Xem mẫu

1 ĐẶT VẤN ĐỀ Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội, kiến thức và các dịch vụ y tế...., quần thể người cao tuổi ngày càng chiếm một tỷ lệ cao trong dân số, nhất là ở các nước đang phát triển (8 -11% dân số) [1]. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 1950 trên thế giới có khoảng 214 triệu người cao tuổi, đến năm 1990 đã có khoảng trên 500 triệu người [2]. Uớc tính đến 2025 sẽ có 1121 triệu người cao tuổi. Sự gia tăng dân số người cao tuổi diễn ra rõ rệt nhất ở Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ La tinh. Các châu lục này hiện nay có khoảng 250 triệu người cao tuổi, nhưng đến 2025 sẽ tăng đến 800 triệu người[3]. Trầm cảm là một rối loạn hay gặp trong thực hành tâm thần học cũng như trong thực hành đa khoa. Theo WHO và nhiều tác giả có từ 3 đến 5% dân số trên thế giới (khoảng 200 triệu người) có các triệu chứng trầm cảm ở một giai đoạn nào đó trong cuộc đời. Hơn nữa, người ta còn thấy tỷ lệ tái phát của trầm cảm là 50% đến 80% các trầm cảm đơn cực và cao hơn nữa ở rối loạn cảm xúc lưỡng cực....Khoảng 45% - 70% những người tự sát có rối loạn trầm cảm và 15% số bệnh nhân trầm cảm chết do tự sát[4][5]. Trầm cảm là những rối loạn thường gặp nhất trong các rối loạn tâm thần ở người cao tuổi. Theo Kohn R, rối loạn trầm cảm trong quần thể dân cư là 5,6% song rối loạn trầm cảm người cao tuổi ở cộng đồng là 10,7%[6][7]. Ở người cao tuổi sự thoái hóa của các tế bào não, sự già hóa của các cơ quan trong cơ thể, các bệnh cơ thể, các bệnh cơ hội cùng lúc có nhiều trên một người già…, kết hợp với các sang chấn tâm lý có thể do môi trường, xã hội làm cho rối loạn trầm cảm ở người cao tuổi có nhiều nét đặc thù riêng khác hẳn so với các lứa tuổi trẻ. Bên cạnh các triệu chứng hay gặp như khí sắc trầm, giảm năng lượng, dễ mệt mỏi thì còn có các biểu hiện khác gồm các biểu hiện cơ thể như các triệu chứng về cơ xương khớp, 2 tim mạch, hô hấp, tiêu hoá, thần kinh chức năng nhiều khi lại nổi trội, che mờ các triệu chứng của rối loạn trầm cảm. Thêm nữa đồng hành với các triệu chứng của trầm cảm thường là các rối loạn lo âu[8][9]. Thực tế việc chẩn đoán trầm cảm ở người cao tuổi thường là khó và hay bị bỏ qua, dẫn đến hơn 90% người cao tuổi có các biểu hiện trầm cảm mà không được chẩn đoán và điều trị thoả đáng[10][11]. Theo Robert M. Kok,Thea J (2005)chỉ có 12% - 15% người cao tuổi có rối loạn trầm cảm được thầy thuốc đa khoa chữa trị và khoảng 0,2% trong số họ được các thầy thuốc chuyên khoa tâm thần chăm sóc [12]. Khó khăn là do nhiều thầy thuốc, bệnh nhân và gia đình vẫn xem các triệu chứng của trầm cảm là một biểu hiện bệnh lý nội khoa nào đó mà không đến với thầy thuốc tâm thần. Ngoài ra ở người cao tuổi trầm cảm còn có nhiều biểu hiện suy giảm nhận thức, nên rất khó phân biệt với mất trí trên lâm sàng[13]. Ở Việt Nam, cho đến nay trong lĩnh vực tâm thần học chưa có một công trình nào nghiên cứu, chuyên sâu và có hệ thống các đặc trưng rối loạn trầm cảm ở người cao tuổi. Chúng tôi tập trung vào nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, các yếu tố liên quan và điều trị các rối loạn trầm cảm ở lứa tuổi này, với hy vọng sẽ giúp tăng cường hơn nữa chất lượng chẩn đoán và điều trị, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống người cao tuổi. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng của rối loạn trầm cảm khởi phát ở người cao tuổi. 2. Đánh giá các yếu tố liên quan đến trầm cảm ở nhóm tuổi này. 3. Nhận xét về điều trị trầm cảm ở người cao tuổi. 3 Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1.KHÁI NIỆM VÀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VỀ TRẦM CẢM 1.1.1. Khái niệm 1.1.1.1. Khái niệm về rối loạn trầm cảm. Buồn chán là một phản ứng cảm xúc thường gặp ở bất cứ ai trong cuộc sống. Khi các biểu hiện trở nên trầm trọng, kéo dài, cản trở đến chất lượng cuộc sống và khả năng thích nghi của họ, thì được gọi là rối loạn TC [14][15]. Các nhà tâm thần học trước đây mô tả trầm cảm là một giai đoạn u sầu điển hình (melancholia). Rối loạn phản ánh sự ức chế nặng nề các mặt hoạt động tâm thần, song chủ yếu là tam chứng cổ điển: khí sắc giảm, buồn; các quá trình tư duy bị chậm lại; sự ức chế tâm thần vận động nhiều khi đến sững sờ, bất động [8][14][16]. Theo Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (ICD-10) về các rối loạn tâm thần và hành vi, TC là một hội chứng bệnh lý của cảm xúc biểu hiện đặc trưng bởi khí sắc trầm, mất mọi quan tâm thích thú, giảm năng lượng dẫn tới tăng sự mệt mỏi và giảm hoạt động, phổ biến là mệt mỏi rõ rệt chỉ sau một cố gắng nhỏ. Các triệu chứng này tồn tại trong một khoảng thời gian tối thiểu là 2 tuần liên tục. Những biểu hiện này được coi là các triệu chứng có ý nghĩa lâm sàng nhất trong việc chẩn đoán [14]. Những biểu hiện của RLTC cũng thay đổi hình thái và mức độ theo sự phát triển của tuổi tác và phản ứng cá biệt của từng người. Ở người cao tuổi triệu chứng thường có dấu hiệu riêng, nổi bật là các phàn nàn cơ thể như đau mỏi; các biểu hiện buồn chán, với ý tưởng tự sát, rối loạn thần kinh thực vật, hoặc biểu hiện bằng những rối loạn hành vi như thô bạo, kích động. Trong khi đó ở người trẻ tuổi các biểu hiện của trầm cảm chủ yếu là buồn chán, phàn 4 nàn về cuộc sống và sức khỏe của bản thân. Ngoài ra biểu hiện trầm cảm còn mang sắc thái của văn hoá xã hội, truyền thống gia đình họ tộc, lối sống của mọi người trong gia đình. 1.1.1.2. Khái niệm về người cao tuổi. - TheoTổ chức Y tế Thế giới năm 1980, những người từ 60 tuổi trở lên là người có tuổi và trên 80 tuổi là tuổi già [11][17]. Cũng vào năm 1980 Hội nghị Lão khoa Thế giới quy ước về người cao tuổi khi tiến hành nghiên cứu như sau[18]: Trường phái Hippocrate: * Thơ ấu : Trước 14 tuổi * Trưởng thành : 15 - 42 tuổi * Suy thoái : 43 - 60 tuổi * Già : 60 tuổi trở lên Theo WHO: * Trung niên : 45 - 59 tuổi * Người có tuổi : 60 - 74 tuổi * Người già : 74 - 90 tuổi * Người sống lâu : Trên 90 tuổi Đại hội Thế giới về người già, lần đầu tiên trong lịch sử do Liên hiệp quốc triệu tập tại Vienne năm 1982, đã thống nhất quy định người già là từ 60 tuổi trở lên. Đến cuối thập niên 80, khái niệm người cao tuổi dần dần được dùng thay thế cho khái niệm người già. Tuy nhiên việc quy định tuổi già ở các nước cũng có sự khác biệt, do căn cứ vào tuổi thọ trung bình của người dân tại nước đó. Tại Việt Nam, Pháp lệnh người cao tuổi (số: 23/2000/PL-UBTVQH10 ngày 28/4/2000) quy định, người cao tuổi là người có độ tuổi từ 60 trở lên. 5 *Để nghiên cứu bệnh lý người cao tuổi, các nhà chuyên môn phân lớp tuổi 5 năm. Tuổi : 60 - 64 tuổi; 65 - 69 tuổi; 70 - 74 tuổi; 75 - 79 tuổi; 80 - 84 tuổi; 85 - 89 tuổi; ≥ 90 tuổi. * Khi nghiên cứu về khả năng hoạt động xã hội của người cao tuổi, thường dùng cách phân chia như sau - 45 - 59: tuổi tiền lão, hoạt động sung mãn có nhiều kinh nghiệm và hiệu quả - 60 - 74: người cao tuổi, hoạt động bắt đầu giảm linh hoạt. - 75 -89: người già, thường giảm nhiều, ngừng các hoạt động xã hội - Trên 90 tuổi, người quá già, các hoạt động đều cần có sự hỗ trợ của gia đình, xã hội. Các nghiên cứucho thấy bắt đầu từ tuổi trước già và nhất là tuổi già có rất nhiều biến đổi về sinh học và tâm lý. 1.1.2. Lịch sử nghiên cứutrầm cảm Ở thế kỷ XVIII nhiều tác giả đã quan tâm nghiên cứu về các rối loạn trầm cảm. Rối loạn trầm cảm, là một thuật ngữ được dùng đầu tiên trong học thuyết thể dịch của Hypocrate. Tiếp sau Pinet mô tả trầm uất là một trong bốn loại loạn thần. Đến năm 1896 Kraepelin đã thống nhất các quan điểm xếp 2 trạng thái trầm cảm và hưng cảm trong một bệnh lý chung và đặt tên là loạn thần hưng trầm cảm (psychose maniaco – depressive) [19][20][21]. Sang thế kỷ XX rối loạn trầm cảm được nghiên cứu và hoàn thiện về khái niệm bệnh học, cũng như phân loại các rối loạn trầm cảm trong Bảng Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (ICD-10) năm 1992 của Tổ chức Y tế Thế giới (và mới nhất là DSM-V). Trong phân loại này trầm cảm được xếp trong nhóm rối loạn cảm xúc, mục F30 - F39[14][20][21][22].

nguon tai.lieu . vn