- Trang Chủ
- Khoa học xã hội
- Đề tài: Hình thức và nội dung của hợp đồng dân sự theo qui định của pháp luật hiện hành – Nhận thức và kiến nghị
Xem mẫu
- Đề tài:
Hình thức và nội dung của hợp
đồng dân sự theo qui định của
pháp luật hiện hành
Nhận thức và kiến nghị
Giảng viên hướng dẫn : ....................................
Sinh viên thực hiện : ....................................
Lớp : ....................................
- MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................................. 3
Em xin chân thành cảm ơn ! .......................................................................................................... 3
NỘI DUNG .................................................................................................................................. 4
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM HỢP ĐỒNG DÂN SỰ ................................................................. 4
1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự................................................................................................... 4
1.2. Đặc điểm của hợp đồng dân sự ............................................................................................. 4
II. HÌNH THỨC VÀ NỘI DUNG CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH ........................................................................................................ 6
2.1. Hình thức của hợp đồng dân sự ............................................................................................ 6
2.2. Nội dung của hợp đồng dân sự ........................................................................................... 10
III. NHẬN THỨC VÀ KIẾN NGHỊ ......................................................................................... 15
1. Hình thức hợp đồng .............................................................................................................. 15
2.2. Nội dung hợp đồng dân sự ................................................................................................. 20
III. KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 22
- LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, cũng như trong cuộc sống hàng ngày
một yếu tố không thể thiếu được là phải có giao lưu dân sự, đó là sự chuyển giao tài
sản, quyền tài sản hoặc thực hiện một dịch vụ nào đó giữa người này với người
khác, giữa tổ chức này với tổ chức khác, giữa pháp nhân này với pháp nhân khác.
Sự giao lưu dân sự đó thường được hình thành thông qua sự thỏa thuận giữa các
bên, trên cơ sở đó pháp luật buộc các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đó. Sự
thỏa thuận đó gọi là hợp đồng.
Điều 388 Bộ luật dân sự 2005 quy định “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự”.
Như vậy, cơ sở đầu tiên để hình thành một hợp đồng dân sự là việc thỏa thuận bằng
ý chí tự nguyện của các bên. Tuy nhiên hợp đồng chỉ được pháp luật công nhận và
bảo vệ khi ý chí các bên phù hợp với quy định của nhà nước, trong đó có các quy
định về hình thức và nội dung của hợp đồng. Với mục đích đi sâu tìm hiểu về các
quy định của pháp luật về hình thức và nội dung của hợp đồng dân sự, em xin lựa
chọn đề tài: “ Hình thức và nội dung của hợp đồng dân sự theo qui định của pháp
luật hiện hành – Nhận thức và kiến nghị ”.
Trong quá trình làm bài em đã cố gắng nhiều, song với trình độ hiểu biết vấn
đề còn hạn chế nên bài viết khó thể tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy, em rất
mong có thể nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía thầy cô cũng như các bạn để bài
làm của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
- NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự
Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức phải tham gia
nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau. Trong đó, việc các bên thiết lập với nhau
những quan hệ, để qua đó chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhằm đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, đóng một vai trò quan trọng, là một tất yếu đối với mọi
đời sống xã hội. Tuy nhiên việc chuyển giao các lợi ích vật chất đó không phải là tự
nhiên hình thành bởi tài sản, chúng không thể tự tìm tới nhau để thiết lập các quan
hệ. Các quan hệ tài sản chỉ được hình thành từ những hành vi có ý chí của các chủ
thể. Nếu chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình mà không được bên kia chấp nhận
cũng không thể hình thành một quan hệ để qua đó thực hiện việc chuyển giao tài sản
hoặc làm một công việc đối với nhau được. Do đó chỉ khi nào có sự thể hiện và
thống nhất ý chí giữa các bên thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới được hình
thành. Quan hệ đó được gọi là hợp đồng dân sự.
Như vậy, hợp đồng dân sự chính là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên
tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận c ùng nhau làm phát sinh các
quyền và nghĩa vụ nhất định. Dưới góc độ pháp lý thì hợp đồng dân sự được hiểu là
sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự (theo Điều 388 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005). Hợp đồng dân sự là một
bộ phận các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể
với nhau. Trên cơ sở định nghĩa về hợp đồng dân sự ta rút ra được các đặc điểm của
hợp đồng dân sự.
1.2. Đặc điểm của hợp đồng dân sự
Theo Điều 388 Bộ luật dân sự 2005 định nghĩa về hợp đồng dân sự thì hợp
đồng dân sự có hai nét cơ bản đó là : Sự thỏa thuận giữa các bên và làm phát sinh
hậu quả pháp lý.
- Hợp đồng dân sự trước hết phải là một thỏa thuận có nghĩa là hợp đồng phải
chứa đựng yếu tố tự nguyện khi giao kết nó phải có sự trùng hợp ý chí của các bên.
Việc giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo các nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng,
thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng, tự do giao kết hợp đồng, nhưng không
được trái với pháp luật và đạo đức xã hội.
Thỏa thuận theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là: Đi tới sự đồng ý sau khi cân
nhắc, thảo luận. Thỏa thuận cũng có nghĩa là sự nhất trí chung (không bắt buộc phải
được nhất trí hoàn toàn) được thể hiện ở chỗ không có một ý kiến đối lập của bất cứ
một bộ phận nào trong số các bên liên quan đối với những vấn đề quan trọng và thể
hiện thông qua một quá trình mà mọi quan điểm của các bên liên quan đều phải
được xem xét và dung hoà được tất cả các tranh chấp; là việc các bên (cá nhân hay
tổ chức) có ý định chung tự nguyện c ùng nhau thực hiện những nghĩa vụ mà họ đã
cùng nhau chấp nhận vì lợi ích của các bên. Sự đồng tình tự nguyện này có thể chỉ
được tuyên bố miệng và được gọi là thoả thuận quân tử (hợp đồng quân tử) hay
được viết thành văn bản gọi là hợp đồng viết hay hợp đồng thành văn. Tuỳ theo từng
trường hợp được gọi là hợp đồng hay hiệp định; vd. hiệp định mua bán, hợp đồng
đại lí.
Yếu tố thỏa thuận đã bao hàm trong nó yếu tố tự nguyện, tự định đoạt và sự
thống nhất về mặt ý chí. Đây là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự đặc trưng của hợp
đồng so với các giao dịch dân sự khác, đây cũng là yếu tố làm nên bản chất của luật
dân sự so với các ngành luật khác.
Về chủ thể tham gia hợp đồng dân sự : Chủ thể giao kết, thực hiện hợp đồng
dân sự phải có ít nhất từ hai bên trở lên, vì hợp đồng dân sự là một giao dịch pháp
lý song phương hay đa phương. Các chủ thể khi giao kết, thực hiện hợp đồng đều
phải có tư cách chủ thể tức là phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp
luật đối với một chủ thể của quan hệ dân sự (ví dụ: nếu chủ thể là cá nhân thì phải
đáp ứng được các yêu cầu về năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự…).
Mục đích hướng tới của các bên khi tham gia hợp đồng là để xác lập thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Quyền và nghĩa vụ trong phạm vi hợp đồng
có phạm vi rất rộng, trước đây trong Pháp lệnh hợp đồng dân sự ngày 29-4-1991
- (Điều 1) quy định hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập,
thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay,
mượn, tặng, cho tài sản, làm một hoặc không làm công việc, dịch vụ hoặc các thỏa
thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu
dùng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì không liệt kê cụ thể các quyền và
nghĩa vụ dân sự cụ thể đó tuy nhiên về bản chất thì các quyền và nghĩa vụ mà các
bên hướng tới khi giao kết, thực hiện hợp đồng là những quyền và nghĩa vụ để đáp
ứng, thỏa mãn nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng, đó cũng chính là một trong những
đặc điểm cơ bản để phân biệt giữa hợp đồng dân sự và các hợp đồng kinh tế, thương
mại.
Yếu tố này giúp phân biệt hợp đồng dân sự với hợp đồng kinh tế :
Mục đích của hợp đồng kinh tế khi các bên chủ thể tham gia là mục đích kinh
doanh (nhằm phát sinh lợi nhuận) trong khi đó hợp đồng dân sự các bên tham
gia nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng.
Chủ thể tham gia hợp đồng kinh tế phải là các thương nhân, các công ty, đơn
vị kinh doanh (nếu chủ thể là cá nhân thì phải có đăng ký kinh doanh).
II. HÌNH THỨC VÀ NỘI DUNG CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ THEO QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
2.1. Hình thức của hợp đồng dân sự
Hình thức của hợp đồng dân sự là phương tiện để ghi nhận, lưu trữ, truyền tải
nội dung của hợp đồng. Đó là phương diện để ghi nhận lại các điều khoản mà các
bên đã cùng nhau thống nhất cam kết. Tuy thuộc vào nội dung, tính chất của từng
hợp đồng cũng như tùy thuộc vào độ tin tưởng lẫn nhau mà các bên có thể lựa chọn
một hình thức nhất định trong việc giao kết hợp đồng cho phù hợp với từng trường
hợp cụ thể.
Để đảm bảo được tính thống nhất và mối quan hệ liên thông, bổ trợ lẫn nhau
trong hệ thống các quy định pháp luật về hợp đồng, chế định hợp đồng trong Bộ luật
Dân sự 2005 được xây dựng theo hướng là nền tảng chung cho pháp luật về hợp
- đồng, có hiệu lực điều chỉnh đối với tất cả các quan hệ hợp đồng trong mọi lĩnh vực.
Về hình thức hợp đồng, Điều 401 Bộ luật Dân sự 2005 quy định :
“1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc
bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định đối với loại hợp đồng đó phải
được giao kết bằng một hình thức nhất định.
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng
văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc phải xin phép th ì phải
tuân theo các quy định đó.
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ
trường hợp có quy định khác.
Và tại khoản 1 Điều 124 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
“Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng h ành vi cụ
thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu
được coi là giao dịch bằng văn bản".
Vì hợp đồng cũng là một loại giao dịch dân sự, nên theo các quy định nêu trên
có thể thấy, hình thức của hợp đồng bao gồm các loại sau: bằng lời nói, bằng văn
bản, bằng hành vi cụ thể và bằng thông điệp dữ liệu (hợp đồng điện tử). Như vậy, so
với quy định của Bộ luật Dân sự 1995, quy định về hình thức của hợp đồng trong
Bộ luật Dân sự 2005 được bổ sung thêm một hình thức mới: hình thức thông điệp
dữ liệu.
Như vậy, hình thức của hợp đồng dân sự tương đối đa dạng tạo điều kiện cho
các chủ thể ký kết thuận tiện. Đối với những hợp đồng dân sự mà pháp luật đã quy
định buộc phải giao kết theo một hình thức nhất định, thì các bên phải tuân theo các
hình thức đó.
- Hình thức miệng:
Thông qua hình thức bằng lời nói, các bên chỉ cần thỏa thuận miệng với nhau
về nội dung cơ bản của hợp đồng. Hình thức miệng được coi là có độ xác thực thấp
- nhất. Khi có tranh chấp giữa các bên về một hợp đồng đã được giao kết miệng với
nhau, bất cứ bên nào cũng có thể phủ nhận tất cả những cam kết trước đây của mình.
Tuy nhiên, đối với tất cả các quốc gia trên thế giới thì hình thức miệng vẫn được coi
là hình thức hợp đồng có lịch sử lâu đời và được áp dụng phổ biến nhất trong các
giao dịch dân sự. Trước đây điều đó được lý giải là do số lượng những người biết
đọc, biết viết còn rất ít. Ngày nay, hình thức miệng vẫn giữ nguyên được vai trò to
lớn của nó. Các trường hợp cơ bản phổ biến áp dụng hình thức miệng là:
Thứ nhất, hình thức miệng được áp dụng trong những trường hợp các bên
tham gia giao kết hợp đồng đã có độ tin cậy lẫn nhau. Độ tin cậy giữa các chủ thể
thường được xác lập thông qua các quan hệ ruột thịt, quan hệ hàng xóm láng giềng,
quan hệ bạn bè, đồng nghiệp, cùng học tập … Sự tin tưởng giữa các chủ thể ở đây
đóng vai trò như là một nhân tố chủ quan bổ xung thêm cho sự xác thực của hình
thức miệng. Trong nhiều trường hợp do thiếu độ tin cậy nên các chủ thể không thể
áp dụng được hình thức miệng.
Thứ hai, hình thức miệng được áp dụng với những hợp đồng có giá trị nhỏ.
Đối với những hợp đồng có giá trị quá nhỏ ( ví dụ: mua mớ rau, bao diêm, mượn cái
bút chì,…) thì các bên không có cách nào khác ngoài cách áp d ụng hình thức miệng,
nếu áp dụng các hình thức khác sẽ có thể tạo nên những chi phí quá lớn, mà giá tr ị
hợp đồng quá nhỏ nên các chi phí đó làm cho việc ký kết hợp đồng trở nên vô nghĩa.
Thứ ba, hình thức miệng được áp dụng đối với những hợp đồng mà có thể
được thực hiện và chấm dứt ngay sau khi giao kết. Ví dụ như đa số các hợp đồng
bán lẻ đều được thực hiện dưới hình thức miệng. Sau khi thỏa thuận miệng xong về
giá cả, số lượng và chất lượng …thì hai bên thực hiện ngay thỏa thuận đó ( bên bán
cân đong và bàn giao hàng, bên mua nhận lấy hàng và trả tiền ). Đến đây hợp đồng
coi như đã thực hiện xong và chấm dứt.
- Hình thức văn bản
Các bên có thể ký kết hợp đồng dưới hình thức cùng nhau lập một văn bản
viết. Hình thức hợp đồng bằng văn bản mang tính xác thực hơn so với hình thức hợp
đồng miệng. Trong văn bản đó các bên ghi đầy đủ những nội dung đã thỏa thuận,
- cùng ký tên xác nhận vào văn bản. Văn bản hợp đồng thường được soạn thành hai
hay nhiều bản gốc giông nhau, đều phải có chữ ký của các bên, mỗi bên được giữ
một bản. Căn cứ vào văn bản của hợp đồng, các bên dễ dàng thực hiện quyền yêu
cầu của mình đối với bên kia. Các trường hợp cơ bản áp dụng hình thức văn bản này
là :
+) Đối với những hợp đồng có giá trị lớn.
+) Đối với những hợp đồng mà việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ hợp đồng
có thể diễn ra trong một thời gian dài không cùng lúc với việc giao kết (ví dụ :
hợp đồng gia công xây dựng nhà…)
+) Khi giữa các bên chưa đật được sự tin cậy nhất định.
Đối với riêng dạng hợp đồng bằng văn bản thì Điều 401 khoản 2 Bộ luật dân
sự quy định: “Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện
bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc phải xin phép th ì
phải tuân theo các quy định đó”. Thông qua chỉ dẫn này ta thấy rằng hợp đồng bằng
văn bản được chia tiếp ra làm hai loại là : hợp đồng bằng văn bản thông thường và
hợp đồng bằng văn bản có chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc chứng thực
của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Hợp đồng bằng văn bản có chứng nhận,
chứng thực được coi là hình thức mang tính xác thực cao nhất và thường được pháp
luật quy định đối với các trường hợp như đối với các hợp đồng có tính chất phức
tạp, dễ xảy ra tranh chấp hoặc với hợp đồng có đối tượng là những tài sản mà nhà
nước cần phải quản lý, kiểm soát. Những trường hợp đó được quy định cụ thể cho
từng loại hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, trong trường hợp pháp luật không có quy
định thì các bên vẫn có thể thỏa thuận với nhau áp dụng hình thức văn bản có chứng
nhận, chứng thực đó để giao kết hợp đồng. Tuy nhiên nếu có vi phạm về hình thức
thì cũng không bị coi là vô hiệu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Hình thức hành vi cụ thể. Ví dụ như: hợp đồng tặng cho tài sản như việc
bỏ tiền vào hòm công đức, như người tiêu dùng mua nước tại các máy bán nước tự
động, hợp đồng được coi là ký kết khi người tiêu dùng thả tiền vào máy tự động và
thực hiện một số các động tác cần thiết để nhận chai nước. Đối với hình thức này thì
- chỉ cần các bên thực hiện một hoặc một vài (không bắt buộc phải tất cả) hành vi là
nghĩa vụ của hợp đồng thì hợp đồng đã được coi là giao kết.
- Hình thức bằng thông điệp dữ liệu (hợp đồng điện tử): Ngày nay, cùng với
sự phát triển của công nghệ thông tin, việc giao kết hợp đồng dưới hình thức văn
bản giấy không còn là hình thức thích hợp khi các bên có khoảng cách xa về mặt địa
lý. Chủ thể ở một quốc gia này có thể ký kết hợp đồng với chủ thể của một quốc gia
khác mà không phải đi đến tận nơi gặp nhau trực tiếp để thương thảo hợp đồng.
Thông qua mạng Internet, các doanh nghiệp ở các địa phương khác nhau, ở các quốc
gia khác nhau có thể nhanh chóng tìm kiếm được bạn hàng để thiết lập mối quan hệ
làm ăn, mở rộng thị trường. Với chiếc máy tính nối mạng Internet, ngồi ở nhà chúng
ta có thể dạo quanh thị trường một cách thoải mái vào bất cứ thời điểm nào trong
ngày. Khi cần mua một món hàng, chúng ta chỉ cần liên lạc với cửa hàng qua hệ
thống mạng, sau đó sẽ có người mang món hàng đó đến tận nơi theo yêu cầu. Sự
phát triển mạnh mẽ của giao dịch điện tử kéo theo sự ra đời một hình thức hợp đồng
mới: hợp đồng điện tử- hợp đồng được giao kết thông qua phương tiện điện tử.
2.2. Nội dung của hợp đồng dân sự
Nội dung của hợp đồng dân sự là tổng hợp các điều khoản mà các bên tham
gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận. Các điều khoản đó xác định những quyền và
nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên trong hợp đồng.
Để nhận biết được một hợp đồng và để pháp luật công nhận hợp đồng đó th ì
các bên phải thoải thuận được với nhau về một số nội dung quan trọng nhất định.
Vấn đề đặt ra là: Liệu các bên thỏa thuận đến đâu thì hợp đồng coi như được hình
thành (được coi là giao kết) ? Pháp luật không thể quy định cứng nhắc rằng mỗi hợp
đồng có bao nhiêu điều khoản. Điều đó phụ thuộc vào tính chất của từng hợp đồng
cụ thể. Tuy nhiên, các điều khoản trong nội dung hợp đồng được chia làm ba loại đó
là : Điều khoản cơ bản; Điều khoản thông thường; Điều khoản tùy nghi.
- Điều khoản cơ bản
Các điều khoản cơ bản là những điều khoản mà nếu thiếu chúng thì hợp đồng
không thể được coi là đã giao kết. Điều khoản cơ bản có thể do tính chất của từng
hợp đồng quyết định, ngoài ra còn bao gồm cả những điều khoản mà các bên tự cảm
- thấy cần thiết quy định với nhau là là các điều khoản cơ bản. Tính chất “cơ bản” thể
hiện rằng chúng nêu lên bản chất của loại hợp đồng đó, không có chúng thì hợp
đồng không được sếp vào loại này hay loại khác. Ví dụ: Đa số các tài liệu pháp lý
đều cho rằng đối với hợp đồng mua bán thì điều khoản cơ bản bao gồm đối tượng và
giá cả (Mua gì? Giá bao nhiêu?). Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng trong thực
tế nếu như các bên không thỏa thuận về giá cả thì có thể áp dụng giá trung bình của
thị trường tại thời đó. Chỉ đối với tài sản không có giá cả chung trên thị trường (cổ
vật, tranh vẽ, bất động sản,…) thì giá cả là điều khoản cơ bản. Trong hợp đồng bảo
hiểm thì các điều khoản cơ bản bao gồm đối tượng được bảo hiểm, sự kiện bảo
hiểm, giá trị bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm…
Các điều khoản cơ bản được quy định tại các văn bản pháp luật. Tổng hợp các
điều khoản cơ bản tạo thành nội dung chủ yếu của hợp đồng. Bên cạnh những điều
khoản cơ bản do pháp luật quy định còn có những điều khoản mà được coi là cơ bản
theo đề nghị của một trong những bên ký kết hợp đồng.
- Điều khoản thông thường
Các điều khoản thông thường là những điều khoản được pháp luật quy định
trước. Nều khi giao kết hợp đồng, các bên không thỏa thuận những điều khoản này,
thì vẫn được coi như hai bên đã mặc nhiên thỏa thuận và được thực hiện như pháp
luật đã quy định. Khác với điều khoản cơ bản, các điều khoản thông thường không
làm ảnh hưởng tới quá trình giao kết hợp đồng. Để giảm bớt những công việc không
cần thiết trong giao kết hợp đồng, các bên có thể không cần thỏa thuận và không cần
ghi vào văn bản hợp đồng những điều khoản mà pháp luật quy định nhưng các bên
vẫn phải thực hiện các điều khoản đó. V ì vậy, nếu có tranh chấp về những nội dung
này , thì quy định của pháp luật sẽ là căn cứ để xác định quyền và nghĩa vụ của các
bên trong hợp đồng. Ví dụ: Địa điểm giao tài sản động sản (đối tượng của hợp đồng
mua bán) là nơi cư trú của người mua nếu người mua đã trả tiền và trong hợp đồng
các bên không thỏa thuận về địa điểm giao tài sản.
- Điều khoản tùy nghi
Ngoài những điều khoản phải thỏa thuận về tính chất của hợp đồng và những
điều khoản mà pháp luật đã quy định trước, khi giao kết hợp đồng các bên còn có
- thế thỏa thuận để xác định thêm một số điều khoản khác nhằm làm cho nội dung của
hợp đồng được cụ thể hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong quá trình thực
hiện hợp đồng. các điều khoản này được gọi là điều khoản tùy nghi.
Điều khoản tùy nghi là những điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp
đồng tự ý lựa chọn và thỏa thuận vơi nhau để xác định quyền và nghĩa vụ dân sự của
các bên. Thông qua điều khoản tùy nghi, bên có nghĩa vụ được phép lựa chọn một
trong những cách thức nhất định để thực hiện hợp đồng, sao cho thuận lợi mà vẫn
bảo đảm được quyền yêu cầu của bên kia.
Như vậy, một điều khoản trong nội dung của hợp đồng có thể là điều khoản
cơ bản, có thể là điều khoản thông thường nhưng cũng có thể là điều khoản tùy nghi.
Chẳng hạn địa điểm giao vật trong hợp đồng mua bán tài sản sẽ là điều khoản cơ
bản, nếu khi giao kết, các bên đã thỏa thuận cụ thể về nơi giao vật. Ngược lại, nó sẽ
là điều khoản thông thường nếu các bên không thỏa thuận mà mặc nhiên thừa nhận
và thực hiện theo quy định của pháp luật. Mặt khác, địa điểm trong hợp đồng mua
bán sẽ là điều khoản tùy nghi nếu các bên đã thỏa thuận cho phép bên có nghĩa vụ
được lựa chọn một trong nhiều nơi để thực hiện nghĩa vụ giao vật.
Dựa vào tính chất của các điều khoản tùy nghi, người ta có thể phân chúng
thành hai loại khác nhau: tùy nghi ngoài pháp luật và tùy nghi khác pháp luật.
Điều 402 Bộ luật dân sự 2005 quy định : “Tùy theo từng loại hợp đồng, các
bên có thể thỏa thuận về những nội dung sau đây:
1. Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc
không được làm;
2. Số lượng, chất lượng;
3. Giá, phương thức thanh toán;
4. Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
5. Quyền, nghĩa vụ của các bên;
6. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
7. Phạt vi phạm hợp đồng;
8. Các nội dung khác.”
- Tùy theo tính chất của từng loại hợp đồng các bên có thể thỏa thuận hay
không thỏa thuận tất cả các điêu ghi trên. Các bên cũng có thể bổ sung thêm vào hợp
đồng những điều khoản không có quy định nhưng các bên cảm thấy cần thiết.
Đối với mọi loại hợp đồng thì điều khoản về đối tượng hợp đồng bao giờ
cũng được coi là điều khoản cơ bản. Hợp đồng không thể được coi là đã ký kết nếu
như trong đó chưa xác định rõ đối tượng của hợp đồng. Ví dụ như chưa thể coi là ký
kết hợp đồng mua bán nếu như giữa bên bán và bên mua chưa đạt được thỏa thuận
về vật gì cụ thể sẽ bán cho người mua. Hợp đồng ủy quyền chưa thể được coi là ký
kết nếu như các bên chưa xác định rõ bên được ủy quyền phải thực hiện những công
việc gì nhân danh bên ủy quyền. Tùy theo từng loại hợp đồng mà đối tượng có thể là
một tài sản phải chuyển giao hay một công việc phải thực hiện. Nếu đối t ượng của
hợp đồng là tài sản thì tài sản đó phải được phép giao dịch. Nếu đối tượng của hợp
đồng là công việc phải thực hiện thì công việc đó phải không bị pháp luật cấm.
Một số quan điểm cho rằng khái niệm đối tượng cần phải được hiểu theo
nghĩa rộng bao gồm các thông số cần thiết cho phép các bên xác định được cụ thể
nhất về tài sản (công việc hay dịch vụ) là mục đích của các bên đi tới thỏa thuận.
Các chỉ số đó bao gồm: tên gọi, chất lượng, số lượng, các chỉ số phân loại hoặc chỉ
số kỹ thuật (nếu có)… Quan điểm đó cho rằng c ùng một sản phẩm, nhưng với hai
nhóm chất lượng khác nhau, thì đó là hai đối tượng khác nhau. Ví dụ: Gạo loại 1
phân biệt với gạo loại 2, xe ôtô mới xuất xưởng phân biệt với xe ôtô đã qua sử dụng.
Nếu theo quan điểm đó thì cần thiết phải gộp chung Điều 402 khoản 1 và khoản 2
năm 2005 vào một khoản duy nhất.
Số lượng đóng vai trò rất quan trọng trong việc xác định đối tượng của hợp
đồng. Ngay bản thân khái niệm đối tượng thường được hiểu theo nghĩa “cái gì và
bao nhiêu”. Trong một số hợp đồng điều khoản về số lượng tưởng như không được
nhắc tới, ví dụ như hợp đồng cung cấp năng lượng điện cho người tiêu dùng, người
tiêu dùng có quyền tiêu thụ lượng điện cần thiết cho riêng mình. Nhưng xét kỹ về
thực chất thì không phải như vậy, vì giá thành trong hợp đồng được dự liệu trước
cho từng khoảng số lượng điện năng tiêu thụ, sau đó khoản tiền điện năng thanh
toán sẽ được cụ thể hóa theo chỉ số tiêu thụ thực tế. Nếu bên tiêu thụ điện dự trù sẽ
- tiêu thụ một lượng điện gấp nhiều lần so với mức bình quân của người tiêu dùng, để
nhằm mục đích sản xuất, thì các bên sẽ ký kết với nhau hợp đồng với mục đíc h sử
dụng khác đi và cũng với giá thành khác hẳn.
Yêu cầu về chất lượng thường do các bên thỏa thuận. Trong một số loại hợp
đồng, chất lượng được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và giám sát.
Ví dụ như để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng thì các mặt hàng sinh hoạt dân
dụng như thực phẩm, thuốc men, đồ dùng điện,…phải được đăng ký chất lượng,
đảm bảo mọi yêu cầu về độ an toàn, yêu cầu vệ sinh.
Thời hạn của hợp đồng thường được coi là yếu tố quan trọng của hợp đồng.
Thời hạn xác định khoảng thời gian tồn tại của chính hợp đồng, khoảng thời gian mà
các bên phải thực hiện cho nhau các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng. Thời hạn
được xác định bằng hai cách chính: bằng thời điểm cụ thể theo lịch (thứ mấy, ngày
nào của tháng nào năm nào, vào lúc mấy giờ…) và bằng phương pháp tính khoảng
độ dài thời gian (bao nhiêu ngày, bao nhiêu tháng, mấy tuần, thậm chí mấy giờ).
Thời hạn chung của hợp đồng đ ược xác định một cách gián tiếp thông qua
thời hạn thực hiện những nghĩa vụ của hợp đồng. Ví dụ: Thời hạn của hợp đồng gửi
giữ được tính là khoảng thời gian từ khi bên gửi giữ giao tài sản cho bên nhận gửi
giữ, kết thúc tại thời điểm bên gửi giữ lấy lại tài sản và thanh toán tiền. Ngoài thời
hạn chung xác định hiệu lực của hợp đồng thì bất mỗi việc thực hiện nghĩa vụ bất kỳ
trong hợp đồng đều có thể được quy định thời hạn riêng cho nó. Ví dụ như thời hạn
bàn giao vật, thời hạn thanh toán, thời hạn vận chuyển, thời hạn gửi giữ lưu kho,
thời hạn thầu xây dựng… Mọi vi phạm thời hạn quy định (nhanh hơn hay chậm hơn,
sớm hơn hay muộn hơn) mà không được sự thống nhất của các bên thì đều được coi
là vi phạm hợp đồng.
Trong quan hệ nghĩa vụ, quyền của một bên tương ứng với nghĩa vụ của bên
kia. Do vậy, cùng một thời hạn nhưng đối với một bên của hợp đồng làm phát sinh
quyền, nhưng đối với bên kia lại làm phát sinh nghĩa vụ. Ví dụ như thời hạn cho vay
làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ đối với bên vay, đồng thời phát sinh quyền đòi của bên
cho vay. Trong một số trường hợp thì yếu tố thời hạn ảnh hưởng trực tiếp tới các
yếu tố khác của hợp đồng. Ví dụ như điều 492 BLDS năm 2005 quy định cho hợp
- đồng thuê nhà với thời hạn dưới sáu tháng thì được lập dưới dạng văn bản thông
thường, còn trên sáu tháng thì phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc
chứng thực của ủy ban nhân dâ n cấp có thẩm quyền và phải đăng ký tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Giá cả của hợp đồng đóng vai trò công cụ chủ yếu để xác định giá trị tương
đương của đối tượng hợp đồng. Ví dụ như trong hợp đồng mua bán thì thông qua
giá bán mới có thể xác định được khoản tiền phải thanh toán cho một số lượng hàng
hóa nhất định. Ngay trong các hợp đồng trao đổi hàng hóa cũng phải dựa vào giá cả
để xác định số lượng hàng trao đổi. Ví dụ như đổi một chiếc ôtô giá 300 triệu lấy 10
chiếc xe máy giá 30 triệu đồng. Giá cả thông thường được các bên tự thỏa thuận
hoặc các bên có thể thỏa thuận giao cho người thứ ba trung gian định giá. Đối với
một số mặt hàng chiến lược hay một số dịch vụ quan trọng thì nhà nước có quy định
các khung giá chuẩn mang tính bắt buộc. Ví dụ như giá bán lẻ xăng dầu, giá cước
vận chuyển và các dịch vụ quan trọng khác. Đối với một số mặt hàng khác thì nhà
nước có tổng kết từ thực tế các khung giá nhằm trợ giúp cho các chủ thể dễ dàng
định hướng khi ký kết hợp đồng. Ví dụ như giá quy đổi ngoại tệ, giá trung bình của
các mặt hàng nhu cầu yếu phẩm trong tháng do kết quả điều tra.
Các bên hoặc thỏa thuận với nhau hoặc giá cả cụ thể, hoặc thỏa thuận phương
pháp để tính giá cho đối tượng của hợp đồng trong thời hạn thực hiện hợp đồng (như
giá có thể xác định theo theo tỷ lệ đối với giá của một mặt hàng chiến lược nào đó
theo quy định tại thời điểm thanh toán).
III. NHẬN THỨC VÀ KIẾN NGHỊ
1. Hình thức hợp đồng
Hợp đồng là sự thoả thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và
nghĩa vụ dân sự giữa các bên. Trong quá trình đàm phán, thương thảo để ký kết hợp
đồng, mỗi chủ thể đều có ý chí của mình. Khi ý chí của các bên có sự trùng hợp thì
coi là có sự thoả thuận và hợp đồng được ký kết. Sự trùng hợp ý chí, hay nói cách
khác sự thoả thuận của các bên được thể hiện bằng những hình thức khác nhau tuỳ
thuộc vào ý chí của họ: có thể bằng lời nói, có thể bằng hành vi và có thể bằng văn
bản. Các hình thức thể hiện ý chí đó được gọi là hình thức của hợp đồng. Theo
- nguyên tắc thì các bên có quyền lựa chọn hình thức thể hiện ý chí của họ và đó được
coi là một trong những nội dung của tự do hợp đồng – tự do lựa chọn hình thức của
hợp đồng. Tuy nhiên, trên thực tế khi giao kết hợp đồng thì hình thức hợp đồng
phần nào đó bị tác động bởi yếu tố về đặc điểm hợp đồng giao kết như thế nào ? Và
quy định của pháp luật về loại hợp đồng đó ra làm sao ? chẳng hạn như nếu chúng ta
ra chợ mua một mớ rau thì không ai lại đi lập hợp đồng bằng văn bản, rồi công
chứng hay chứng thực và chúng ta không thể thỏa thuận bằng lời nói để mua, bán đi
một căn nhà, hay chuyển quyền sử dụng đất, bởi theo quy định của pháp luật thì các
loại hợp đồng này phải được lập thành văn bản và được công chứng hoặc chứng
thực. Nếu như không thực hiện công chứng hoặc chứng thực các hợp đồng loại này
thì hợp đồng không được công nhận, và không có hiệu lực. Như vậy, tùy từng
trường hợp điều kiện, hoàn cảnh, giá trị, sự phức tạp của hợp đồng mà các bên lựa
chọn hình thức phù hợp.
Đối với hình thức hợp đồng chúng ta cần lưu ý tới hai vấn đề đó là: Hình thức
hợp đồng là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực ?(hình thức văn bản) và hình thức
bằng thông điệp dữ liệu, điểm mới trong bộ Luật dân sự 2005.
Thứ nhất, đối với vấn đề hình thức hợp đồng là điều kiện hợp đồng có hiệu
lực thì Điều 134 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Trong các trường hợp pháp
luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà
các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một bên, tòa án, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao
dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó m à không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”.
Như vậy, theo quy định trên ta thấy rằng hình thức hợp đồng là một điều kiện bắt
buộc để giao dịch có hiệu lực trong những trường hợp cần thiết, và nếu hợp đồng
không tuân thủ hình thức luật định thì có thể bị tuyên bố vô hiệu. Có những quan
điểm cho rằng với việc quy định như vậy thì nhà nước đã can thiệp quá sâu vào hợp
đồng và xâm phạm nghiêm trọng nguyên tắc tự do hợp đồng, làm cản trở sự phát
triển của các quan hệ pháp luật tư vì đã hạn chế sự tự do ý chí của các bên. Một số
quan điểm khác lại cho rằng, không nên quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực
của giao dịch, thậm chí nên bỏ hẳn các quy định về hình thức. Các quan điểm này có
- vẻ như coi nhẹ hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Việc
coi nhẹ tới mức bỏ hẳn yếu tố hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp trong nhiều
trường hợp có thể dẫn đến việc thiếu cơ chế để bảo vệ quyền lợi của bên yếu hơn
trong quan hệ hợp đồng, thiếu chứng cứ chứng minh tồn tại của hợp đồng, khó có
thể bảo đảm trật tự công cộng cũng như an toàn pháp lý cho các bên và cả người thứ
ba.
Về mối quan hệ giữa hình thức với hiệu lực của hợp đồng được quy định tại
khoản 2 Điều 122 BLDS 2005: “hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực
của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”, Điều 134 BLDS 2005:
“trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu
lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các
bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực
hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà
không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”, khoản 2 Điều 401: “trong trường hợp pháp
luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc
chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó. Hợp
đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác”.
Các quy định nói trên cho thấy, mặc dù pháp luật có quy định một loại hợp
đồng nào đó phải được ký kết bằng văn bản, văn bản có chứng thực, tuy nhiên hợp
đồng sẽ không bị coi là vô hiệu nếu các bên không tuân thủ hình thức, trừ trường
hợp pháp luật có quy định. Pháp luật quy định như vậy, tuy nhiên khi nghiên cứu
các quy định của Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật khác thì không thể tìm
thấy bất kỳ quy định nào, theo đó hợp đồng không tuân thủ hình thức văn bản, văn
bản có chứng thực thì vô hiệu, mà trong nhiều trường hợp pháp luật chỉ quy định
hợp đồng phải được ký kết bằng văn bản. Ví dụ, theo Điều 450 BLDS 2005, hợp
đồng mua bán nhà ở phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, hay theo Điều 492, hợp đồng thuê nhà ở
phải được lập thành văn bản, nếu thời hạn thuê từ sáu tháng trở lên thì phải có công
- chứng hoặc chứng thực và phải đăng ký, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác…
Với cách quy định về hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng trong pháp luật Việt Nam nói chung và BLDS nói riêng là không rõ ràng. Sự
không rõ ràng này được hợp thức hoá bởi Nghị quyết số 01/2003 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao (Nghị quyết số 01/2003). Cụ thể, hợp đồng mua bán
nhà ở không được công chứng và một trong các bên yêu cầu Toà án tuyên bố vô
hiệu, thì Tòa án áp dụng Nghị quyết số 01/2003, sẽ bị tuyên bố vô hiệu, nếu hợp
đồng không được công chứng, chứng thực trong thời hạn một tháng (thời gian có sự
kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan không tính vào thời hạn một tháng
đó) kể từ ngày có Quyết định của Toà án (Quyết định yêu cầu thực hiện công chứng,
chứng thực).
cách giải quyết các tình huống nói trên là quá máy móc và không hợp lý. Bởi
lẽ, thứ nhất, như đã phân tích ở trên, hợp đồng là sự thoả thuận và hình thức của hợp
đồng chỉ là hình thức thể hiện ý chí của các bên ra bên ngoài; thứ hai, rõ ràng hợp
đồng không được công chứng, chứng thực là do một trong các bên không muốn, vậy
thì Quyết định của Toà án cũng không thể thay đổi được ý chí của họ. Mặt khác,
theo quy định của Điều 126 và Điều 409 BLDS 2005, khi hợp đồng có điều khoản
không rõ ràng thì không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào
ý chí chung c ủa các bên để giải thích điều khoản đó. Rõ ràng, ý chí chung c ủa các
bên được đánh giá cao hơn hình thức biểu hiện ra bên ngoài. Ý chí của các bên được
hiểu là ý chí được biểu hiện tại thời điểm ký kết hợp đồng. Trong khi đó, nếu theo
Điều 134 BLDS 2005 và Nghị quyết số 01/2003 thì pháp luật có vẻ như tôn trọng ý
chí được biểu hiện sau thời điểm hợp đồng được ký kết. Điều này có vẻ trái với lý
thuyết về tự do ý chí cũng như nguyên tắc giải thích hợp đồng.
Từ những phân tích trên, ta thấy rằng các quy định của pháp luật Việt Nam
liên quan đến hình thức là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực cần phải được quy định
rõ ràng hơn, cụ thể hơn. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần có sự giải
thích việc áp dụng các quy định về hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
- tương tự án lệ và thực tiễn giải quyết tranh chấp của các nước trên cơ sở nguyên tắc
trung thực thiện chí.
Thứ hai, hình thức bằng thông điệp dữ liệu, một điểm mới trong bộ luật dân
sự 2005. Ngoài 3 hình thức hợp đồng truyền thống: bằng lời nói, bằng văn bản, bằng
hành vi cụ thể, Bộ luật Dân sự 2005 bổ sung thêm một hình thức hợp đồng mới là
hình thức bằng thông điệp dữ liệu (hợp đồng điện tử).
Ở nước ta, nhiều ngành kinh tế quan trọng, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện
giao dịch điện tử trong các hoạt động của mình. Tuy nhiên, hoạt động giao dịch điện
tử ở nước ta về cơ bản mới ở giai đoạn xây dựng các dịch vụ ứng dụng, chưa có dịch
vụ nào được thực hiện trực tuyến hoàn toàn. Tình hình đó do nhiều nguyên nhân,
trong đó có nguyên nhân quan trọng về môi trường pháp lý: nước ta còn thiếu một
khung pháp lý cần thiết, một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao để điều chỉnh
các quan hệ trong giao dịch điện tử.
Trước thực tế trên, để tạo cơ sở pháp lý cho giao dịch điện tử phát triển, Bộ
luật Dân sự năm 2005 được thông qua tại Kỳ thứ 7 Quốc hội khoá XI, lần đầu tiên
đã ghi nhận hình thức hợp đồng điện tử thông qua việc thừa nhận giá trị pháp lý của
thông điệp dữ liệu: “Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức
thông điệp dữ liệu cũng được coi là giao dịch bằng văn bản” (khoản 1 Điều 124).
Cũng tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội Khoá XI, Luật Thương mại năm 2005 được thông
qua, trong đó Điều 15 ghi nhận nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp
dữ liệu trong hoạt động thương mại: “Trong hoạt động thương mại, các thông điệp
dữ liệu đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật th ì
được thừa nhận có giá trị pháp lý tương đương văn bản". Và đặc biệt, tại kỳ họp thứ
8 Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật Giao dịch điện tử 2005. Luật này công nhận
giá trị pháp lý của giao dịch điện tử, giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu, chữ ký
điện tử được sử dụng trong các giao dịch điện tử; cụ thể hoá quy định về hợp đồng
điện tử trong Bộ luật Dân sự 2005, tạo môi trường pháp lý nhằm thúc đẩy việc sử
dụng các giao dịch điện tử, giao kết hợp đồng bằng phương tiện điện tử góp phần
nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Luật Giao
- dịch điện tử 2005 dành một chương (từ Điều 33 đến Điều 38) quy định về việc giao
kết và thực hiện hợp đồng điện tử.
Xét về bản chất, hợp đồng điện tử cũng là sự thoả thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ như các hình thức hợp đồng phổ
biến mà chúng ta đang áp dụng, chỉ khác là chúng được xác lập thông qua các
phương tiện điện tử dưới dạng thông điệp dữ liệu. Một hợp đồng điện tử có thể được
giao kết dưới nhiều dạng khác nhau, từ các phương thức trao đổi hiện đại như trao
đổi dữ liệu điện tử, E-mail, tới các phương tiện thông tin liên lạc đã tồn tại từ nhiều
năm nay như điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác.
Các bên có thể sử dụng thông điệp dữ liệu để tiến hành một bước hay toàn bộ
các bước trong quá trình giao kết hợp đồng điện tử. Đề nghị giao kết hợp đồng và
chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được thực hiện thông qua thông điệp dữ liệu.
Việc trao đổi, thoả thuận đó sẽ tạo ra hiệu lực pháp lý của hợp đồng mà không cần
hai bên phải thực hiện thêm bất kỳ một thủ tục nào khác (trừ trường hợp pháp luật
đòi hỏi hợp đồng phải được lập theo một hình thức và trình tự cụ thể). Giá trị pháp
lý của hợp đồng điện tử không thể bị phủ nhận chỉ vì nó được thể hiện dưới dạng
thông điệp dữ liệu (Điều 34 Luật Giao dịch điện tử 2005). Nó có giá trị làm chứng
cứ, khi các bên có tranh chấp khởi kiện yêu cầu toà án giải quyết (Điều 14 Luật
Giao dịch điện tử 2005.
Có thể đánh giá, các quy định về hình thức hợp đồng trong Bộ luật Dân sự
2005 là khá tiến bộ, đầy đủ và phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay.
2.2. Nội dung hợp đồng dân sự
Nội dung của hợp đồng dân sự là tổng thể các điều khoản mà các chủ thể
tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận. Các điều khoản đó xác định những quyền
và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên trong hợp đồng. Điều 402 Bộ luật dân sự quy
định về nội dung của hợp đồng: “ Tùy theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thỏa
thuận về nội dung…”. Quy định này mang tính hướng dẫn cho các bên khi thỏa
thuận, giao kết hợp đồng nhằm thuận tiện cho việc thực hiện và làm cơ sở để giải
quyết khi có tranh chấp xảy ra. Vì vậy, trong trường hợp hợp đồng thiếu một số điều
khoản như đã liệt kê tại Điều 402 Bộ Luật dân sự 2005 thì hợp đồng vẫn được coi là
nguon tai.lieu . vn