Xem mẫu

  1. TIỂU LUẬN HIỆN TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT TRONG THÂM CANH HOA TẠI TRIỆU SƠN – THANH HÓA 1
  2. Mục lục 1. ĐẶT VẤN ĐỀ...................................................................................................3 2. Tổng quan ..........................................................................................................4 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................. 11 2.1. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................. 11 2.2. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 11 - Phương pháp so sánh: Sử dụng để so sánh danh sách thuốc BVTV thực tế ngoài đồng ruộng, tại các cửa hàng kinh doanh và thu thập được do điều tra trực tiếp người dân về danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng và cấm sử dụng..................................................................................................................... 11 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................................... 12 3.1. Khái quát về cây hoa. .............................................................................. 12 3.2. Khái quát tình hình thâm canh hoa ở Triệu Sơn, Thanh Hóa .............. 14 3.2. Thực trạng quản lý thuốc bảo vệ thực vật ở Triệu Sơn, Thanh Hóa .... 16 3.2. Hiện trạng sử dụng thuốc BVTV trong thâm canh hoa ở Triệu Sơn, Thanh Hóa ....................................................................................................... 19 3.3 Hiện trạng sử dụng thuốc BVTV trong thâm canh hoa ở Triệu Sơn, Thanh Hóa ....................................................................................................... 26 10 nguyên tắc bón phân hợp lý ......................................................................... 29 1. Đúng thuốc .................................................................................................. 37 2. Đúng liều lượng và nồng độ....................................................................... 38 4. Đúng cách ....................................................................................................... 39 4. KẾT LUẬN ................................................................................................... 40 sTÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 42 2
  3. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Nước ta là nước nông nghiệp, nông dân chiếm trên 70% dân số cả nước. Do vậy,nông nghiệp chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Khi nền nông nghiệp càng phát triển, đi vào thâm canh, sản xuất hàng hoá thì vai trò của công tác bảo vệ thực vật, đặc biệt là việc sử dụng thuốc BVTV ngày càng quan trọng đối với sản xuất. Thuốc BVTV đã góp phần hạn chế sự phát sinh, phát triển của sâu bệnh, ngăn chặn và dập tắt các đợt dịch bệnh trên phạm vi lớn, bảo đảm được năng suất cây trồng, giảm thiểu thiệt hại cho nông dân. Tuy nhiên, những năm gần đây việc sử dụn g thuốc BVTV trong thâm canh sản xuất, đặc biệt trong thâm canh hoa, cây cảnh có xu hướng gia tăng cả về chất lượng lẫn chủng loại. Một thực tế hiện nay là việc sử dụng thuốc BVTV tràn lan, không thể kiểm soát đã và đang gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đất, nước, không khí, sức khoẻ con người và môi trường sinh thái. Bên cạnh đó, xã hội càng phát triển thì nhu cầu làm đẹp cho cuộc sống ngày càng tăng, vì thế nghề trồng hoa trở thành nghề sản xuất chính trong một số vùng, trong đó có vùng hoa xã Tây Tựu. Việc sử dụng hoá chất BVTV trong trồng hoa ở xã Tây Tựu nói riêng và trong cả n ước nói chung được coi là biện pháp quan trọng nhất để bảo vệ sản lượng hoa hàng năm. Với tâm lí: “Càng phun nhiều thuốc người dân càng yên tâm”, vấn đề sử dụng thuốc BVTV trong thâm canh hoa ngày càng trở nên khó kiểm soát và gây nên nhiều tác động đến môi trường và sức khoẻ cộng đồng. Chính vì vậy để có một cách nhìn tổng quát nhất về tình hình sử dụng thuốc BVTV trong thâm canh hoa ở Triệu Sơn thì việc điều tra, đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp cho việc quản lý và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật một cách hiệu quả là rất cần thiết. Bên cạnh đó, phân bón có vai trò hết s ức quan trọng đối với tăng năng suất cây trồng, phẩm chất nông sản, góp phần quan trọng về bảo đảm an n inh lương 3
  4. thực, tăng các sản phẩm trồng trọt để xuất khẩu. Do vậy, cùng vớ i việc đẩy mạnh công tác quản lý chất lượng phân bón để cung cấp cho nông dân các loại phân bón tốt, đúng chất lượng, giải pháp tăng hiệu suất/hiệu quả sử dụng phân bón, giảm chi phí là rất có hiệu quả việc tăng cường chỉ đạo hướng dẫn sử dụng hiệu quả p hân bón thông qua các biện pháp tăng hiệu suất sử dụng phân bón cho cây trồng sẽ góp phần tích cực vào việc hạ giá thành sản xuất, góp phần cải thiện chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm hạn nông sản và hạn chế ô nhiễm môi trường. 2. Tổng quan Việt Nam có diện tích đất tự nhiên là 33 triệu ha nhưng diện tích trồng hoa ở Việt Nam chỉ chiếm 0,02% diện tích đất đ ai. Hoa được trồng lâu đời và tập trung một số vùng trồng hoa truyền thống như Ngọc Hà, Quảng An, Tây Tựu (Hà Nội), Đằng Hải, Đằng Lâm (Hải Phòng), Hoành Bồ, Hạ Long (Quảng Ninh), Triệu Sơn (Thanh hoá), Gò Vấp, Hóc Môn (TP. Hồ Chí Minh)...với tổng diện lích trồng khoảng 3500 ha. Phong trào trồng hoa ở Việt Nam trong những năm gần đây đã được chú ý phát triển, diện tích hoa tăng nhanh. Điều kiện khí hậu và đất đai đa dạng đã tạo điều kiện để trồng nhiều loại hoa, trong đó phát triển hệ thống trồng hoa thâm canh đã được nhà nước quan tâm và hỗ trợ. Theo Viện Nghiên cứu Rau -Quả thì hiện nay lợi nhuận thu được từ 1 ha trồng hoa cao hơn 10- 15 lần so với trồng lúa và 7-8 lần so với trồng rau. Gần 90% các loài hoa được trồng nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ở trong nước, tuy nhiên th ị trường xuất khẩu cũng đang tăng nhanh với 1 số loại hoa đặc thù của Việt Nam (hoa sen, hoa nhà và một số loài hoa mà các nước ôn đới trồng khó khăn trong mùa Đông (hồng, cúc...). Theo số liệu của Tổng cục thống kê, năm 2003 cả n ước có 9430ha hoa và cây cảnh các loại với giá trị sản lượng 482,6 tỷ đồng. Ở Việt Nam đã hình thành 3 vùng hoa lớn sau: 4
  5. - Vùng hoa đồng bằng sông Hồng: với khí hậu 4 mùa và nhiều vùng khí hậu đặc thù nên rất thích hợp cho trồng nhiều loại hoa. Hoa được trồng ở hầu hết các tỉnh của vùng trong đó tập trong nhiều ở các thành phố lớn: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc... Hoa ở vùng này chủ yếu phục vụ tiêu thụ trong nước,và một số chủng loại nhỏ đã xuất khẩu sang Trung Quốc (hồng, cúc..). Hồng là loài hoa phổ biến nhất chiếm 35%, tiếp đến là hoa cúc (30%), hoa đồng tiền (10%), còn lại là các loài hoa khác (25%). - Vùng hoa Đà Lạt: Đà Lạt có điều kiện khí hậu thời tiết rất phù hợp cho trồng các loại hoa, mặc dù diện tích không lớn nhưng đãy là nơi sản xuất các loại hoa cao cấp với chất lượng tốt: phong lan, địa lan, lấy, hồng, đồng tiền… Diện tích trồng các loài hoa tăng 1,74 lần so với kế hoạch đề ra trong giai đoạn 1996-2000, chỉ riêng năm 2000 đã thu hoạch được 25,5 triệu cành hoa. - Vùng hoa đồng bằng sông Cửu Long: Đây là vùng có khí hậu ấm, nóng quanh năm nên thích hợp với các loài hoa nhiệt đới: hoa lan, đồng tiền... TP Hồ Chí Minh là nơi phát triển hoa lan nhiệt đới nhanh nhất trong cả nước, nhiều trang trại hoa lan đã được thành lập, kinh doanh và phát triển theo mô hình trang trại hoa lan tại Thái Lan. Diện tích hoa ngày càng tăng cao đã đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của thị trường, nhất là ở các thành phố lớn. Tính riêng ở Hà Nội có khoảng 300 cửa hàng bán các loại hoa chất lượng cao, đó là chưa kể các hàng hoa nhỏ và cả những người bán rong. Ước tính, lượng hoa tiêu thụ từ các nguồn trên ở mức hơn 1 triệu cành các loại trong một ngày. Tại Đà Lạt diện tích hoa cắt cành của vùng này năm 1996 ch ỉ có 174ha, đến năm 2000 đã tăng lên 853ha và hiện nay có khoảng 1467ha (hoa cúc chiếm khoảng 24% , với sản lượng khoảng 10 - 13 triệu cành, với khoảng 84 tỷ đồng). Những năm gần đây, nghề trồng hoa phát triển khá mạnh ở nhiều đ ịa ph ương. Theo số liệu điều tra của Viện Di truyền Nông nghiệp, tại một số địa phương, hoa là cây 5
  6. trồng cho thu nhập khá. Chẳng hạn, có vùng ở Hà Nội, so với sản xuất 2 lúa 1 màu trong cùng thời điểm, trên cùng một đơn vị diện tích thì trồng hoa có lợi nhuận cao hơn gần 12 lần. Ở Thái Bình, có doanh nghiệp trồng hoa đã thu lãi tới 160 triệu đồng ha/năm, hay ở Lâm Đồng, bình quân cho mức lãi 250 - 3 00 triệu đồng/ha/năm từ sản xuất hoa. Trong những năm qua, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc không những phát triển khu công nghiệp Phúc Thắng, Quang Minh, mà còn chuyển đổi cơ cấu cây trồng có hiệu quả cao, nên bình quân mỗi héc ta canh tác đạt 48 triệu đồng/ha. Trong đó có nhiều cánh đồng đạt từ 50 triệu - 70 triệu/ha canh tác trong một năm. Với kinh nghiệm chuyển đổi vùng đất từ cấy lúa, trồng rau màu cho thu nhập thấp, sang trồng hoa của những xã phía nam huyện Mê Linh đã cho thu nhập gấp 3-4 lần so với cấy lúa và trồng rau. Bình quân mỗi héc ta trồng hoa đã cho thu nhập trên 50 triệu đồng trong năm. Trước đây, nông dân các xã Mê Linh, Tiền Phong, Đại Thịnh, Văn Khê, Tráng Việt trồng hoa hồng Đà Lạt, nhưng gần đây giống hoa hồng Đà Lạt bị thoái hóa, hoa nhỏ, chóng tàn, màu sắc không đẹp, nên nông dân Mê Linh đã mạnh dạn trồng những giống hoa hồng nhập ngoại như hoa hồng Pháp, Italia thay thế cho hoa hồng Đà Lạt. Những giống hoa hồng nhập ngoại được trồng trên đất Mê Linh đã đem lại giá trị thu nhập cao hơn so với trồng hoa hồng Đà Lạt, vì hoa hồng ngoại rất thích hợp với đ iều kiện đất đai, khí hậu ở đây, nên hoa hồng ngoại vừa to, vừa đẹp và lâu tàn hơn so với hoa hồng Đà Lạt. Mới đây, vùng hoa Mê Linh còn nhập giống hoa đồng tiền của Trung Quốc vào trồng đã cho kết quả cao. Hoa đồng liền với nhiều màu sắc và được khách hàng chơi hoa ở Thủ đô Hà Nội và nhiều tỉnh ở vùng đồng bằng sông Hồng ưa chuộng. Bên cạnh những giống hoa trên, vùng hoa Mê Linh còn trồng nhiều giống hoa như: hoa cúc Nhật Bản, hoa phăng Pháp, hoa tay Hà Lan, hoa huệ, hoa thược dược và làm cây cảnh phục vụ đủ các loại khách hàng chơi hoa và cây cảnh ở khắp mọi miền đất nước. Không nh ững nhạy bén với chuyển đổi 6
  7. cơ cấu giống hoa để phù hợp với thị trường hoa, mà nông dân ở Mê Linh còn tiếp thu nhanh những công nghệ mới vào trồng hoa như trồng hoa theo phương pháp cấy mô, trồng hoa trong nhà che phủ nhận và trồng hoa sạch bằng cách: tưới hoa bằng nước sạch, bón cho hoa bằng phân vi sinh và không phun thuốc trừ sâu cho hoa mà phòng trừ sâu bệnh cho hoa bằng phương pháp tổng hợp IPM, giúp cho người chơi hoa sạch, không bị ô nhiễm môi trường trong phòng để hoa. Hoa của Việt Nam cũng đã được xuất khẩu, riêng lượng hoa xuất khẩu của công ty sản xuất hoa Hasfarm 100% vốn nước ngoài ở Đà Lạt đã đem lại doanh thu trên 4 triệu USD/năm. Theo phân tích của các chuyên gia, nhu cầu tiêu thụ hoa sẽ ngày càng tăng cả ở thị trường trong nước lẫn quốc tế. Nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường, Việt Nam có kế hoạch phát triển diện tích trồng hoa lên khoảng 10.000 ha, với sản lượng 3,5 tỷ cành và đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 60 triệu USD vào năm 2010. Theo đó, một số vùng sản xuất chính đã được quy hoạch, gồm Hà Nội, TP.HCM, Sapa (Lào Cai), Đà Lạt, Đức Trọng (Lâm Đồng), Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Thái Bình… Hiện nay vấn đề quan tâm không chỉ là đảm bảo mục tiêu về diện tích trồng hoa, mà còn là chất lượng và hiệu quả bền vững, cần phải đa dạng hóa các loại hoa phục vụ nhu cầu trong nước, mặt khác, chú trọng các loại hoa chất lượng cao phục vụ xuất khẩu. Hiện nay, trong cơ cấu, hoa hồng vẫn chiếm 35-40%, hoa cúc chiếm 25-30%, còn lại là layơn, cẩm chướng, thược dược, huệ, đồng tiền, lan. Các nhà khoa học đã xác định cần chú trọng công tác nhập nội, chọn tạo và nhân nhanh các giống hoa chất lượng cao, nhất là hoa cúc, hồng, lay ơn, đồng tiền, hoa hồng môn, hoa phăng, phong lan và lily, đồng thời tăng cường tiếp nhận, chuyển giao các công nghệ, tiến bộ kỹ thuật trong trồng, chăm sóc, thu hoạch và phân phối hoa để tăng hiệu quả, giá trị sản phẩm, trong đó vấn đề giống, kỹ thuật canh tác là yếu lố quan trọng cần được quan tâm, đầu tư thích đáng. 7
  8. Công tác xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất hoa, trong đó có việc thiết kế đồng ruộng theo quy hoạch, hoàn chỉnh hệ thống tưới - tiêu, hệ thống nhà lưới, nhà kính và các kỹ thuật đóng gói, bảo quản, vận chuyển, nhất là vận chuyển từ nơi sản xuất đến các sân bay đối với hoa xuất khẩu... Cần phải rà soát các hoạt động thị trường hoa trong hệ thống quốc gia về tiếp thị và phân phối sản phẩm hoa, xây dựng kế hoạch hành động về quản lý sản phẩm nhằm đảm bảo dòng lưu chuyển sản phẩm nhanh từ nhà sản xuất đến người tiêu thụ. Đặc biệt, các cơ chế chính sách khuyến khích các cơ sở trồng hoa quy mô lớn, chất lượng cao theo quy hoạch và với hệ thống lưu thông sản phẩm hoa, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cáp, ngành chức năng cũng được đề cập như những yếu tố không thể thiếu trong giải pháp phát triển hoa trong giai đoạn tới. Tình hình sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật ở Việt Nam: - Phân bón: Là một quốc gia nông nghiệp, Việt Nam tiêu thụ một lượng phân bón không nhỏ hàng năm, kim ngạch nhập khẩu phân bón từ năm 2001 đến nay vẫn có chiều hướng tăng. Theo ước tính của Tổng Công ty Hoá chất Việt Nam, nhu cầu phân bón các loại của cả nước năm 2009 là 7,8 triệu tấn, trong đó, 1,7 triệu tấn phân đạm urê; 1,85 triệu tấn phân NPK; DAP 0,7 triệu tấn; 1,6 triệu tấn phân lân trong nước sản xuất và một số chủng loại phân khác (SA, Kali...). Tuy nhiên, thị trường phân bón Việt Nam hiện nay vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nhập khẩu. Công nghiệp sản xuất phân bón nội địa Việt Nam mới chỉ đáp ứng được khoảng 50-60% cầu về urê, 100% phân lân nung chảy và NPK từ lân nung chảy. Các loại phân khác như SA, Kali...hiện nay đang phải nhập khẩu 100%. Đặc biệt, thị trường nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam là Trung Quốc, chiếm tới trên 30% tổng kim ngạch nhập khẩu. (Nguồn: AGROINFO) 8
  9. Các DN phân bón chưa hợp tác với nhau nên không tạo được sức mạnh chung để đối phó với các đối tác nước ngoài.Hiện thị trường phân bón Việt Nam chưa có chiến lược phát triển dài hạn, các văn bản quản lý đ iều hành còn mang tính sự vụ. Chưa có luật phân bón và chiến lược dài hạn cho ngành phân bón Việt Nam để tạo hành lang pháp lý và điều hành vĩ mô mang tầm chiến lược để phát triển bền vững ngành nông nghiệp Việt Nam. Xem xét một cách hệ thống các văn bản điều hành quản lý thị trường phân bón của các đơn vị liên quan như Bộ Nông Nghiệp, Bộ Tài Chính, bộ Công Thương... từ trước tới nay, Việt Nam ch ưa có chính sách, chiến lược dài hạn đối với ngành phân bón. Theo cơ sở dữ liệu luật của AGROINFO về ngành phân bón kể từ năm 1999 tới nay có khoảng 60 văn bản đ iều chỉnh ngành phân bón, trong đó có khoảng 29 công văn, 25 quyết định và 6 thông tư, tất cả đều là các văn bản dưới luật có hiệu lực thấp và liên tục bị thay thế. - Thuốc BVTV: Ngành sản xuất thuốc BVTV trong nước có tốc độ tăng trưởng khoảng 5%/năm về sản lượng trong giai đoạn 2001-2008. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng về sản lượng của ngành thuốc BVTV chỉ đạt khoảng 0,87%/năm. Nguyên nhân giải thích cho việc sản lượng thuốc BVTV tăng trưởng chậm trong những năm gần đây là do việc sử dụng thuốc BVTV phụ thuộc rất nhiều vào diện tích đất nông nghiệp, vì diện tích đất nông nghiệp không tăng lên, đặc biệt là trong những năm gần đây đã đưa tiến bộ kỹ thuậ t ứng dụng vào sản xuất như 3 giả m 3 tăng, 1 phải 5 giảm, s ử dụng giống kháng bệnh…nên đã giảm sử dụng thuốc BVTV. Nhu cầu về thuốc BVTV của cả nước hiện khoả ng 50.000 tấn/năm, tương đương với giá trị khoảng 500 triệu USD, trong đó bao gồm 3 loại chính là thuốc trừ sâu và côn trùng; thuốc diệt nấm; thuốc diệt cỏ. Cơ cấu nhu cầu tiêu dùng thuốc BVTV trong các năm qua được duy trì khá ổn định, trong đó tỷ lệ thuốc trừ sâu và côn trùng chiếm khoảng 60% về giá trị. Nguồn cung chính cho th ị trường thuốc BVTV trong nước hiện nay chủ yếu là từ nhập khẩu. Do ngành sản xuất các loại hoá chất tổng 9
  10. hợp dùng cho bảo vệ thực vật trong nước chưa phát triển nên các doanh nghiệp trong ngành sản xuất thuốc BVTV ở Việt Nam vẫn phải nhập khẩu khá nhiều nguyên liệu. Theo Cục Bảo vệ thực vật, th ị trường kinh doanh thuốc bảo vệ tạ i Việt Nam hiện có khoả ng 150 doanh nghiệp (Riêng tỉnh An Giang có 01 DN là Công ty BVTV An Giang), 70 xưởng gia công. Các doanh nghiệp kinh doanh thuốc BVTV đang phả i cạnh tranh gay gắt với các loại thuốc BVTV nhập khẩu từ Trung Quốc. 10
  11. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu - Điều tra trực tiếp 45 hộ chuyên sản xuất hoa tại Triệu Sơn; - Điều tra hiện trạng thực tế trên hơn 380 ha trồng hoa của Triệu Sơn ; - 8 hộ kinh doanh thuốc BVTV; - Phỏng vấn nhanh cán bộ lãnh đạo của xã, hợp tác xã sản xuất hoa và các cán bộ thôn, người dân trực tiếp phun thuốc trên đồng. 2.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thu thập số liệu: Kế thừa có chọn lọc các tài liệu, tư liệu đã nghiên cứu có liên quan đến quản lý và sử dụng thuốc BVTV - Phương pháp điều tra thực đ ịa: Tổ chức điều tra bằng phiếu kết hợp phỏng vấn nhanh các hộ trồng hoa được chọn theo mẫu ngẫu nhiên, điều tra hiện trạng phun thuốc và xả thải bao bì trên đồng ruộng kết hợp với phỏng vấn nhanh đội ngũ phun thuốc ngoài đồng - Phương pháp tính toán thống kê: Áp dụng các phần mềm tính toán thống kê để đánh giá về hiện trạng quản lí và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong xã Tây Tựu - Phương pháp so sánh: Sử dụng để so sánh danh sách thuốc BVTV thực tế ngoài đồng ruộng, tại các cửa hàng kinh doanh và thu thập được do điều tra trực tiếp người dân về danh mục thuốc BVTV đ ược phép sử dụng và cấm sử dụng. 11
  12. 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1. Khái quát về cây hoa . Nhu cầu dinh dưỡng của cây hoa a) Bón lót khi trồng (lượng bón cho 1.000m2) - Vôi bột hoặc đôlômít: 100-150kg. - Phân chuồng hoai: 4-6 tấn. b) Bón thúc cho gốc ghép (sau khi đặt gốc hồng dại): - Compomix: 20-30 kg/1.000m2/lần. Bón 5 lần, đ ịnh kỳ 1 tháng/lần kết hợp làm cỏ, vun xới. c) Bón thúc sau khi ghép mắt: Sau trồng 6 tháng thì tiến hành ghép mắt, sau ghép 15 ngày sẽ hạ giàn và bón thúc + Thúc mầm lần 1 (sau khi ghép 30-35 ngày): 5-6 tấn phân chuồng hoai/công. + Thúc mầm lần 2 (sau ghép 45-50 ngày): 40-60 kg NPK 13-13-13+TE Đầu Trâu cho 1.000m2 + Thúc sau mỗi lần tỉa nhánh: 15-20kg NPK 13-13-13 + TE Đầu Trâu cho 1.000m2. Kết hợp phòng ngừa sâu bệnh. + Thúc định kỳ 15 ngày bón 1 lần, lượng bón 50-70kg NPK 13-13-13 + TE Đầu Trâu cho 1.000m2. + Bón phân magiê: Định kỳ 4-5 tháng bón 1 lần với lượng 1,5-2kg MgSO4/1.000m2 bằng cách trộn với phân NPK bón gốc hoặc hòa với nồng độ 0,3- 0,5% để phun qua lá. + Phun qua lá: Phân bón thích hợp cho các thời kỳ phát triển của hồng là Đầu Trâu 501, 701 và 901, đây là loại phân có đầy đủ và cân đối đa, trung, vi lượng và các chất điều hòa sinh trưởng. Nồng độ và liều lượng phun tùy thuộc tuổi và thời kỳ phát triển như sau: 12
  13. - Thời kỳ hồng tăng trưởng và sau cắt hoa: Pha 1-2 gam Đầu Trâu 501 trong 1 lít nước, phun định kỳ 7-10 ngày/lần. - Thời kỳ hồng trưởng thành sắp ra nụ hoa: Pha 1-2 gam Đầu Trâu 701 trong 1 lít nước, phun định kỳ 7-10 ngày/lần. - Khi hồng đã có nụ và dưỡng hoa khi đang nở: Pha 1-2 gam Đầu Trâu 901 trong 1 lít nước, phun định kỳ 7-10 ngày/lần. + Từ năm thứ 2, vào đầu chu kỳ bón 5-6 tấn phân chuồng hoai/1.000m2. Phân bón NPK 13 -13-13+TE Đầu Trâu và phân bón lá sử dụng theo quy trình trên. Các bệnh thường gặp ở hoa hồng Bệnh gỉ sắt: Vết bệnh dạng ô nổi, màu vàng da cam hoặc nâu. Gỉ sắt hình thành ở mặt dưới lá. Mặt trên mô bệnh mất màu xanh bình thường chuyển sang màu vàng nhạt. Bệnh nặng làm lá khô cháy, dễ rụng, hoa nhỏ ra ít, thường bị thay đồi màu sắc, cây còi cọc. + Nguyên nhân gây bệnh do nấm Phragmidium mucronatum gây ra. + Phòng trừ: Loại bỏ tàn dư gây bệnh và cỏ dại. Ngoài thuốc Scrore 250 ND và Alvil 5 SC có thể dùng thêm Peroxin 0,2 -0,4 %. Bệnh phấn trắng: + Đặc đ iểm triệu chứng: vết bệnh dạng bột phấn màu trắng xám, hình thái bất định. Bệnh th ường hại trên ngọn non, chồi non, lá non, hình thành ở cả 2 mặt lá. Bệnh nặng hạn cả thân, cánh, nụ, hoa làm biến dạng lá.Thân khô, nụ ít, hoa không nở thậm chí chết cây đ ồng đỏ Pháp, trắng Mỹ, phấn hồng hay bị bệnh này. + Nguyên nhân gây bệnh: Do nấm Sphaerothecapannosa (Walls) Lev var, Rosae gây ra. + Biện pháp phòng trừ: Loại bỏ tàn dư gây bệnh và cỏ dại. Dùng thuốc Scrore 250 ND với liều lượng 0,2-0,3 lít/ha. Alvil 5 SC liều lượng 1 lít/ha hoặc Bayfidan 250 EC Bệnh đốm đen: 13
  14. + Đặc đ iểm triệu chứng: Vết bệnh hình tròn hoặc hình bất định ở giữa màu xám nhạt, xung quanh màu đen. Bệnh thường phá hại trên các lá bánh tẻ, vết bệnh xuất hiện ở cả 2 mặt lá. Bệnh nặng làm lá vàng, rụng hàng loạt. Đây là một trong những bệnh chủ yếu hại cây hoa hồng. + Nguyên nhân gây bệnh Do nấm Dipbocarpon Rose gây ra. + Biện pháp phòng trừ: Vườn trồng hồng thông thoáng, đất không bị ngập úng. Tỉa bỏ những cành lá mang mầm bệnh, làm sạch cỏ và thu dọn các tàn dư gây bệnh. Dùng một số thuốc đặc hiệu như Score 250 ND, Zineb 80 WP nồng độ 30- 50 g/ 10 lít nước hoặc Antracol 70 BHN pha 20-30 g thuốc/ bình 8 lit với nồng độ 4 ml thuốc/bình 8 lít. Lượng phun 30-40 bình/ha. - Sâu xanh (Heli coverpa armigerra Hb) Sâu phá hại nặng trên lá non, ngọn non, nụ và hoa. Sâu trưởng thành đẻ trứng rải rác thành từng cụm ở cả 2 mặt lá non, ở nụ hoa, đài hoa và hoa. + Biện pháp phòng trừ: Luân canh với cây trồng khác. Ngoài ra có thể dùng các loại thuốc trừ sâu: pegasus 500SC liều lượng 0,5-1 lít/ha (pha 7- 10 ml/bình 8 lít) - Rệp: (Aphis gosssypii Glover) Trên đồng ruộng th ường có rệp nhảy và rệp muội. Rệp phá hại trên thân, lá, ngọn non cây hồng. Đặc biệt rệp sáp hình bầu dục, mình phủ sáp trắng, không thấm nước. loại rệp này thường sống cộng sinh với kiến. Có thể dùng thuốc Ancol 20 EC phun 1 lít/ha hoặc Karate 2,5 EC nồng đ ộ 5 - 10 ml/ bình 8 lít. Supacide 40 ND liều lượng 1- 15 lít/ha. - Nhện đỏ (Tetranychus urticae Koch) Nhện đỏ gây hại nặng trên cây hoa hồng. Nhện thường cư trú ở mặt dưới lá chích hút dịch bào trong mô lá hồng, tạo thành vết hại có màu sáng, dần dần các vết chích này liên kết với nhau. Khi bị hại nặng, lá cây hồng có màu nâu vàng rồi khô và rụng. Khi có thể dùng thuốc Ortus 5 SC hoặc Comite với liều lượng 1 lít/ ha. 3.2. Khái quát tình hình thâm canh hoa ở Triệu Sơn, Thanh Hóa 14
  15. Diện tích đất trồng hoa của Triệu Sơn, Thanh Hóa vào khoảng 280 ha, chiếm 97,5% diện tích đất nông nghiệp toàn xã. Với các giống hoa được trồng phổ biến hiện nay là: hoa hồng, hoa cúc, hoa đồng tiền, hoa phăng,... mỗi loại hoa đòi hỏi vốn đầu tư, kĩ thuật canh tác và chăm sóc khác nhau do đó hiệu quả kinh tế cũng rất khác nhau, tuỳ thuộc vào việc đầu tư thâm canh, sản lượng và giá cả đầu ra theo mùa. Bảng 1. Hiệu quả kinh tế trồng hoa ở Triệu Sơn, Thanh Hóa Tỷ suất lợi Chủng loại Tổng chi Tổng thu Thu nhập thuần nhuận (%) Hoa Hồng 45.000.000 130.000.000 85.000.000 188 Hoa Cúc 65.000.000 140.000.000 75.000.000 115 Hoa Đồng tiền 70.000.000 150.000.000 80.000.000 106 Hoa khác 60.000.000 120.000.000 60.000.000 100 Đối với hoa hồng: kĩ thuật trồng và chăm sóc đơn giản, tần suất phun thuốc BVTV là 4 -5 ngày/lần, tuy nhiên giá hoa bán ra tương đối thấp. Hoa đồng tiền đòi hỏi cao về kĩ thuật trồng và chăm sóc, kinh phí vốn ban đầu lớn, tần xuất phun thuốc BVTV trung bình là 5 ngày/lần, giá hoa bán ra thị trường tương đối cao; Hoa cúc là loại hoa phổ biến nhất ở Triệu Sơn , có tính kháng sâu bệnh cao và năng suất hoa cũng khá cao. Giai đoạn đầu phun thuốc nhiều nhất là 5 lần/tuần. Các giai đoạn sau dùng thuốc dưỡng cây nhiều hơn và trước lúc bán một ngày thì nhất thiết phải phun thuốc một lần. Việc sử dụng thuốc BVTV trong trồng hoa theo quan niệm hoa không phải thực phẩm, không gây ngộ độc cho con người nên sử dụng thuốc có phần “thoải mái” hơn. Cây hoa muốn ra hoa đẹp thì cần phải khoẻ mạnh không bị sâu bệnh tấn công từ lúc gieo đến khi ra hoa. Vì vậy, việc sử dụng thuốc để trị bệnh và dưỡng cây cần phải thường xuyên và vì thế hầu như việc phun thuốc BVTV xảy ra hàng ngày trên các cánh đồng hoa của Triệu Sơn. Mặt khác, hoa rất nhạy cảm với thời 15
  16. tiết. Nếu thời tiết đẹp, khô ráo, mát mẻ, hoa khoẻ mạnh thì sẽ hạn chế sâu bệnh phát triển nên không cần phun thuốc hoặc phun rất hạn chế. Nếu thời tiết xấu,mưa nhiều hoặc quá nắng sâu bệnh phát triển mạnh, nếu không phun thuốc kịp thời với liều lượng lớn, tiêu diệt nhanh thì khi trứng nở thành sâu, hoa sẽ phải bỏ. Bên cạnh đó, việc trừ dịch bệnh cần phải nhanh chóng và hiệu quả nên cần thuốc tác dụng nhanh không quan tâm đến độc tính hay giá thành . Do vậy vi phạm về nồng độ phun, cách phối trộn thuốc và thời gian phun thuốc cũng là điều dễ hiểu. Theo kinh nghiệm thực tế, sự xuất hiện sâu bệnh trên hoa thường mang tính chu kì nên có thể chia thời điểm phun thuốc ra làm ba giai đoạn: Giai đoạn 1: tháng 4 - 7, đây là giai đoạn nhiều sâu nhất, vì thế tần suất phun thuốc cho hoa rất cao. Trung bình cách một ngày phun thuốc một lần; bên cạnh đó, cần bổ sung dinh d ưỡng cho cây để cây không phát triển chậm lại nhưng chưa cần đầu tư mạnh với tần suất bón là 15 ngày 1 lần. Giai đoạn 2: gồm các tháng 3, 8, 9 và tháng 10. Giai đoạn này vẫn còn nhiều sâu nhưng ít hơn giai đoạn 1, do đó tần suất phun thuốc cũng giảm ( 5-7 ngày phun thuốc 1 lần) so với giai đoạn 1; giai đoạn này là giai đoạn chuẩn bị cho đợt ra hoa chính nên bổ sung dinh dưỡng là điều cần chú trọng. Những biểu hiện của cây sẽ hướng đến cách chăm sóc và bón phân hợp lí cứ 5-8 ngày 1 lần. Giai đoạn 3: gồm các tháng 1, 2, 11 và tháng 12. Giai đoạn này ít sâu bệnh nhất trong năm, tần suất phun thuốc giảm mạnh, cứ 10 - 15 ngày phun thuốc 1 lần. Với năng suất đạt được để mang lại hiệu quả lâu dài nên cứ 20 ngày ta bón phân 1 lần. 3.2. Thực trạng quản lý thuốc bảo vệ thực vật ở Triệu Sơn, Thanh Hóa Theo các tài liệu nghiên cứu cách đây hơn 10 năm, khi đó việc kinh doanh hoa còn nhỏ lẻ, việc phân phối thuốc BVTV đến người dân do nhà nước quản lí. Thuốc BVTV đ ược đưa từ chi cục BVTV huyện xuống hợp tác xã. Hợp tác xã sẽ chịu trách nhiệm phân phối thuốc BVTV đến từng hộ dân. Tuy nhiên, thuốc đi theo 16
  17. con đường này thường thiếu về số lượng và chủng loại. Vì thế, người dân Tây Tựu thường phải tích luỹ một lượng lớn thuốc “độc” trong nhà. Ví dụ: nhóm lân hữu cơ, nhiều nhất là Wofatox. Trung bình mỗi hộ dân ở xã Tây Tựu tích trữ khoảng 0,22- 0,23 lít. Monitor là 0,86 -0,13 l/hộ. Bassa 0,01-0,12 l/hộ, thậm chí có hộ còn tích trữ cả DDT. Gần đây, khi vùng Tây Tựu đã chuyển sang chuyên canh hoa, nhu cầu về thuốc BVTV ngày càng tăng cao nên việc kinh doanh thuốc BVTV đã chuyển sang tư nhân hoá. Các công ty sản xuất và đóng gói thuốc BVTV sẽ phân phối thuốc cho các đại lí thuốc cấp 1 và cấp 2. Các đại lí này sẽ bán thuốc cho các cửa hàng tư nhân nhỏ trong xã. Tính đến trước ngày 1/10/06 ở Triệu Sơn hiện có 08 hộ kinh doanh thuốc, trong đó có 6 hộ đã đăng kí kinh doanh và 5 hộ chưa đăng kí (bảng 2). Bảng 2. Danh sách các hộ kinh doanh thuốc BVTV ở Triệu Sơn, Thanh Hóa Địa chỉ Thời gian bắt Họ và tên đầu kinh doanh Đăng kí ** Đội Thôn * Trần Trung Thông 2 1 1 1 Tống Văn Hoàn 1 1 2 1 Dương ĐứcQuý 5 2 1 1 Cao Th ị Ngọc 9 3 1 1 Vũ Mạnh 11 3 1 2 Trịnh Thị Liên 10 3 1 2 Chu Th ị Vấn 12 3 1 2 Nguyễn Thị Hồng 9 3 1 2 Ghi chú *) 1 – Bắt đầu kinh doanh trước ngày 01/10/2005; 2 – Bắt đầu kinh doanh sau ngày 02/10/2005. **) 1 – Đã đăng ký kinh doanh; 2 – Chưa đăng ký kinh doanh. Theo quy định, người dân ở Triệu Sơn, Thanh Hóa muốn mở cửa hàng thì phải đi học lớp tập huấn về BVTV trong ba tháng do chi cục BVTV huyện tổ chức. Trong khi học, người học sẽ được biết về cách sử dụng thuốc BVTV trong nông 17
  18. nghiệp, độc tính của thuốc và cách thức bảo quản thuốc để bảo vệ sức khoẻ con người và môi trường. Kết thúc khoá học, h ọc viên sẽ được cấp giấy chứng nhận đã qua khoá huấn luyện và được phép mở cửa hàng và đ ứng bán tại cửa hàng. Tuy nhiên, trên thực tế ở một số cửa hàng, người đ ứng bán không phải là người đã từng qua lớp tập huấn về BVTV hoặc ch ưa có đăng kí mở cửa hàng. Mức độ tiếp cận thông tin về thuốc TBVTV của người dân còn rất hạn chế. Theo các kết quả điều tra thì tỉ lệ số người được tư vấn về cách chọn mua thuốc chỉ là 22% (10/45 người được hỏi), không được tư vấn là 78% (35/45 người được hỏi). Thông thường người dân được tư vấn mua loại thuốc nào hay các loại thuốc mới ngay tại cửa hàng bán thuốc. Số người không được tư vấn về cách chọn thuốc, chủ yếu chọn thuốc theo kinh nghiệm và theo sự mách bảo của người bên cạnh. Khi việc chuyên canh hoa ngày càng phát triển, việc những người dân trồng hoa theo kinh nghiệm sẵn có sẽ không bao giờ có lãi do tốn tiền đầu tư lớn mà hoa bán ra không đủ sức cạnh tranh với thị trường. Trường hợp bà con được người bán hàng tư vấn về cách chọn thuốc cũng còn nhiều vấn đề bất cập do nhu cầu về lợi nhuận hoặc thiếu hiểu biết về chuyên môn. Không phải tất cả những người bán thuốc đều đã được đi tập huấn về BVTV (có giấy chứng chỉ) mà người đứng bán có thể là người nhà của người được cấp chứng chỉ hoặc là lao động tự do. Chính sự thiếu hiểu biết cần thiết về chuyên môn và vì mục đích kiếm lời mà gần đây hiện tượng thuốc giả xảy ra thường xuyên không kiểm soát đ ược. Thuốc giả thường do những người trong khu vực làm ra và lấy bao bì của công ty đóng gói vào hoặc có thể do thuốc nhập lậu từ Trung Quốc. Loại thuốc giả do người dân tự pha chế có hai loại: Một loại thường có độc tính rất cao, khi phun sâu bệnh chết ngay, giá lại rất rẻ. Do đó, sử dụng thuốc này cho hiệu quả kinh tế cao, tiết kiệm được công lao động nhưng rất nguy hại đến môi trường sinh thái và sức khoẻ người lao động. Loại thứ hai thường chứa hoá chất giả không có tác dụng diệt sâu bệnh, loại này thường có nhãn mác giống hàng thật nên người dân không thể biết được nhưng khi dùng thuốc sâu bệnh không chết. Hiện 18
  19. nay ngoài các cửa hàng đã đăng kí kinh doanh, thuốc BVTV còn được bán ngoài chợ. Do cơ chế thị trường nên các gia đình sẽ tự phải lo mua thuốc, pha thuốc thế nào cho hợp lí và kinh tế nhất. Chính vì vậy, việc dùng thuốc BVTV ở Triệu Sơn hiện nay có xu hướng “mạnh ai người ấy làm” nên có hiện tượng phun thuốc tràn lan, không theo đợt và rất khó có thể kiểm soát. Có thể nói việc quản lí thuốc BVTV hiện nay ở Triệu Sơn đang còn nhiều đ iều bất cập và rất cần được quan tâm, giải quyết. 3.2. Hiện trạng sử dụng thuốc BVTV trong thâm canh hoa ở Triệu Sơn, Thanh Hóa Thực trạng các loại thuốc BVTV đang được sử dụng trong thâm canh hoa tại Triệu Sơn trên đồng ruộng và qua phỏng vấn người dân còn có nhiều khác biệt nhưng nhìn chung người dân vẫn sử dụng nhiều loại thuốc đã cấm sử dụng, nhiều loại thuốc không có trong danh mục, không rõ nguồn gốc, không có chỉ dẫn sử dụng và tác dụng của thuốc. Trên đồng ruộng còn thấy nhiều bao bì có nhãn mác hoàn toàn bằng tiếng Trung Quốc. Kết quả đ iều tra phỏng vấn 45 n gười dân về các loại thuốc BVTV đã và đang được người dân sử dụng trong thâm canh hoa thể hiện ở bảng 3. Qua bảng 3 cho thấy, người dân vẫn dùng những loại thuốc BVTV hạn chế và CSD ở nước ta như: Thasodant (chiếm 18,3% số người sử dụng); Wofatox (31,7%); Monitor (16,7%); DDT (8,3%); Monocrotophos (3,3%); Karate (5,0%); Lannate (61,7%). Đây là những loại thuốc thuộc nhóm độc I (rất độc), diệt sâu bệnh không chọn lọc, thời gian phân hủy lâu, gây hủy hoại hệ sinh thái và đe dọa đến sức khỏe con người do nhiễm độc mãn tính. Việc điều tra danh sách thuốc BVTV bằng phương pháp này sẽ cho biết được những loại thuốc đã từng và đang được người dân sử dụng. Đồng thời cũng biết được mức đ ộ nhận thức của người dân về thuốc BVTV. Cũng theo các kết quả điều tra thì tỉ lệ số người được tư vấn về cách chọn mua thuốc chỉ là 22% (10 người/45 người được hỏi); không được tư vấn là 78% (35 người/45 người). Việc dùng thuốc bất hợp lý khiến cho tính kháng thuốc của sâu bệnh càng 19
  20. cao và người dân phải đổi thuốc dùng liên tục và sử dụng ngày càng đa dạng hơn các loại thuốc. Điều này thể hiện qua kết quả thu thập và ghi lại bao bì thuốc BVTV trên đồng ruộng. Bảng 3. Danh sách các loại thuốc BVTV đang được người dân Triệu Sơn sử dụng trong thâm canh hoa (kết quả qua phiếu điều tra) Được Không có Hạn Tên thuốc % số người Cấm sử STT phép sử trong danh chế sử BVTV sử dụng dụng dụng mục dụng 1 Sherpa 85,0% * (51/60) 2 Selecron 63,0% * (38/60) 3 Score 250 ec 85,0% * (51/60) 4 Padan 95sp 83,3% * (50/60) 5 Thasodant 18,3% * (11/60) 6 Wofatox 31,7% * (19/60) 7 Match 51,7% * (31/60) 8 Tilsuper 300ec 83,3% * (50/60) 9 Monitor 16,7% * (10/60) 10 DDT 8,3% (5/60) * 20
nguon tai.lieu . vn