiện qua “mối liên hệ gián tiếp” thông qua nhu cầu về hàng tiêu dùng. Mối liên hệ này nảy sinh khi phần lớn lực lượng lao động có mức thu nhập ngày càng tăng, tạo ra nhu cầu tăng thêm về hàng tiêu dùng. Kết q uả là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng cũng được kích thích phát triển.  Tạo ra sự thay đổi cơ cấu của nền kinh tế : Ban đầu là sự phát triển của công nghiệp khai khoáng và các ngành nông nghiệp chăn nuôi, trồng cây lương thực và cây công nghiệp có khả năng xuất khẩu. Tiếp đến là sự phát triển của công nghiệp chế biến tạo ra các sản phẩm sơ chế như gạo, cà phê, cao su... Trước những năm 50 chiến lược này đã mang lại sự tăng trưởng đáng kể cho nhiều nước, trong đó có cả 1 số quốc gia phát triển như Mĩ, Ca nada, Cộng hoà liên bang Đức...do có các lợi thế so sánh về xuất khẩu lương thực, thực phẩm và 1 số khoáng sản thô khác. Cũng bằng con đường này, 1 số nước nghèo như Côlômbia, Mêhicô, Malaysia, Philipin...trong thời kì đầu CNH (những năm 50-60) đã tạo ra được những động lực đầu tiên cho sự phát triển nhờ có lợi thế so sánh về một số sản phẩm xuất khẩu như: cao su, cà phê, dầu dừa, dầu cọ, quặng kim loại...Thực trạng này đã lý giải vì sao đến cuối những năm 60, xuất khẩu hàng thô và sơ chế chiếm đến 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, việc thực thi chiến lược này cũng có nhiều hạn chế, trở ngại đối với các nước. Nó thể hiện:  Hiệu quả kinh tế không cao : Nhiều nàh kinh tế đã đưa ra kết luạn rằng: đây là loại chiến lược “bán rẻ tài nguyên thiên nhiên”. Các nước này do trình độ sản xuất còn thấp kém nên phải xuất khẩu các sản phẩm thô và sơ chế với giá rẻ mạt, không khai thác hết được hết các giá trị từ nguyên liệu của mình. Thường các sản phẩm này được nước trung gian mua lại, sau đó đem tái chế bằng công nghệ tiên tiến hơn và tái xuất khẩu đến nước thứ 3 với giá trị kinh tế cao hơn rất nhiều. 8
  10.  Phụ thuộc nhiều vào cung cầu sản phẩm thô: cung-cầu sản phẩm thô trên thị trường thế giới mang tính bất ổn cao, từ đó dẫn đến sự biến động giá cả của các loại sản phẩm này. Xu hướng biến động ngày càng theo chiều hướng bất lợi cho các nước xuất khẩu vì tương quan giá cả của các mặt hàng sơ chế sẽ ngày càng giảm so với các mặt hàng chế biến, đặc biệt là các mặt hàng được chế biến sâu (có hàm lượng kĩ thuật-công nghệ cao).  Gây ra hậu quả xấu về môi trường sinh thái: vì tư lợi, việc khai thác bừa bãi nguồn tài nguyên để xuất khẩu là khó tránh khỏi, trong đó, có cả những sản phẩm phục vụ trực tiếp cho việc bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Nếu những sản phẩm này bị khai thác quá mức sẽ để lại những hậu quả về môi trường khó có thể lường trước được. Ngay như nước ta, việc khai thác 1 cách bừa bãi các loại tài nguyên khoáng sản đã dẫn đến rất nhiều hậu quả về môi trường sinh thái, về thiên tai.  Giải pháp “trật tự kinh tế mới” Các nước xuất khẩu sản phẩm thô luôn cố gắng nhằm tăng giá trị của những mặt hàng xuất khẩu. Một trong những thành công đó là việc đấu tranh để đi đến 1 “trật tự kinh tế mới”, gọi tắt là NIEO. Thực chất của việ c làm này là kêu gọi thành lập các tổ chức mà các thành viên tham gia là các nước đang cung cấp sản phẩm thô đó trên thị trường. Nội dung hoạt động của tổ chức là kí kết các hiệp định nhằm xác định một lượng cung sản phẩm thô hợp lí trên thị trường quốc tế sao cho giữ được ổn định hoặc tăng giá của chúng, tức là đem lại điều kiện xuất khẩu có lợi cho các nước xuất khẩu. Việc cung bừa bãi sẽ dẫn đến giá xuất khẩu bất lợi, vì vậy cần phải hạn chế cung. Trên cơ sở lượng cung chung được xác định, từng nước thàn h viên sẽ được giới hạn tại từng mức cung cụ thể theo cam kết. Một điển hình thành công trong việc áp dụng giải pháp này là tổ chức quốc tế về cà phê (ICO). Tổ chức này đã đưa ra hạn mức xuất khẩu cho từng nước tham gia. Tổ chức của các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) cũng đạt được những thành công nhất định. Từ năm 1974 đến 1982, OPEC đã tăng được giá dầu từ 9
  11. 4USD/ thùng lên hơn 30USD/ thùng. Nhưng giải pháp này cũng có hạn chế của nó. Đó là mức độ thực hiện cam kết của các nước thành viên. Thường các nước có xu hướng tăng thêm sản lượng so với hạn mức để tranh thủ giá trên thị trường, kết quả là xảy ra phản ứng dây chuyền với các nước khác và “trật tự kinh tế quốc tế” bị phá vỡ.  Giải pháp “kho đệm dự trữ quốc tế” Với giải pháp này, Liên hợp quốc kêu gọi các nước xây dựng các “kho đệm dự trữ quốc tế” mà mỗi loại kho phục vụ cho 1 loại sản phẩm thô. Vẫn đề đóng kinh phí cho hoạt động các các kho khác với “trật tự kinh tế mới” là Liên hợp quốc bắt buộc đối với cả nước xuất khẩu lẫn nước nước nhập khẩu. Nhiệm vụ của kho là duy trì một lượng sản phẩm thô trên thị trường sao cho giá cả của nó không gây bất lợi cho cả nước xuất khẩu và nước nhập khẩu. Thực thi giải pháp này cũng vấp phải vấn đề là nhiều khi không cod đầy đủ thông tin từ kho đệm đến sản xuất dễ khiên cho người sản xuất nhận được những tín hiệu không đúng về cung-cầu sản phẩm và làm cho kho hoạt động kém hiệu quả, thậm chí còn gây ra tác hại xấu đến thị trường. Nhìn chung cả 2 biện pháp có khác nhau về cách thức thực hiện nhưng đều tác động đến lượng hàng hoá cung ứng trên thị trường và từ đó tác động đến giá cả để nó không gây ra những bất lợi cho các nước xuất khẩu và kể cả với nước nhập khẩu. 2-/ Chiến lƣợc thay thế hàng nhập khẩu (chiến lƣợc hƣớng nội) Những năm của thập niên 50 -60, hầu hết các nước đang phát triển ở châu á, châu Phi, Mĩ-Latinh đều thực hiện CNH đất nước bằng chiến lược phát triển kinh tế hướng nội mà nội dung chủ yêú của nó là việc đề cao sản xuất hàng thay thế nhập khẩu. Phương pháp tiếp cận với chiến lược này là: Trước hết, các nhà sản xuất trong nước cần xác định rõ nhu cầu thị trường trong nước qua số lượng nhập khẩu thực tế hàng năm để lập kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh. Sau đó, 10
  12. sẽ tiến tới đẩy mạnh phát triển sản xuất trong nước, mà trước hết là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, tiếp đến là các ngành công nghiệp khác để thay thế các sản phẩm nhập khẩu đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng trong nước. Nhà nước sẽ có trách nhiệm bảo đảm dư các điều kiện cần thiế để các nhà sản xuất trong nước có thế tự là chủ toàn bộ quá trình hàng rào bảo vệ cho sản xuất và mậu dịch trong nước phát triển bằng các biện pháp thuế quan và phi thuế quan. Bằng chiến lược này, trong thực tiễn phát triển, nhiều nước đã đạt được tăng trưởng và phát triển kinh tế nhờ khai thác, phát huy tốt các tiềm năn g, thế mạnh về lao động, tài nguyên...để phát triển mạnh sản xuất các sản phẩm thay thế nhập khẩu với chi phí, giá thành hợp lí. Tuy nhiên, để thực hiện thành công chiến lược này cần phải có được những điều kiện nhất định cho nó phát huy khả năng. Các điều kiện đó là:  Điều kiện cơ bản nhất là phải có bảo hộ của chính phủ để hạn chế tính cạnh tranh của hàng nước ngoài. Bảo hộ của chính phủ có thể bằng nhiều cách, nhưng biện pháp hữu hiệu nhất thường được áp dụng là bảo hộ bằng thuế nhập khẩu và bằng hạn ngạch (Quota).  Phải xác định được khả năng phát triển của công nghiệp trong nước: Việc can thiệp, bảo hộ của chính phủ chỉ trong những giới hạn và thời kì nhất địn. Chính phủ không thể bảo hộ mãi được mà cái chính là doanh nghiệp phải tự bảo vệ lấy mình qua việc nâng ca o chất lược, khả năng sản xuất. Nhưng, trong giai đoạn đầu, để vực sản xuất trong nước nhất thiết cần có “bàn tay hữu hình” can thiệp. Điều quan trọng là sự hợp lí trong can thiệp, bảo hộ của chính phủ như thế nào. Việc bảo hộ quá mức hay lỏng lẻo đều gây ra những hậu quả xấu cho nền kinh tế. Do đó, cần phải xác định được một cách chính xác khả năng của các ngành sản xuất trong nước, để từ đó đưa ra được giải pháp bảo hộ tối ưu.  Phải có được một thị trường trong nước đủ lớn. Bảo hộ gần như là khép kín. Để sản xuất trong nước phát triển cần có thị trường mà thị trường này được hướng nội xác định là chỉ có thị trường trong nước. Cho nên, đòi hỏi của chiến 11
  13. lược là thị trường phải đủ rộng cho sản xuất trong nước phát triển. Thiếu thị trường là đồng nghĩa với bóp chết sản xuất. Bên cạnh những điều kiện trên, thực thi chiến lược hướng nội còn vấp phải nhưng khó khăn khác nữa. Những cái khó của hướng nội thể hiện ở một số điểm sau: - Từ cuối những năm 60, chiến lược thay thế nhập khẩu đã bị hạn chế dần tác dụng ở một loạt nước, trước tiên là các nước Mĩ -Latinh, sau đó lan rộng ra các nước châu á, châu Phi. Nguyên nhân sự thất bại này là do chiến lược ngày càng tỏ ra lạc hậu trước xu thế mở cửa, phát triển mạnh các quan hệ hợp tác và phân công lao động quốc tế. Với việc đề cao hướng nội sẽ làm hạn chế tự do hoá thương mại, vi phạm quy luật lợi thế so sánh qua đóng cửa, “bế quan toả cảng” nền kinh tế. - Do đề cao quan điểm tự lực cánh sinh, nhiều khi các nước phải sản xuất ra sản phẩm thay thế nhập khẩu với bất cứ giá nào. Làm như vậy sẽ gây lãng phí nguồn lực sản xuất. - Một lí do nữa là công nghiệp thay thế nhập khẩu thường phải tách rời những khu vực sản xuất vật chất truyền thống, vì thế nảy sinh ra 1 mâu thuẫn là để phát triển mạnh công nghiệp thay thế nhập khẩu thì lại càng phải tăng nhập khẩu nguyên liệu, máy móc...Điều này trái với chính sách tiết kiệm ngoại tệ, mà hầu hết các nước áp dụng chiến lược này đều nằm trong diện kém và chưa phát triển. Từ đó, các nước này ngày càng lâm vào tình trạng vay nợ, phụ thuộc vào các nguồn vốn đầu tư của tư bản nước ngoài. Như vậy, chiến lược này cũng có khá nhiều nhược điểm. Nó đòi hỏi khi áp dụng chiến lược, các nước phải có sự nghiên cứu kĩ càng, tránh áp dụng 1 cách dập khuôn máy móc. Một điển hình cho việc áp dụng không t hành công chiến lược phát triển hướng nội là Myanma. Nhìn lại lịch sử ta thấy Myanma đã kiên trình theo đuổi chiến lược này trong suốt những năm 50 -60. Nhưng trong quá trình thực hiện, do điều kiện không phù hợp, các chính sách đưa ra không hợp lí 12
  14. đã dẫn đến thất bại. Kết quả là Myanma lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng, trở thành một nước nghèo nhất thế giới: GDP/ người chỉ có 200USD, mặc dù Myanma có lực lượng lao động đông, diện tích đất đai lớn, có trữ lượng khá về dầu lửa và nhiều nguồn tài nguyên khác, đặc biệt là có nhiều khả năng phát triển nông-lâm-ngư nghiệp. Nhưng như vậy, không có nghĩa là chiến lược này lợi ít hơn hại. Thất bại của Myanma chỉ là một minh chứng cho việc lựa chọn chiến lược không hợp lí chứ không phải là kết quả tất yếu do chiến lược này gây ra. Xem xét đến các nước khác như Hongkong và Đài Loan, ta thấy điều này ngược lại. Để trở thành “rồng châu á” như ngày nay, Hongkong và Đài Loan đã thực thi chiến lược thay thế nhập khẩu. Cả 2 nước đều tiến hành thay thế nhập khẩu lần thứ nhất với hàng tiêu dùng, và kể cả sau khi đã chuyển hướng chiến lược sang hướng ngoại thì họ vẫn thực hiện bược thứ 2 của thay thế nhập khẩu với nguyên phụ liệu, máy móc thiết bị...Điều không thể phủ nhận là nhờ thay thế nhập khẩu một cách hợp l í đã thúc đẩy kinh tế 2 nước phát triển. Rõ ràng là chiến lược này “tốt” hay “xấu” là tuỳ thuộc vào việc sử dụng linh hoạt của mỗi nước. Bên cạnhđó cũng cần lưu ý, chính trong quá trình thực hiện chiến lược này, đến một thời điểm nào đó bằng việc chuyên mô n hoá phát triển sản xuất thay thế nhập khẩu, mỗi nước đều có thể đạt được lợi thế so sánh ở một vài sản phẩm công nghiệp nào đó, và do đó vẫn có thể xuất khẩu những sản phẩm này sau khi đã thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước. Chiến lược hướng nội sẽ là khúc dạo đầu cho việc tăng trưởng theo hướng xuất khẩu. 3-/ Chiến lƣợc hƣớng ra thị trƣờng quốc tế (chiến lƣợc hƣớng ngoại) Ngược hẳn với chiến lược thay thế nhập khẩu, chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu thể hiện sự vận dụng quy luật lợi thế so sánh ở mức độ cao nhất, do đó, nó đặc biệt đề cao việc mở cửa, phát triển mạnh hướng ngoại của nền kinh tế. Nội dung cơ bản của chiến lược là: các nước khác nhau đều có những lợi thế so sánh khác nhau về nguồn lực sản xuất vốn có như vốn, lao động, tài nguyên, vị trí địa lí...vì thế các nước cần “phụ thuộc” lẫn nhau trong quá trình phát triển để có thể trao đổi cho nhau các lợi thế so sánh đó thông qua các hoạt 13
  15. động kinh tế đối ngoại như ngoại thương, liên doanh liên kết...để cùng phát triển sản xuất kinh doanh. Đến nay, qua thực tiễn phát triển ở nhiều nước đã khẳng định tính hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với xu thế phát triển của chiến lược này. Ví dụ thành công nhất trong việc áp dụng chiến lược hướng ngoại phải kể đến “4 con rồng châu á” là các nước: Đài Loan, Hongkong, Hàn Quốc và Singapo. Cả 4 nước này đều nghèo tài nguyên, kinh tế chậm phát triển, nhưng nhờ áp dụng đúng đắn, sáng tạo chiến lược hướng ngoại, lấy xuất khẩu dẫn đường, thúc đẩy kinh tế phát triển. Kết quả là chỉ sau 20 -30 năm kể từ khi bắt đầu tiến hành CNH, các nước này đã đạt được nhiều thành tựu trên con đường phát triển, trở thành các nước công nghiệp của châu á (NIES). Năm 1960, kim ngạch xuất khẩu của “4 con rồng” mới chỉ chiếm 1,6% kim ngạch xuất khẩu của thế giới, nhưng sau một thời gian hướng ngoại mạnh mẽ, con số này đã tăng lên tới 8,6% vào năm 1991. Điều đáng quan tâm là, trong suốt 30 năm qua, từ khi các nước NIES châu á tiến hành CNH, mặc dù thế giới có nhiều biến động phức tạp nhưng họ vẫn luôn giữ được tốc độ tăng trưởng kin h tế cao và ổn định. Trong thập kỉ 60, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của “4 con rồng” là 9%, những năm của thập niên 70 là 9,1% và thập kỉ 80, mặc dù đã chậm lại song vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng hàng năm khá cao là 7,5%. Để đạt được kết quả trê n là sự kết hợp, tác động tổng hợp của nhiều nhân tố, nhưng nhân tố quan trọng nhất làm nên thành tựu đó, là họ đã lựa chọn và sử dụng chiến lược hướng ngoại một cách hợp lí, sáng tạo. Việc thực thi chiến lược này tạo ra nhiều tác động tích cực đối với phá t triển kinh tế. Điều này được thể hiện:  Hướng ngoại tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước ngày càng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trái ngược với hướng nội là tạo ra sức ỳ, tính ỷ lại của các doanh nghiệp trong nước, với chiến lược hướng ngoại, nó đẩy các doanh nghiệp vào tình thế cạnh tranh khốc liệt và đòi hỏi các doanh nghiệp phải năng động để có thể tự đứng vững trên thị trường. Qua quá 14
  16. trình tôi luyện, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp tăng lên, không chỉ trong nước mà có thể vươn xa ra thị trường thế giới.  Thúc đẩy việc tạo ra một cơ cấu kinh tế mới năng động hơn, thông qua việc phát huy đầy đủ các mối liên kết trong kinh tế. Với việc tạo ra các mối liên kết trực tiếp và gián tiếp, nền kinh tế sẽ có được những kích thíc h cho sự phát triển và tiến tới một cơ cấu kinh tế mới năng động hơn, sẵn sàng hoà nhập, sẵn sàng cạnh tranh với trình độ chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu rộng, kĩ thuật và năng lực sản xuất không ngừng biến chuyển theo hướng hiện đại hoá.  Hướng ra thị trường thế giới còn góp phần tạo thêm việc làm cho người lao động, đem lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Hướng ngoại với trọng tâm là xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ làm cho kim ngạch xuất khẩu được cải thiện, tạo ra một sự gia tăng đáng kể về ngoại tệ qua việc tăng kim ngạch xuất khẩu. Cũng từ đòi hỏi phát triển mạnh xuất khẩu, các lĩnh vực sản xuất trong nước, đặc biệt là các ngành phục vụ trực tiếp cho xuất khẩu sẽ ngày càng tăng lên cả về số lượng và chất lượng, góp phần thu hút thêm một lư ợng lao động không nhỏ cho đất nước. Bên cạnh những ưu điểm trên, chiến lược này cũngcó những giới hạn nhất định. Đó là sự phụ thuộc vào quan hệ cung-cầu, giá cả thị trường thế giới; các quan hệ ràng buộc, chi phối bởi sự đầu tư tư bản nước ngoài; sự tập t rung quá mức vào 1 số ngành sản xuất chuyên môn hoá cho xuất khẩu đôi khi lại dẫn đến toan bộ nền kinh tế bị phụ thuộc vào sự bién động của những ngành đó, dễ khiến cho nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, trở thành nền kinh tế “nhị nguyên” như thuyết phát triển của W. Lewis đã đề cập. (Đó là sự hình thành nên 2 khu vực kinh tế cùng song song tồn tại. Một bên là các khu vực kinh tế mới hiện đại, năng động do tác động của các ngành xuất khẩu với dân cư đông đúc, đời sống nâng cao-các vùng thành thị, các trung tâm phát triển công nghiệp, dịch vụ...Còn 1 bên là các khu vực sản xuất truyền thống, cổ điển ít được coi trọng nên thường lạc hậu, dân cư thưa thớt, đời sống thấp kém -các vùng nông thôn, địa phương xa 15
  17. xôi, hẻo lánh). Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng chiến lược này, mỗi nước nếu biết sử dụng một cách linh hoạt, sáng tạo và có bàn tay tích cực từ phía chính phủ thì những trở ngại trên sẽ được hạn chế rất nhiều. Cho đến nay, chiến lược CNH hướng vào xuất khẩu vẫn được đánh giá là ưu việt hơn cả, phù hợp với tình hình quốc tế, với xu thế phát triển của thời đại là quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới và hợp tác vì sự phát triển chung của nhân loại. 4-/ Chiến lƣợc phát triển tổng hợp-chiến lƣợc hữu hiệu nhất với phát triển kinh tế Sự phân định thành 3 loại chiến lược phát triển trên trong thực tiễn phát triển của nhiều nước chỉ mang tính ước lệ, tương đối. Hầu hết các nước này đều không theo đuổi hẳn một loại chiến lược nào mà thực hiện sự kết hợp đồng bộ của 2 hay cả 3 loại chiến lược thành chiến lược phát triển hỗn họp, mặc dù khi thực hiện nó, tuỳ theo từng thời kì lịch sử cụ thể, những đặc điểm, quy định cụ thể của tiến trình CNH mà mỗi nước đều có sự nhấn mạnh trọng tâm vào phát triển loại chiến lược này hay chiến lược khác. Cũng qua thực tiễn áp dụng, ta có thể khẳng định tính ưu việt, hơn hẳn của nó đối với phát triển kinh tế. Bởi lẽ nó tạo ra một sự kết hợp hài hoà, cân đối giữa các chiến lược, từ đó có thể phát huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm của từng chiến lược. Khó có thể thực thi riêng biệt, rạch ròi từng chiến lược cụ thể mà cần có sự tương trợ lẫn nhau giữa chúng, đặc biệt là giữa hướng nội và hướng ngoại. Không thể hướng ngoại khi chưa hướng nội, chưa đủ sức cạnh tranh; cũng không nên bỏ qua hướng ngoại khi hướng nội đã đến giai đoạn chín muổi. Với Việt Nam, việc lựa chọn một chiến lược phát triển tổng hợp sẽ là hợp lí hơn cả. Điều này có thể lí giải như sau: - Đối với loại chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế: đó là loại chiến lược hướng về xuất khẩu ở trình độ sơ đẳng và được đánh giá là chiến lược “bán rẻ tài nguyên”, song nó cũng có những đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội. Với thực tiễn còn kém phát triển, trong khi nguồn tài nguyên khá dồi dào như Việt Nam, nhất là lại đang trong giai đoạn đầu của quá trình CNH -HĐH đất 16
  18. nước hiện nay thì Việt Nam khong thể bỏ qua chiến lược này. Tuy “bán rẻ tài nguyên” nhưng đây sẽ là điểm nhất bổ trợ cho giai đoạn sau của phát triển với việc tạo ra ngoại tệ, tăng nguồn thu cho đất nước, cộng thêm những kinh nghiệm khi tham gia vào thị trườ ng thế giới thông qua xuất khẩu. Thực tế những năm qua, sản phẩm thô và sơ chế là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, chiếm tới 70-80% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nước. Nhưng đã đến lúc Việt Nam cần xem xét lại cơ cấu xuất khẩu của mình, không nên tập trung, nhưng cũng không nên xem nhẹ chiến lược này. Điều cốt yếu là đưa ra được mức độ, cơ cấu mặt hàng hợp lí nhất cho xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế. Vấn đề này chúng ta sẽ đề cập đến ở phần III. - Về loại chiến lược thay thế nhập khẩu: cần phải nhận thấy rằng, tự bản thân chiến lược này không phải là chiến lược tiêu cực, bế tắc mà ngược lại, nó hoàn toàn có tác dụng tích cực đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế nếu biết vận dụng 1 cách sáng tạo, linh hoạt. Đặc biệt là qua bài học kinh nghiệm của các nước NIES châu á càng khẳng định tính tất yếu phải thực hiện nó trong quá trình phát triển. Việt Nam với trình độ sản xuất nhìn chung còn lạc hậu, vì vậy không thể hướng ngoại mạnh mẽ ngay được mà nhất thiết cần có 1 giai đoạn “khép hờ hờ” ở 1 số ngành nghề, lĩnh vực còn yếu kém với thời gian và mức độ hợp lí đủ cho sản xuất trong nước có thể đương đầu được với các hàng hoá quốc tế với sức cạnh tranh cao. Điều cần tránh nhất với Việt Nam khi sử dụng chiến lược này là việc bảo hộ của chính phủ về quá sâu, dễ tạo cho các doanh nghiệp trong nước tính ỷ lại, dựa dẫm, từ đó mà đi ngược lại với yêu cầu của chiến lược hướng ngoại. Một khó khăn nữa là thời hạn cắt giảm thuế quan của AFTA mà Việt Nam tham gia không còn xa, nên thời gian tới mức độ thực thi chiến lược này sẽ càng phải hợp lí hơn nữa để đảm bảo sao cho vừa phục vụ được mục đích của sản xuất trong nước, vừa không vi phạm quy trình cắt giảm thuế quan chung. 17
  19. - Với mô hình chiến lược hướng vào xuất khẩu: Chiến lược này tuy mới xuất hiện từ những năm 60 đến nay và có những giới hạn nhất định nhưng đã được thực tiễn phát triển của nhiều nước khẳng định là mang lại thành công hơn cả. Chiến lược này vừa phù hợp với quy luật của lợi thế so sánh vừa phù hợp với xu thế hoà nhập, mở cửa hiện nay, do vậy, với Việt Nam, đây sẽ là sự lựa chọn trọng tâm trong thời gian tới. Tuy nhiên, với những hạn chế của Việt Nam như đã nêu thì hướng ngoại không thể thành công được nếu không có sự hỗ trợ đắc lực của 2 chiến lược kia. Một sự kết hợp hài hoà giữa 3 chiến l ược tạo ra một chiến lược tổng hợp phù hợp nhất cho thực tiễn Việt Nam, và tình hình thế giới sẽ là mấu chốt cho kinh tế Việt Nam phát triển. Thực tiễn hoạt động của ngoại thương Việt Nam hiện nay cho thấy rằng chúng ta đang theo đuổi chiến lược phát triển tổng hợp này, tuy nhiên, mức độ sử dụng và kết quả đạt được chưa cao. Sự hạn chế này là do chúng ta chưa hội đủ các điều kiện cần thiết và chưa tạo được môi trường thuận lợi cho chiến lược phát huy tác dụng ở mức độ cao nhất. Thời gian tới, Việt Nam cần x ác định tiếp tục theo đuổi chiến lược phát triển tổng hợp với trọng tâm là ưu tiên cho chiến lược hướng ngoại. Với hướng đi này, cộng thêm các chính sách hỗ trợ thích đáng, hợp lí từ phía chính phủ, chiến lược này sẽ phát huy tác dụng một cách cao nhất. III-/ Vai trò của ngoại thƣơng với phát triển kinh tế: Tromg cơ chế mở, ngoại thương giữ vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Điều này được thể hiện qua 3 tác động cơ bản sau của ngoại thương: 1-/ Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng CNH, HĐH: Những nhân tố cơ bản tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một đất nước đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật và các quan hệ hợp tác quốc tế về đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chính ngoại thương là chủ thể tác động trực tiếp , sâu sắc tới 18
  20. những nhân tố này, từ đó thúc đẩy các nhân tó phát triển không ngừng và kết quả là cơ cấu kinh tế cũng không ngừng được chuyển dịch, tạo ra một cơ c ấu kinh tế năng động, phù hợp và ngày càng hoàn thiện theo hướng CNH, HĐH. - Sự tác động của ngoại thương đến phát triển lực lượng sản xuất được thể hiện qua việc chuyên môn hoá sản xuất và phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội càng cao, chu yên môn hoá càng sâu sắc, cũng có nghĩa là lực lượng sản xuất càng phát triển. Ngoại thương với quy luật chi phối là lợi thế cạnh tranh đã đã hướng các hoạt động sản xuất đi vào chuyên sâu trong việc sản xuất ra các hàng hoá, dịch vụ. Các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao nhất sẽ được các nước tập trung sản xuất, với các sản phẩm bất lợi họ sẵn sàng nhập khẩu từ các nước khác và dành việc sản xuất chúng cho những nước có điều kiện thuận lợi hơn. Sự phân công lao động quốc tế từ đâu nảy sinh và không ngừng tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hiện đại. Như đã đề cập, phân công lao động quốc tế là điều kiện tiên quyết để phát triển ngoại thương. Điều này đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất đang diễn ra đồng bộ ở tất cả các quốc gia và hầu hết các lĩnh vực khác nhau của quan hệ kinh tế quốc tế. Thông qua cầu nối thương mại quốc tế, các nước dù ở trình độ phát triển khác nhau đều có thể thực hiện sự hợp tác, phân công lao động quốc tế chặt chẽ theo hướng chuyên môn hoá ngày càng sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của hoạt động sản xuất kinh doanh về cùng một loại sản phẩm hay nhiều loại sản phẩm, nhiều chi tiết sản phẩm khác nhau... từ đó, các ngành, lĩnh vực sản xuất của từng nước không ngừng được cơ cấu lại theo yêu cầu của chuyên môn hoá và dần tiêns tới một cơ cấu ngày càng hiện đại. - Với vấn đề hợp tác quốc tế về đầu tư và thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, ngoại thương cũng có quan hệ chặt chẽ, là yếu tố chi phối quan hệ hợp tác này. Thông thường, bất kỳ một nước nào trước khi quyết định cần hợp tác về đầu tư với ai, trong lĩnh vực kinh doanh nào đều phải căn cứ vào các mục tiêu 19
nguon tai.lieu . vn