Xem mẫu

  1. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH LỜI MỞ ĐẦU Đất nước ta ngày nay được cả thế giới biết đến không chỉ vì là một dân tộc có truyền thống đấu tranh bất khuất và kiên cường trong đánh giặc mà còn đang có nền kinh tế phát triển đi lên rất mạnh mẽ và đầy tiềm năng. Xuất phát từ một đất nước đi lên sau 30 năm chiến tranh rồi lại trải qua những năm nền kinh tế nước ta thực hiện theo công tác kế hoạch hoá tập trung đã kìm hãm năng lực sản xuất của nước nhà. Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới nền kinh tế nước ta đã và đang tăng tốc phát triển đi lên dần hoà nhập với sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Điều này được thể hiện qua việc chúng ta xoá bỏ nền kinh tế tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiếp đó là sự chủ động ra nhập các khối và các tổ chức kinh tế chính trị như: ASEAN, AFTA…và mới đây nhất là tổ chức thương mại quốc tế (WTO) đã khẳng định sự hội nhập đầy đủ của Việt Nam với thế giới. Đây là điều kiện thuận lợi cho đất nước nói chung và các doanh nhiệp nói riêng, đồng thời cũng là một thách thức to lớn bởi sự trênh lệch về trinh độ công nghệ, nguồn vốn, trình độ quản lý. Trước cơ hội và thách thức để phát triển hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải làm thế nào để tồn tại và phát triển đi lên trong môi trường mà sự cạnh tranh khốc liệt như hiện nay? Đây là vấn đề nan giải với cả nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng phải tìm hướng đi và lời giải cho mình. Trong cuộc cạnh tranh khốc liệt để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp muốn giành được chiến thắng thì phải thực hiện tốt 3 vấn đề sau đây: Hiệu quả sản xuất, hoạt động quản trị kinh doanh và chi phí. Trong đó tiết kiệm chi phí mà tiết kiệm chi phí kinh doanh là vấn đề thiết thực và lành mạnh nó không những mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, ngoài ra xét trên khía cạnh toàn xã hội thì nó còn tiết kiệm cho nền kinh tế, nâng cao hiệu quả lao động xã hội …thúc đẩy một sự cạnh tranh lành mạnh. Vì thế hiện nay, việc nỗ lực cắt giảm chi phí đã trở thành một vấn đề quan trọng trong công tác quản lý kinh doanh bởi hiệu quả của việc sử dụng chi phí kinh doanh quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp trước sự cạnh tranh ngay gắt hiện nay của các công ty đặc biệt là các công ty nước ngoài. Vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp hiện nay là làm thế nào để tiết kiệm được chi phí kinh doanh? Đây là thách thức của không riêng công ty nào và tại công ty Cổ Phần Vận Tải Sơn Dương nơi em đang thực tập cũng không ngoại lệ. Qua quá trình thực tập ở công ty trên tinh thần học hỏi và phát huy những nổ lực của cán bộ công nhân viên của công ty trong công tác tiết kiệm chi phí, cùng với những kiến thức đã được trang bị trên ghế nhà trường cho em nhận thấy rằng vấn đề về chi phí kinh doanh của doanh nghiệp là rất quan trọng. Vì vậy, em xin mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu đề tài: “Chi phí kinh doanh và một số giải pháp tiết kiệm chi phí kinh doanh tại công ty Cổ Phần Vận Tải Sơn Dương” nhằm mở rộng và ứng dụng những kết quả nghiên cứu có thể đi sâu vào thực tiễn hoạt động của công ty. ĐINH CÔNG CHIẾN 1 LỚP : K39 - D4
  2. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH Chuyên đề được viết dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng cộng với các lý luận cơ bản của các môn : Kinh tế chính trị, Thống kê, Tài chính, Kế toán… Nội dung của chuyên đề nghiên cứu gồm : Chương 1: Những vấn đề lý luận về chi phí kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện nay. Chương 2: Những khảo sát thực tế tại công ty Cổ Phần Vận Tải Sơn Dương. Chương 3: Một số giải pháp đề suất nhằm tiết kiệm chi phí kinh doanh tại công ty Cổ Phần Vận Tải Sơn Dương. Do còn hạn chế kiến thức và thời gian thực tập cũng như nghiên cứu nên chuyên đề không thể tranh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và tập thể lãnh đạo công ty để em hoàn thiện đề tài nghiên cứu. Em xin trân thành cảm ơn sự hướng dẫn của cô Lê Thị Kim Nhung và tập thể lãnh đạo công ty đã giúp em hoàn thành chuyên đề này. ĐINH CÔNG CHIẾN 2 LỚP : K39 - D4
  3. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHI PHÍ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ HIỆN NAY. 1. KHÁI NIỆM VÀ PHẠM VI CỦA CHI PHÍ KINH DOANH. 1.1. Khái niệm về chi phí kinh doanh. a. Khái niệm về chi phí kinh doanh: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, ngày nay hoạt động của các doanh nghiệp ngày càng đa dạng, phong phú trên tất cả các lĩnh vực từ sản xuất, thương mại, dịch vụ, xây lắp …nhằm cung cấp và thoả mãn tối đa nhu cầu của xã hội và mang lại lợi nhuận cho các đơn vị kinh tế tham gia. Tuy vậy, các doanh nghiệp dù ở loại hình nào thì hoạt động kinh doanh muốn thực hiện được cũng phải bỏ ra chi phí để thực hiện. Đây là những khoản chi phí phục vụ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp ta thấy các chi phí luôn phát sinh dưới nhiều hình thức khác nhau từ đơn giản đến phức tạp. Các chi phí mà chúng ta nhận thấy đó là chi phí mua nguyên vật liệu, chi phí trả lương cho cán bộ công nhân viên, chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí vận chuyển bốc dở, thuế giá trị gia tăng …Vậy chi phí kinh doanh là gì? Đứng dưới góc độ khác nhau thì chi phí được hiểu theo nhiều cách khác nhau nhưng căn cứ vào nội dung kinh tế và nguồn bù đắp ta có thể chia chi phí kinh của doanh làm ba nhóm chủ yếu là chi phí đầu tư dài hạn, chi phí phúc lợi và chí phí kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó, chi phí đầu tư dài hạn được hiểu là những khoản chi phí phát sinh cần thiết để tạo ra các yếu tố của quá trình kinh doanh theo mục tiêu nhằm phục vụ cho những phương hướng kinh doanh trong tương lai của doanh nghiệp. Nhóm chi phí này bao gồm các khoản như: chi phí đầu tư xây dựng cơ bản, chi phí cho việc nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, chi phí cho việc ứng dụng thiết bị công nghệ mới, chi phí mua thêm thiết bị máy móc mới, chi phí đào tạo cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp. Chúng được trang trải từ nguồn vốn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp. Tiếp theo, là các khoản chi phí phúc lợi xã hội, đây là những khoản chi phí cho việc học tập văn hoá, thể dục thể thao, chi cho thăm quan nghĩ mát, chi cho trợ cấp khó khăn cho người lao động …và nó được bù đắp từ quỹ khen thưởng phúc lợi của doanh nghiệp. Cuối cùng, là nhóm chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Khác hoàn toàn với hai nhóm chi phí trên, nhóm chi phí này có ý nghĩa rất quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn bộ chi phí của doanh nghiệp. Nếu hai nhóm trên phục vụ cho sự phát triển lâu dài và bền vững của doanh nghiệp thì nhóm chi phí này lại phục vụ cho sư tồn tại và phát triển hiện tại của doanh nghiệp nó gắn liền với quá trình chi trả và tiêu phí các nguồn lực, tất cả các khoản chi trả và các khoản ĐINH CÔNG CHIẾN 3 LỚP : K39 - D4
  4. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH phí tổn về vật tư, tiền vốn, lao động và các yếu tố khác đã tiêu dùng cho hoạt động kinh tế của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Vậy, chi phí kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp đã bỏ ra để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định và được bù đắp bởi chính doanh thu của thời kỳ đó. Chi phí kinh doanh bao gồm hai bộ phận cấu thành: Chi phí kinh doanh hàng hoá và dịch vụ, chi phí hoạt động tài chính. Chi phí kinh doanh hàng hoá và dịch vụ là những hao phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để tiến hành các hoạt động kinh doanh hàng hoá và dịch vụ. Chi phí hoạt động tài chính là những chi phí thực hiện các hoạt động tài chính như liên doanh liên kết, cho vay và đi vay vốn… Nhóm chi phí này bao gồm toàn bộ các chi phí trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho hoạt động kinh doanh trong kỳ và nó được bù đắp từ thu nhập của doanh nghiệp trong kỳ đó. Tuy nhiên ta không nên nhầm lẫn rằng chi tiêu mà doanh nghiệp bỏ ra là chi phí kinh doanh vì chi phí kinh doanh phải là những chi phí có liên quan đến quá trình hoạt động kinh doanh và tạo ra thu nhập trong một thời kỳ đó và được bù đắp bằng chính thu nhập tạo ra từ chi phí đó. Nói một cách tổng quát thì chi phí kinh doanh là biểu hiện những hao phí lao động cá biệt mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong kỳ, chính vì vậy nó là căn cứ để xác định số phải bù đắp của doanh nghiệp và nó là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Do đó, nếu công tác quản lý chi phí không hợp lý, không đúng với bản chất sẽ gây ra việc giảm lợi nhận. Điều này được thể hiện rõ qua phương trình sau : Lợi nhuận trước thuế = Doanh thu thuần - Chi phí kinh doanh. Giả sử rằng doanh thu thuần là cố định thì việc hạ thấp chi phí kinh doanh là biện pháp tối ưu nhất để tăng lợi nhuận trước thuế. Từ đây, ta nhận thấy vấn đề cần quan tâm của các nhà quản trị tài chính đó là: Làm thế nào để luôn kiểm soát được chi phí kinh doanh nghiệp để chi phí bỏ ra được sử dụng một cách tối ưu và có hiệu quả nhất. b. Đặc điểm Chi phí kinh doanh trong ngành giao thông vận tải. Đối với các doanh ngiệp dịch vụ đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc nghành giao thông vận tải việc quản lý chi phí có sự phức tạp và khó khăn riêng. Nguyên nhân là do quá trình sản xuất, trao đổi và tiêu dùng cùng diễn ra một lúc nên sản phẩm của doanh nghiệp dịch vụ có tính vô hình, không bảo quản dự trữ được. Ở các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao thông vận tải công cộng chi phí chiếm tỷ trọng lớn là những chi phí nhiên liệu, khấu hao, tiền lương. Nó khác các doanh nghiệp dịch vụ thuộc diện sản xuất, chế biến như : ăn uống công cộng, may mặc…thì chi phí về nguyên liệu chính là chiếm tỉ trọng cao. Điều này cho ta thấy, việc quản lý chi phí trong các doanh nghiệp dịch vụ vận tải cần phải linh hoạt, chú ý quản lý tốt các trang thiết bị ĐINH CÔNG CHIẾN 4 LỚP : K39 - D4
  5. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH phục vụ khách hàng, xây dưng các định mức nhiên liệu phù hợp, cải tiến phương pháp phục vụ, nâng cao trình độ tay nghề chuyên môn kỹ thuật và tinh thần phục vụ. Ngoài ra, sản phẩm được tạo ra là vô hình, sản xuất đồng thời là tiêu thụ và không có dự trữ, không có sản phẩm dở dang. Nghành giao thông vận tải luôn là ngành tạo lập cơ sở cho mọi hoạt động khác phát triển. Nên nó mang tính xã hội càng làm cho hoạt động và quản lý chi phí thêm khó khăn và phức tạp. 1.2. Phạm vi chi phí kinh doanh Kể từ khi bước vào nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp đã có được môi trường phát triển và vươn lên tuy vậy với sự hội nhập ngày càng đầy đủ với nền kinh tế thế giới cũng đưa các doanh nghiệp vào tình thế phải cạnh tranh gay gắt với nhau mà mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Tuy vậy, một thực tế hiện nay là các doanh nghiệp luôn cố tình che dấu lợi nhuận thực tế bởi lợi nhuận đồng nghĩa với trách nhiệm nộp thếu vào ngân sách nhà nước, vì vậy xu hướng chung để đạt được điều đó là tại các doanh nghiệp trên sổ sách họ kê khai chi phí tăng cao. Tình trạng này có ở rất nhiều nước trong đó có Việt Nam do đó buộc nhà nước phải ban hành các văn bản quy phạm cụ thể về phạm vi chi phí kinh doanh phù hợp để thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Tuy phạm vi chi phí là rất đa dang và phức tạp, nó lại thường mang đặc điểm riêng của từng nghành, vì vậy phạm vi chi phí mà Bộ Tài Chính ban hành đã cố gắng phản ánh đúng bản chất kinh tế đã là một nổ lực rất lớn khi mà các văn bản của nước ta phần lớn đều chưa hoàn thiện và sửa đổi liên tục. Trong một thời kỳ nhất định có thể nhận thấy rằng có rất nhiều loại chi tiêu bằng tiền bằng vật chất khác không phải là chi phí của doanh nghiệp trong thời kỳ đó, yêu cầu cơ bản nhất của việc xác định đúng đắn phạm vi chi phí kinh doanh là phải tập hợp đầy đủ, chính xác kịp thời các chi phí phát sinh trong kỳ liên quan đến hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp trong kỳ đó. Về nguyên tắc, chi phí kinh doanh được bù đắp từ doanh thu của doanh nghiệp trong kỳ. Theo chế độ hiện hành phạm vi chi phí kinh doanh được quy định như sau : -Chi phí về vật tư ( Nguyên liệu, vật liệu, động lực..): Biểu hiện bằng tiền của nguyên vật liệu, nhiên liệu, động lực đã sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường của doanh nghiệp trong kỳ. -Chi phí tiền lương: Bao gồm toàn bộ tiền lương tiền công và các khoản chi phí có tính chất lương trả cho người lao động. -Các khoản trích nộp theo quy định hiện hành của Nhà Nước như: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn. -Khấu hao tài sản cố định: Đó là số tiền trích khấu hao tài sản cố định của doanh nghiệp được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ở kỳ hoạch toán. ĐINH CÔNG CHIẾN 5 LỚP : K39 - D4
  6. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH -Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là các chi phí trả cho tổ chức, cá nhân bên ngoài doanh nghiệp về các dịch vụ mà họ đã cung cấp theo yêu cầu của doanh nghiệp như chi phí vận chuyển, điện nước, chi phí kiểm toán, chi phí quảng cáo, hoa hồng đại lý, uỷ thác, môi giới… -Chi phí bằng tiền khác như thếu muôn bài, thếu tài nguyên, nhà đất, phí cầu đường, chi phí tiếp dân… -Chi phí dự phòng là các khoản trích dự phòng giảm giá vật tư, hàng hoá, nợ khó đòi được hạch toán vào chi phí trong kỳ của doanh nghiệp theo quy định. -Chi phí phát sinh từ các hoạt động tài chính như: Chi phí trả lãi tiền vay, thuê tài sản, mua bán chứng khoán, liên doanh - liên kết, chiết khấu thanh toán trả cho người mua khi họ thanh toán tiền hàng hoá - dịch vụ trước hạn và các chi phí hoạt động tài chính khác. Vậy chi phí chỉ được tính vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp khi nó trực tiếp hoặc gián tiếp phát sinh phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và được bù đắp bằng doanh thu của kỳ đó. Ngoài ra, theo yêu cầu của chế độ hoạch toán và chế độ quản lý của nhà nước chi phí phòng cháy chữa cháy, phòng chống bão lụt, dân quân tự vệ …cũng được tính vào chi phí kinh doanh. Các khoản chi phí không thuộc phạm vi chi phí kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm: -Chi phí đầu tư dài hạn của doanh nghiệp như: Chi xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định, đào tạo dài hạn, nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ nhóm chi phí này được bù đắp từ nguồn vốn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp, nên không phải là chi phí kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. - Chi phúc lợi xã hội như văn hoá, thể thao, y tế, vệ sinh, tiền thưởng, ủng hộ nhân đạo…nó được bù đắp bằng nguồn quỹ trong doanh nghiệp. -Các khoản chi phí liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhưng do lỗi chủ quan của doanh nghiệp không được tính vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp như: Chi phí hao hụt định mức, tiền phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế, chậm nộp thuế, chi phí trả lãi tiền vay quá hạn, chi phí giao dịch tiếp khách vượt quy định… Khi đã xác định được phạm vi chi phí kinh doanh thì doanh nghiệp còn cần lưu ý: -Các khoản chi phí không được tính vào chi phí kinh doanh hợp lệ như sau: Những khoản chi phí trích trước vào chi phí mà thực tế không phát sinh, những khoản chi phí không có chứng từ hoặc chứng từ không hợp lệ, các khoản chi do nguồn khác đài thọ… -Những khoản không được ghi vào chi phí kinh doanh như: Những thiệt hại trong kinh doanh như thiên tai, hoả hoạn, động đất…được chính phủ tài trợ hoặc cho phép ghi giảm vốn hoặc đã được bên gây thiệt hại bồi thường hoặc công ty bảo hiểm bồi thường. * Ý nghĩa kinh tế của việc xác định phạm vi chi phí: ĐINH CÔNG CHIẾN 6 LỚP : K39 - D4
  7. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH -Đối với doanh nghiệp: Làm căn cứ để doanh nghiệp làm công tác kế hoạc hoá, tập hợp chi phí phát sinh trong kỳ và xác định đúng chi phí đã bỏ ra. Ngoài ra, làm căn cứ để doanh nghiệp kiểm tra, phân tích, đánh giá công tác quản lý chi phí của doanh nghiệp, tìm ra được các biện pháp tốt nhất nhằm giảm chi phí, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. - Đối với nhà nước: Làm cở sở để nhà nước kiểm tra các hoạt động quản lý chi phí nói riêng và quản lý sản xuất kinh doanh nói chung của doanh nghiệp, tính toán chính xác các khoản nộp thuế ngân sách nhà nước đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp. 2. PHÂN LOẠI CHI PHÍ KINH DOANH. 2.1. Phân loại theo nội dung kinh tế. Các chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra là để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh, trong các hoạt động kinh doanh ta có thể chia ra từng công đoạn. Theo nội dung kinh tế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bắt đầu từ việc hình thành sản phẩm đến việc tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí như: Nguyên vật liệu, khấu hao tài sản cố định, lương công nhân, dịch vụ mua ngoài và các khoản chi bằng tiền khác để hoạt động kinh doanh có thể thực hiện. Những khoản chi phí đó cụ thể như sau. *Chi phí nguyên vật liệu. Nguyên vật liệu chính là những nguyên vật liệu sau quá trình gia công chế biến sẽ cấu thành nên thực thể vật chất chủ yếu của sản phẩm. Tuy nhiên trong quá trình sản xuất nguyên vật liệu chính còn bao gồm cả bán thành phẩm mua ngoài để tiếp tục chế biến. Nguyên vật liệu phụ là những nguyên vật liệu chỉ có tác dụng phụ trợ trong sản xuất, được sử dụng kết hợp với vật liệu chính để làm thay đổi hình dáng màu, sắc mùi vị hay dùng để bảo quản phục vụ cho hoạt động của các tư liệu lao động hay phục vụ cho lao động của công nhân viên chức trong doanh nghiệp. Vật liệu phụ ở đây bao gồm: Dầu nhờn, hồ keo, thuốc nhuộm, tẩy… Nhiên liệu bao gồm những thứ dùng để cung cấp nhiệt lượng trong quá trình sản xuất kinh doanh như xăng dầu, khí đốt, than đá. Ngoài ra, chúng ta còn có thể phân loại chi phí nguyên vật liệu thành chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nguyên vật liệu gián tiếp. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính và nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu… tham gia trực tiếp vào việc sản xuất chế tạo sản phẩm hay thực hiện dịch vụ. Chi phí nguyên vật liệu gián tiếp là những loại vật liệu được sử dụng để kết hợp với nguyên vật liệu chính làm tăng thêm chất lượng của sản phẩm cũng như vẻ đẹp của sản phẩm để sản phẩm có thể tồn tại và cạnh tranh được với những sản phẩm cùng loại trên thị trường hoặc để tạo cho quá trình sản xuất được thuận lợi. Giá trị của nguyên vật liệu bao gồm cả chi phí thu mua, vận chuyển, bảo quản và hao hụt định mức trong quá trình vận chuyển. ĐINH CÔNG CHIẾN 7 LỚP : K39 - D4
  8. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH Đối với doanh nghiệp dịch vụ chi phí vật liệu bao gồm cả chi phí mua ngoài và các công cụ không nhỏ thuộc về tài sản cố định, phụ tùng thay thế mua ngoài để thay thế sửa chữa tài sản cố định. Tóm lại, chi phí nguyên vật liệu là bộ phận cấu thành nên giá của sản phẩm kinh doanh vì vậy việc phân biệt chi phí nguyên vật liệu giúp công tác kế hoạch chi phí, quản lý chi phí tiết kiệm tránh lãng phí, giúp cho doanh nghiệp có thể thực hiện việc hạ giá thành sản phẩm. *Chi phí nhân công. Chi phí công nhân bao gồm tiền lương chính, lương phụ của người lao động, công nhân viên trong doanh nghiệp do quỹ tiền lương của doanh nghiệp chi trả và khoản bảo hiểm xã hội tính theo tỷ lệ % theo quy định trên cơ sở tiền lương được hưởng. Tiền lương được tính theo lương cấp bậc, chức vụ, theo ngạch bậc lương theo quy định 26/CP của chính phủ hoặc tiền lương tính theo kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Tiền lương trả cho công nhân trực tiếp có thể là lương khoán theo doanh thu, khoán theo khối lượng hàng hoá tiêu thụ, lượng thời gian. Tùy từng doanh nghiệp khác nhau mà các hình thức trả lương khác nhau cho phù hợp với tình hình và đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp dịch vụ như công ty vận chuyển thì việc áp dụng theo hình thức khoán theo khối lượng hàng hoá vận chuyển, kết hợp với chế độ tiền thưởng để khuyến khích người lao động hăng say làm việc. Lương tháng là tiền lương trả cho công nhân viên theo tháng hoặc theo bậc lương đã sắp xếp, người hưởng lương sẽ nhận được tiền lương theo cấp bậc và các khoản phụ cấp nếu có. Lương này là tiền lương trả cho người lao động theo mức lương tháng và số ngày làm việc trong tháng và được tính: Đơn giá tiền Lương cấp bậc lương theo = thời gian số ngày lao động định mức Lương tháng theo = từng người Đơn giá tiền lương x Số ngày làm việc thực tế Hình thức trả lương theo thơi gian đơn giản dễ tính, ít tốn thời gian tính toán và chi phí phát sinh khác song hình thức trả lương này lại không khuyến khích người lao động tăng năng suất công việc. Bên cạnh chế độ tiền lương, thưởng được hưởng trong quá trình sản xuất kinh doanh người lao động còn được hưởng các khoản trợ cấp thuộc quỹ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội…trong các trường hợp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động…Các quỹ này hình thành một phần do người lao động đóng góp và phần còn lại được tính vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Quỹ ĐINH CÔNG CHIẾN 8 LỚP : K39 - D4
  9. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH bảo hiểm y tế được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ quy định trên tổng quỹ lương cấp bậc và các khoản phụ cấp của người lao động trên thực tế phát sinh trong tháng. Theo chế độ hiện hành tỷ lệ trích bảo hiểm xã hội là 20 % trên trên cơ sở quỷ lương của doanh nghiệp trong đó 15 % là do đơn vị chủ sử dụng lao động nộp và được tính vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp, còn 5 % trên lương là do người lao động đóng góp và được trích trừ vào lương tháng của người lao động. Quỹ bảo hiểm xã hội được chi tiêu trong trường hợp người lao động ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí…quỹ này do cơ quan bảo hiểm xã hội quản lý. Vì vậy, theo pháp luật quy định thì công ty phải ký hợp đồng lao động và trình lên sở lao động thương binh và xã hội để làm căn cứ lập sổ bảo hiểm xã hội. Sổ này ghi mức đóng góp của người lao động trong suốt thời gian lao động và làm căn cứ tính trợ cấp bảo hiểm xã hội sau này. Hàng quý doanh nghiệp phải thanh toán với công ty bảo hiểm một lần về số bảo hiểm chi tại doanh nghiệp và số bảo hiểm phải nộp theo quy định hiện hành. Quỹ bảo hiểm y tế được sử dụng để thanh toán các khoản khám chữa bệnh cho người lao động trong thời gian ốm đau, thai sản…quỹ này được hình thành bằng cách trích lập theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương của người lao động thực tế phát sinh trong tháng. Tỷ lệ trích bảo hiểm y tế hiện hành là 3% trong đó 2 % tính vào chi phí kinh doanh và 1 % tính trừ vào lương của người lao động. Quỹ kinh phí công đoàn được dùng để hổ trợ cho người lao động duy trì các hoạt động công đoàn trong doanh nghiệp nhằm giúp đỡ nhau phát triển chuyên môn và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động. Hiện nay doanh nghiệp được phép trích 2% trên cơ sở quỹ lương tính vào chi phí. Như vậy, tổng cộng 3 quỹ trên doanh nghiệp được phép trích 25 % trên tổng quỹ lương trong đó tính vào tính vào chi phí của doanh nghiệp là 19 % và trừ vào lương của người lao động 6 %. Từ đó, doanh nghiệp có kế hoạch và thực hiện việc tổ chức lao động tiết kiệm và hợp lý hơn để nâng cao năng suất lao động và tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp. *Chi phí khấu hao tài sản cố định. Trong quá trình bảo quản và sử dụng tài sản cố định luôn bị hao mòn. Hao mòn là do sự giảm dần giá trị tài sản cố định do tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, do hao mòn tự nhiên và do tiến bộ khoa học kỹ thuật … căn cứ vào nguyên nhân gây ra sự hao mòn đó người ta chia tài sản cố định thành hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, do quá trình sử dụng tài sản cố định hoặc những bộ phận chi tiết của chúng không còn giữ nguyên trạng thái ban đầu mà bị hư hỏng dần, giá trị sử dụng của chúng giảm theo thời gian. Hao mòn vô hình là do tiến bộ khoa học kỹ thuật, khoa học kỹ thuật phát triển dẫn đến năng suất lao động tăng lên, giá thành sản xuất giảm xuống. Từ đó trên thị trường xuất hiện những tài sản cố định mới tuy có cùng ĐINH CÔNG CHIẾN 9 LỚP : K39 - D4
  10. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH thông số kỷ thuật nhưng giá bán lại thấp hơn hay có thông số kỷ thuật tiến bộ hơn nhưng giá bán lại không cao hơn…Nói chung hao mòn vô hình liên quan đến sự mất giá của tài sản cố định và không liên quan đến hao mòn vật chất của nó vì thế có những tài sản cố định do chậm đem ra sử dụng đã bị hao mòn vô hình. Khi tài sản cố định được sử dụng vào sản xuất kinh doanh thì sự chuyển dịch giá trị hao mòn của nó vào chi phí của đối tượng sử dụng tài sản cố định và được gọi là khấu hao. Khấu hao là việc tính toán và phân bổ một cách có hệ thống nguyên giá của tài sản cố định vào chi phí kinh doanh qua thời gian sử dụng của tài sản cố định. Tuy nhiên không phải bất cứ tài sản cố định nào cũng được phép trích khấu hao mà chỉ có những tài sản cố định liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh thì mới được phép trích khấu hao, mức trích khấu hao được hoạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ. Chi phí khấu hao là khoản tiền trích ra do tài sản cố định bị hao mòn trong quá trình sử dụng, dùng để tái sản xuất tài sản cố định của đơn vị theo đặc điểm của việc hình thành và sử dụng quỹ khấu hao. Nguyên giá tài sản cố định được lấy làm căn cứ để tính khấu hao và nó là toàn bộ lượng giá trị đã đầu tư vào tài sản cố định tính đến thời điểm tài sản cố định chính thức phục vụ sản xuất kinh doanh bao gồm chi phí thực tế đã chi ra để có được tài sản cố định cho tới khi đưa tài sản cố định vào hoạt động bình thường như giá mua, chi phí vận chuyển, lắp đặt, chạy thử...gồm tài sản cố định mua ngoài và tài sản cố định thuê tài chính. Việc lựa chọn phương pháp khấu hao nào là do quy định của nhà nước về chế độ quản lý tài chính đối với doanh nghiệp và theo yều cầu quản lý của doanh nghiệp. Phương pháp khấu hao phải đảm bảo được yêu cầu thu hồi vốn đầy đủ và phù hợp với đặc điểm từng nghành kinh tế. Trong thực tế, phần giá trị hao mòn (hay phần giá trị tài sản cố định được phân bổ) được ghi nhận trong chi phí sản xuất kinh doanh hay giá trị sản phẩm dịch vụ được tạo ra được coi là một yếu tố chi phí và được gọi là chi phí khấu hao tài sản cố định. Bộ phận chi phí này thể hiện dưới hình thái tiền tệ và được gọi là tiền khấu hao. Sau khi sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được tiêu thụ số tiền khấu hao được tích luỹ lại và trở thành nguồn tài chính quan trọng để đảm bảo tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định của doanh nghiệp. Khi chưa có nhu cầu đầu tư tài sản cố định, nguồn vốn được thu hồi bằng việc khấu hao tồn tại dưới hình thái là một bộ phận tài sản lưu động của doanh nghiệp và được sử dụng linh hoạt. Ngoài ra, nguồn vốn khấu hao còn được dùng chi phí cho hoạt động sửa chữa lớn để khôi phục lại giá trị hao mòn, việc thực hiện sửa chữa lớn có thể do doanh nghiệp tiến hành hoặc thuê ngoài. Từ đó, doanh nghiệp phải xác định được khoản khấu hao hợp lý vừa đảm bảo thu hồi vốn nhanh vừa đảm bảo mức chi phí đó không làm đội mức chi phí của doanh nghiệp lên làm ảnh hưởng tới tổng chi phí của doanh ĐINH CÔNG CHIẾN 10 LỚP : K39 - D4
  11. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH nghiệp và ảnh hưởng tới lợi nhuận. Chi phí khấu hao tài sản cố định đối với doanh nghiệp sản xuất chiếm tỷ trọng lớn và cần thực hiện quản lý tốt. * chi phí dịch vụ mua ngoài. Là các khoản chi phí mua ngoài phục vụ cho doanh nghiệp như chi phí thêu ngoài sửa chữa tài sản cố định, tiền thêu kho, tiền bốc vác, vận chuyển hàng hoá để tiêu thụ, hoa hồng cho các đại lý và cho nhận uỷ thác xuất nhập khẩu, chi phí lãi vay… Chi phí thuê ngoài sửa chữa tài sản cố định ở đây là hoạt động thuê sửa chữa nhỏ tài sản cố định của doanh nghiệp và mang tính thường xuyên. Đây là toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để thuê sửa chữa và chi phí mua các phụ kiện vật liệu thay thế sửa chữa. Chi phí thuê ngoài do hai bên thoả thuận trước và thực hiện khi doanh nghiệp không có chức năng sửa chữa hoặc khi điều kiện không cho phép doanh nghiệp tự sửa chữa như khoảng cách, kỷ thuật, con người… Cước phí vận chuyển là khoản chi trả cước phí vận chuyển thuê ngoài và toàn bộ chi phí về tiền lương, bảo hiểm xã hội, khấu hao, nhiên liệu cho phương tiện vận chuyển chuyên dùng của doanh nghiệp. các phương tiện vận chuyển thuê ngoài thì doanh nghiệp phải trả tiền cho chủ phương tiện. Chi phí bốc dở, khuân vác là khoản chi phí thuê công nhân bốc dở, khuân vác hàng hoá lên phương tiện vận chuyển hoặc sang phương tiện vận chuyển khác. Các chi phí vận tải khác là số tiền chi phí thuê bao bì, bến bãi tạm thời, tiền thuê đò phà, các khoản chi phí cần thiết khác để bảo quản hàng hoá trong quá trình vận chuyển, chi phí này theo tỷ lệ phần trăm cước phí vận chuyển. Chi phí hoa hồng là khoản tiền mà doanh nghiệp phải trả cho tập thể hoặc cá nhân bán hàng đại lý cho doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải thì chi phí hoa hồng là khoản tiền doanh nghiệp trả cho người môi giới của doanh nghiệp. Khoản hoa hồng này có thể tính bằng % trên giá bán hoặc tính phần trăm trên hợp đồng thêu xe hoặc theo thoả thuận giữa doanh nghiệp với đại lý, môi giới. Tiền thuê kho, thuê bãi có thể tính theo ngày thuê cũng có thể tính theo diện tích mặt bằng thuê, thoả thuận giữa doanh nghiệp với bên cho thuê. Chi phí lãi vay là khoản chi phí doanh nghiệp phải trả cho việc huy động vốn phục vụ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm cả vay ngắn hạn và vay dài hạn. Như vậy, đối với doanh nghiệp thì chi phí dịch vụ mua ngoài chiếm tỷ trọng vừa phải song nhiều khoản kho hoạch toán, doanh nghiệp cần phân loại rõ ràng từng khoản chi phí để quản lý tốt tránh lãng phí thất thoát, giảm giá thành sản phẩm. * Chi phí bằng tiền khác. ĐINH CÔNG CHIẾN 11 LỚP : K39 - D4
  12. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH Là khoản chi ngoài các khoản chi ở trên, phát sinh trong quá trinh kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí tiếp khách, quảng cáo, hội nghị, đồ dùng văn phòng…khoản chi phí này thực tế phát sinh tại mọi doanh nghiệp và không có định mức cụ thể để quản lý. Các khoản chi phí như vệ sinh quét dọn, quãng cáo, tiếp khách và giao dịch góp phần mang lại cho doanh nghiệp uy tín, thương hiệu và có thể là các hoạt động kinh tế trong tương lai, chi phí này ngày càng trở nên cần thiết đối với doanh nghiệp trong thời kinh tế hiện nay. Chi phí giới thiệu hàng hoá như hội trợ, triển lãm, khuyến mại thúc đẩy doanh nghiệp tiêu thụ hàng hoá nâng cao lợi nhuận. Trong doanh nghiệp thì khoản chi phí này không có định mức cụ thể người quản lý phải quản lý khoản chi phí này phù hợp để vừa giảm chi phí, không lãng phí song không ảnh hưởng đến công việc thường xuyên của doanh nghiệp mang lại lợi ích cao nhất cho doanh nghiệp. 2.2. Phân loại theo sự biến đổi của chi phí so với sự biến đổi doanh thu . Chi phí của doanh nghiệp bỏ ra nhằm mang lại doanh thu và lợi nhuận, căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí kinh doanh và doanh thu đạt được hay mức độ hoạt động của doanh nghiệp, có thể chia chi phí thành hai loại là chi phí bất biến và chi phí khả biến. * Chi phí bất biến (hay chi phí cố định). Chi phí bất biến là những chi phí không thay đổi (hoặc thay đổi không đáng kể) theo sự thay đổi của quy mô sản xuất kinh doanh (hay doanh thu) của doanh nghiệp bao gồm các chi phí như: Chi phí khấu hao tài sản cố định( theo thời gian), chi phí tiền lương trả cho cán bộ công nhân viên quản lý, chi phí thuê tài sản, văn phòng, chi phí lãi vay phải trả, chi phí bão dưỡng máy móc thiết bị… Tổng định phí của doanh nghiệp thường không thay đổi nhưng định phí tính cho một đơn vị sản phẩm đạt được thì thay đổi, nếu mức kết quả đạt được cao thì định phí cho một đơn vị giảm xuống và ngược lại, tổng định phí không biến đổi trong hạn mức giới hạn nhất định khi vượt qua mức đó thì định phí sẽ thay đổi. Căn cứ vào mối quan hệ của định phí đối với mức hoạt động ta có thể chia định phí làm hai loại: - Định phí bắt buộc: Là khoản chi phí không thể thay đổi được của doanh nghiệp dù doanh nghiệp có hoạt động hay không doanh nghiệp vẫn phải trả khoản chi phí này, chi phí thường liên quan đến cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp như chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí trả tiền thuê đất, thuê văn phòng, chi phí lãi vay, lương quản lý…đây là loại chi phí mà doanh nghiệp không thể hạ thấp về không được. - Định phí tuỳ ý là những khoản chi phí có thể thay đổi bằng các quyết định của nhà quản trị như : Chi phí quảng cáo, chi phí nghiên cứu khoa học. ĐINH CÔNG CHIẾN 12 LỚP : K39 - D4
  13. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH Chi phí định phí X0 X1 Mức hoạt động Tóm lại, do bản chất khó thay đổi của định phí nên nếu muốn thay đổi doanh nghiệp phải gán với các kế hoạch dài hạn của doanh nghiệp. Định phí là bộ phận chủ yếu trong chi phí của doanh nghiệp nên trong công tác quản lý và kế hoạch doanh nghiệp cần tính toán giảm tối đa định phí có thể theo hướng dài hạn. *Chi phí khả biến( hay chi phí biến đổi). Chi phí biến đổi là chi phí thay đổi khi trực tiếp theo sự thay của doanh thu hay quy mô sản xuất, bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu, chi phí dịch vụ được cung cấp như tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại, lương theo sản phẩm… Tổng chi phí khả biến của doanh nghiệp luôn thay đổi theo hướng thay đổi của doanh thu, khi doanh thu tăng thì đồng nghĩa với tổng chi phí tăng lên và ngược lại, trên lý thuyết thì biến phí có thể giảm tới không đó là khi doanh nghiệp không hoạt động. Căn cứ vào mối quan hệ giữa biến phí và doanh thu hay mức độ hoạt động của doanh nghiệp ta chia biến phí thành: - Biến phí tỷ lệ là những khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận với biến động của mức độ sản xuất kinh doanh như: Chi phí nguyên vật liệu, chi phí lương công nhân trực tiếp theo sản phẩm… - Biến phí cấp bậc là các khoản chi phí có thể thay đổi khi mức hoạt động của doanh nghiệp thay đổi rỏ rệt, đột biến vượt qua một giới hạn nào đó, biến phí này sẻ không thay đổi khi mức độ hoạt động sản xuất kinh doanh thay đổi ít như tiền thuê phương tiên vận tải quy định như sau: 20triệu/ tháng nếu chạy dưới 20.000 km/tháng nếu lớn hơn 20.000 km/tháng tính theo luỹ tiến 500km phải trả 50 nghìn đồng… Trên thực tế, trong doanh nghiệp không phải lúc nào chi phí cũng có thể phân chia rỏ rệt như trên có những chi phí vừa mang tính chất của định phí vừa mang tính chất của biến phí như chi phí điện, chi phí điện thoại…do vậy việc phân chia chỉ mang tích tương đối. Nhưng việc phân chia này giúp doanh nghiệp thấy được xu hướng biến đổi cửa từng chi phí theo quy mô kinh doanh, từ đó doanh nghiệp có thể xác định sản lượng hoà vốn cũng như quy mô kinh doanh hợp lý để đạt hiệu quả cao nhất. Tỷ trọng về chi phí khả biến và chi phí bất biến luôn thay đổi khi khối lượng sản phẩm lao vụ tăng lên. Hiện nay các doanh nghiệp đang có xu hướng tăng chi phí cố định lên với lý do trong nền kinh tế thị trường để cạnh ĐINH CÔNG CHIẾN 13 LỚP : K39 - D4
  14. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH tranh tốt doanh nghiệp phải mua sắm trang thiết bị hiện đại, điều này đồng nghĩa với đầu tư thiết bị máy móc tăng làm cho chi phí cố định tăng lên. Hiện nay, xu hướng tăng dần tỷ trọng chi phí cố định so với chi phí biến đổi có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc phát triển lâu dài và cơ bản của doanh nghiệp. Nhưng khi chi phí cố định tăng cao hơn chi phí biến đổi thì khi nhà quản trị lập kế hoạch chi phí dễ bị động và có ít sự lựa chọn và giải pháp có thể quyết định cũng như hoạt động tiết kiệm chi phí của doanh nghiệp cũng khó thực hiện. 2.3. Phân loại theo các khâu kinh doanh. Các khâu kinh doanh trong doanh nghiệp gồm có sản xuất, tiêu thụ và công tác quản lý các hoạt động đó, để thực hiện điều đó doanh nghiệp phải bỏ ra chi phí. Phân loại theo cách này ta chia chi phí thành : Chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ và chi phí quản lý. * Chi phí sản xuất. Phân loại chi phí theo tiêu thức này, toàn bộ chi phí sản xuất của doanh nghiệp được chia thành các yếu tố như sau: - Nguyên liệu chính mua ngoài: Là toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính dùng vào sản xuất mà doanh nghiệp phải mua từ bên ngoài, bao gồm mua nguyên vật liệu, chi phí vận chuyển về kho, hao hụt định mức. - Vật liệu phụ mua ngoài bao gồm các loại nhiên liệu như than, củi, điện, dầu nhờn…mua từ bên ngoài dùng cho sản xuất của doanh nghiệp. - Tiền lương bao gồm lương chính lương phụ của cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp. - Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là số tiền tính theo tỷ lệ quy định trên quỹ lương của doanh nghiệp trợ cấp mất sức lao động, hưu trí, ốm đau, tai nạn… của công nhân. - Khấu hao tài sản cố định là số tiền khấu hao những tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Các chi phí khác bằng tiền bao gồm những chi phí về tiền mặt mà theo tính chất kinh tế thì không thể sắp xếp vào các yếu tố kể trên như tiền công tác phí, chi phí nước… Chi phí sản xuất là bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá thành sản phẩm và cũng là bộ phận chi phí chủ yếu trong doanh nghiệp việc xác định rỏ từng bộ phận cấu thành để quản lý tốt tránh lãng phí và có thể thực hiện tốt việc hạ giá thành sản phẩm. * Chi phí tiêu thụ sản phẩm. Trong sản xuất hàng hoá của nền kinh tế thị trường thì việc tiêu thụ sản phẩm đối với các doanh nghiệp là hết sức quan trọng. Khối lượng lượng hàng hoá tiêu thụ là nhân tố quan trọng quyết định đến quy mô sản xuất kinh doanh và lợi nhuận cuối cùng của doanh nghiệp. Để thực hiện việc tiêu thụ ĐINH CÔNG CHIẾN 14 LỚP : K39 - D4
  15. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí cần thiết. Chi phí tiêu thụ sản phẩm bao gồm chi phí liên quan trực tiếp đến tiêu thụ sản phẩm và chi phí cho việc mở rộng thị trường và nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Chi phí trực tiếp tiêu thụ sản phẩm là những chi phí trực tiếp liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm phát sinh trong quá trình chuyển sản phẩm từ doanh nghiệp tới tay người mua gồm chi phí: - Chi phí khấu hao tài sản cố định ở bộ phận bảo quản và bộ phận bán hàng như kho tàng, cửa hàng, phương tiện vận chuyển bốc dở hàng hoá. -Chi phí đóng gói sản phẩm là những chi phí bao gói sản phẩm thành từng lô, từng kiện để bảo quản và thuận tiện trong chuyên chở. - Chi phí vận chuyển sản phẩm đến tay người mua. - Chi phí bảo quản sản phẩm kể từ xuất kho gửi đi bán, chi phí mua ngoài như chi phí bốc dở ở nơi sân ga bến cảng, thuê kho bãi, hoa hồng đại lý bán hàng, hoa hồng uỷ thác xuất nhập khẩu… Những chi phí trên đây là những chi phí mà doanh nghiệp có thể phải trả hoặc do người mua trả do thoả thuận hai bên trong đàm phán ký kết hợp đồng. Khi doanh nghiệp phải thanh toán tiền vận chuyển thì việc lựa chọn hình thức vận chuyển phù hợp có thể làm doanh nghiệp giảm bớt chi phí đặc biệt là trong buôn bán xuất nhập khẩu. Chi phí tiêu thụ trong doanh nghiệp dịch vụ được tính trực tiếp hoặc phân bổ cho khối lượng sản phẩm đã tiêu thụ. Chi phí nhằm nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm là những chi phí cho việc nghiên cứu thị trường, chi phí cho việc đàm phán ký kết hợp đồng và các chi phí khác nhằm mở rộng thị trường. - Chi phí cho công tác điều tra, nghiên cứu thị trường gồm chi phí thu thập thông tin, phân tích thông tin…giúp cho công việc ra quyết định kinh doanh. - Chi phí cho đàm phán ký kết hợp đồng, việc đàm phán ký kết hợp đồng có thể tự doanh nghiệp thực hiện khi đó chi phí đàm phán gồm chi phí đi lại, ăn ở, công tác phí còn khi nhờ môi giới doanh nghiệp mất chi phí môi giới. - Chi phí cho quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hội trợ triển lãm nhằm mở rộng thị trường và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm gồm các chi phí như thuê quản cáo, chi phí thuê triển lãm, chi phí thực hiện tiếp thị khuyến mại và chi phí về hàng tiếp thị khuyến mại, tặng kèm… Chi phí tiêu thụ sản phẩm là yếu tố quyết định việc tiêu thụ sản phẩm được tiến hành tốt hay không. Trong các yếu tố cấu thành nên chi phí tiêu thụ sản phẩm có nhiều yếu tố khó định mức vì vậy việc quản lý chi phí tiêu thụ cần thực hiện tốt tránh lãng phí và không ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm. * Chi phí quản lý. ĐINH CÔNG CHIẾN 15 LỚP : K39 - D4
  16. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH Chi phí quản lý của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền về toàn bộ lao động sống và lao động vật hoá phát sinh ở bộ máy quản lý của doanh nghiệp. Đây là chỉ tiêu tương đối quan trọng đối với các doanh nghiệp nó phục vụ cho bộ máy điều hành hoạt động của doanh nghiệp. Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm : - Chi phí nhân viên quản lý: Là khoản tiền mà doanh nghiệp phải trả cho cán bộ công nhân viên quản lý như tiền lương, phụ cấp và các khoản tính theo lương. - Chi phí đồ dùng văn phòng là toàn bộ chi phí về đồ dùng văn phòng xuất dùng như giấy, bút, mực…sửa chữa cho tài sản cố định, công cụ, dụng cụ, đồ dùng trong quản lý. - Chi phí khấu hao ở bộ phận quản lý doanh nghiệp là chi phí về những hao mòn của tài sản cố định dùng cho bộ phận quản lý như văn phòng làm việc phương tiện, máy móc, thiết bị truyền dẫn… - Chi phí bằng tiền khác như điện, nước, điện thoại. Chi phí quản lý doanh nghiệp là bộ phận gián tiếp của chi phí kinh doanh, tỷ trọng của bộ phận này trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh và trình độ tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài các mục chi phí ở trên trong doanh nghiệp còn các khoản chi phí thường xuyên sau: - Chi phí dự phòng như chi phí dự phòng giảm giá hàng tồn kho, chi phí dự phòng phải thu khó đòi và khoản chi phí dự phòng giảm giá chứng khoán. - Chi phí cho hoạt động tài chính như mua cổ phiếu, đầu tư chứng khoán, chi phí cho vay vốn, chi phí để vay vốn. Tóm lại, nếu phân loại chi phí kinh doanh một cách hợp lý và khoa học sẽ có ý nghĩa to lớn trong công tác quản lý kinh tế của doanh nghiệp thuận lợi cho quá trình kiểm soát các chi phí phát sinh. Phân loại chi phí theo các tiêu thức khác nhau nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý chi phí, xác định hướng phấn đấu tiết kiệm chi phí kinh doanh và đề ra các biện pháp tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận. 3. CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ CƠ BẢN CỦA CHI PHÍ KINH DOANH. Để đánh giá, phân tích đầy đủ tình hình thực hiện chi phí của doanh nghiệp các nhà quản trị cần sử dụng một loạt các chỉ tiêu có quan hệ với nhau mà qua đó chúng ta có thể phản ánh được những tính chất cơ bản và quan trọng nhất của quá trình thực hiện chi phí. Mục đích của các chi tiêu sẽ giúp cho các nhà quản trị hạn chế tối đa tính chất định tính khi đề ra các mục tiêu mà cố gắng lượng hoá cụ thể bằng những con số sẽ giúp cho người thực hiện xác định được công việc cần thực hiện, để thực hiện mục tiêu đã đề ra. Các chỉ tiêu vừa phải dể tính dể hiểu và thể hiện tổng quát. 3.1. Tổng chi phí kinh doanh. ĐINH CÔNG CHIẾN 16 LỚP : K39 - D4
  17. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH Tổng chi phí kinh doanh là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh toàn bộ chi phí kinh doanh phát sinh trong kỳ được kết chuyển (phân bổ) cho hàng hoá dịch vụ đã tiêu thụ trong kỳ của doanh nghiệp.Tổng chi phí kinh doanh được xác định trên cơ sở tính toán và tổng hợp từng khoản mục chi phí cụ thể, việc này phải dựa vào việc tính toán và xác định từng khoản mục chi phí thực tế đã phát sinh và phù hợp. Tổng chi phí kinh doanh phân bổ cho hàng hoá- dịch vụ tiêu thụ trong kỳ được tính bằng công thức: F =Fdk + Fps - Fck Trong đó: F: Là tổng chi phí kinh doanh phân bổ cho hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ trong kỳ. Fdk: Là số dư chi phí kinh doanh đầu kỳ. Fps: Là tổng chi phí kinh doanh phát sinh trong kỳ. Fck: Là tổng chi phí kinh doanh phân bổ cho hàng hoá dự trữ cuối kỳ. Tổng chi phí kinh doanh là một số tuyệt đối tính bằng tiền phản ánh quy mô của chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được bù đắp từ doanh thu của doanh nghiệp trong kỳ hạch toán. Song chưa phản ánh được trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp phục vụ sản xuất kinh doanh là thấp hay cao. Để khắc phục điều này ta sử dụng chỉ tiêu tỷ suất chi phí kinh doanh. 3.2. Tỷ suất chi phí kinh doanh: Nếu tổng chi phí kinh doanh là chỉ tiêu phản ánh về chiều rộng mức độ bỏ ra của chi phí trong kỳ thì chỉ tiêu tỷ suất chi phí lại phản ánh về chiều sâu, chất lượng sử dụng chi phí của doanh nghiệp. Nhìn vào chỉ tiêu tổng chi phí kinh doanh, doanh nghiệp sẽ thấy được tổng cộng chi phí doanh nghiệp bỏ ra để có được doanh thu trong kỳ, còn chỉ tiêu tỷ suất chi phí có thể đánh giá được hiệu quả sử dụng chi phí của doanh nghiệp so với doanh nghiệp khác cùng điều kiện hoặc so với kỳ gốc, đây là chỉ tiêu tương đối và được tính bằng tỷ lệ phần trăm (%) của chi phí trên doanh thu bán hàng thể hiện bằng công thức: F F/ = x 100 M Trong đó: F/ : Là tỷ suất chi phí kinh doanh trong kỳ ( tính bằng %). F : Là tổng chi phí kinh doanh phân bổ cho hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ trong kỳ. M : Tổng doanh thu hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ trong kỳ. ĐINH CÔNG CHIẾN 17 LỚP : K39 - D4
  18. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH Chỉ tiêu này phản ánh mối qua hệ giữa tổng mức chi phí kinh doanh với doanh thu tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ trong kỳ. Nó phản ánh cứ 100 đồng doanh thu thì có bao nhiêu đồng chi phí cần bỏ ra để có được doanh thu đó. Nếu doanh nghiệp nào có tỷ suất chi phí kinh doanh thấp thì có nghĩa là doanh nghiệp đó kinh doanh có hiệu quả, trình độ tổ chức, quản lý chi phí nói chung là tốt bởi tỷ suất chi phí thấp sẽ dẫn tới tỷ lệ lợi nhuận cao. Vì thế tất cả các doanh nghiệp đều tìm mọi biện pháp để hạ thấp tỷ suất chi phí kinh doanh của doanh nghiệp mình. 3.3. Mức độ tăng giảm tỷ suất chi phí kinh doanh ( ký hiệu là ∆F/ ). Đây là chỉ tiêu phản ánh sự thay đổi về tỷ suất chi phí giữa hai kỳ kinh doanh giữa kỳ so sánh với kỳ gốc. Mốc chênh lệch này được phản ánh bằng công thức sau: ∆F/ = F/1 - F/0 Trong đ ó : ∆F/ : Là mức độ tăng hoặc giảm tỷ suất chi phí kinh doanh. F/1 : Là tỷ suất chi phí kinh doanh kỳ so sánh. F/0 : Là tỷ suất chi phí kinh doanh kỳ gốc. Đối với doanh nghiệp khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà ta chọn kỳ so sánh và kỳ gốc cho phù hợp. Ta có thể chọn kỳ gốc là kỳ kế hoặc còn kỳ so sánh là kỳ thực hiện hay kỳ gốc là số thực hiện của năm trước còn kỳ so sánh là số thực hiện của năm sau để đánh giá sự thay đổi về số tuyệt đối của tỷ suất chi phí qua đó nhận thấy sự tiến bộ hay sự yếu kém trong công tác quản lý chi phí kinh doanh của doanh nghiệp: Nếu ∆F/ nhỏ hơn không hay nói cách khác tỷ suất chi phí của kỳ nghiên cứu nhỏ hơn kỳ gốc chứng tỏ doanh nghiệp có cố gắng trong việc hạ thấp tỷ suất chi phí nên việc tổ chức thực hiện chi phí kinh doanh tốt. Ngược lại nếu ∆F/ lớn hơn không chứng tỏ việc tổ chức chi phí kinh doanh của doanh nghiệp là kém đi. Tuy nhiên, ∆F/ bằng không ta khó có thể kết luận được việc quản lý và sử dụng chi phí của doanh nghiệp là tốt hơn hay kém đi. Vì vậy, để kết luận được chính xác ta cần xem xét đến các chỉ tiêu tiếp theo. 3.4. Tốc độ tăng giảm tỷ suất chi phí( TF’ ). Đây là chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ (%) giữa mức tăng giảm tỷ suất chi phí với tỷ suất chi phí kỳ gốc. Qua tốc độ nhanh hay chậm của tỷ suất chi phí kinh doanh giữa hai thời kỳ ta có thể thấy rỏ hơn được tình hình phấn đấu giảm chi phí của kỳ nào hay doanh nghiệp nào là tốt hơn. Công thức biểu hiện tốc độ tăng hay giảm tỷ suất chi phí như sau: ∆F ' × 100 TF’ = F '0 Trong đó: ĐINH CÔNG CHIẾN 18 LỚP : K39 - D4
  19. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH TF’ : Là tốc độ tăng giảm tỷ suất chi phí kinh doanh. ∆F/ : Là mức độ tăng giảm tỷ suất chi phí kinh doanh. F/0 : Là tỷ suất chi phí kinh doanh kỳ gốc. Nếu như qua chỉ tiêu mức độ tăng giảm tỷ suất chi phí kinh doanh mới chỉ xác định được độ lớn của phần tỷ suất tăng hay giảm thì chỉ tiêu tốc độ tăng giảm tỷ suất cho ta thấy rỏ quá trình tăng giảm trên là nhanh hay chậm. Qua đó, nhà quản lý sẽ nhận biết được sự thành công hay thất bại của việc phấn đấu giảm chi phí kinh doanh vì trong một số trường hợp giữa hai thời kỳ của doanh nghiệp hoặc giữa hai doanh nghiệp có cùng điều kiện so sánh đều có mức độ hạ thấp chi phí là như nhau nhưng tốc độ tăng hoặc giảm như nhau, trong trường hợp này doanh nghiệp hay kỳ nào đó có tốc độ giảm nhanh hơn thì được đánh giá là tốt hơn và ngược lại. 3.5. Mức độ tiết kiệm hay lãng phí chi phí : ( ký hiệu là ∆F ). Chỉ tiêu này cho biết với mức doanh thu trong kỳ và mức giảm (hoặc tăng) tỷ suất chi phí thì doanh nghiệp tiết kiệm ( hoặc lãng phí ) là bao nhiêu ? Mức độ này được biểu hiện bằng công thức sau: ∆F = ∆F ' × M 1 Trong đó: ∆F : Là số tiền tiết kiệm ( hay lãng phí ) của doanh nghiệp. M1 : Là doanh thu tiêu thụ hàng hoá dịch vụ kỳ so sánh. ∆F/ : Là mức độ tăng giảm tỷ suất chi phí. Chỉ tiêu này cho ta thấy rõ hơn về mức độ hạ thấp chi phí kinh doanh bằng cách chuyển số tương đối (%) thành số tuyệt đối. Từ đó, các nhà quản trị tài chính sẽ được cụ thể việc giảm tỷ suất chi phí kinh doanh sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Bằng việc đem so sánh chi phí của hai kỳ với nhau trong mối quan hệ với doanh thu đã mang lại hiệu quả thật sự trong công tác quản lý chi phí kinh doanh. 3.6. Hệ số sinh sinh lợi của chi phí kinh doanh ( ký hiệu là H ). Hệ số sinh lợi của chi phí kinh doanh là chỉ tiêu tương đối phản ánh mối quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận và tổng chi phí kinh doanh thương mại trong một thời kỳ nhất định biểu hiện bằng công thức : P H= F Trong đó : H : Là hệ số sinh lợi của chi phí kinh doanh P : Là tổng lợi nhuận đạt được trong thời kỳ kinh doanh F : Là tổng chi phí kinh doanh trong kỳ Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó thể hiện mức sinh lợi của chi phí đã bỏ ra: Cứ một đồng chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra sẽ thu về bao nhiêu đồng lợi nguận. Nếu hệ số sinh lợi của doanh nghiệp nâng cao ( H càng lớn ) thì chứng tỏ khả năng kinh doanh của doanh nghiệp là tốt hay nói các khác chi phí mà ĐINH CÔNG CHIẾN 19 LỚP : K39 - D4
  20. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH doanh nghiệp bỏ ra đã được sử dụng có hiệu quả và ngược lại nếu hệ số sinh lợi của doanh nghiệp thấp ( H nhỏ ) chứng tỏ khả năng kinh doanh của doanh nghiệp kém. Nhìn chung, tất cả các chỉ tiêu đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Do vậy, để phân tích đánh giá được hiệu quả sử dụng chi phí kinh doanh một cách toàn diện cần phải đi sâu phân tích các chỉ tiêu này với nhau để rút ra được kết luận tổng quát, chặt chẽ và chính xác. Từ đó, đề ra những quyết định hay đánh giá sát với tình hình thực tế của doanh nghiệp. 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾT KIỆM CHI PHÍ KINH DOANH. 4.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh : Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn chịu ảnh của rất nhiều yếu tố từ môi trường bên trong và bên ngoài, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải biết kết hợp hài hoà giữa các nhân tố. Môi trường bên trong bao gồm các nhân tố chủ quan của doanh nghiệp còn môi trường bên ngoài bao gồm các nhân tố khách quan của doanh nghiệp. Do đó việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh tức là phân tích các tác động của các nhân tố từ môi trường bên trong và bên ngoài đến chi phí của doanh nghiệp. 4.1.1. Nhân tố khách quan. Nhân tố khách quan là những nhân tố bên trong và ngoài doanh nghiệp, nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Bởi vậy, thay vì việc cố gắng tác động làm thay đổi các nhân tố này doanh nghiệp nên tìm mọi biện pháp để thích nghi với chúng. Các nhân tố này luôn ảnh hưởng tới doanh nghiệp theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Vậy làm thế nào để hạn chế mặt tiêu cực và thúc đẩy mặt tích cực của nó? muốn hiểu rõ hơn về điều này ta phải tìm hiểu thêm về các nhân tố thuộc về môi trường khách quan sau đây: *Ảnh hưởng của nhân tố giá cả đến chi phí kinh doanh. Để tiến hành kinh doanh doanh nghiệp phải lấy từ môi trường bên ngoài những yếu tố đầu vào như : Nguyên vật liệu, lao động, vốn …tuy nhiên đối với doanh nghiệp thì đây là yếu tố đầu vào còn trên góc độ thị trường thì chúng lại là hàng hoá và là đầu ra của các doanh nghiệp khác. Vì thế, đã là hàng hoá thi nó đều phải chịu tác động của quy luật thị trường như cung cầu, quy luật giá cả. Mặt khác trong quá trình sản xuất thì giá cả các yếu tố đầu vào sẽ được kết chuyển vào giá trị hàng hoá mà doanh nghiệp sản xuất ra. Ngoài ra, còn một bộ phận các yếu tố đầu vào khác kết chuyển vào chi phí sản xuất của doanh nghiệp và chi phí bán hàng . Bởi vậy, khi giá cả các yếu tố đầu vào tăng thì chi phí của doanh nghiệp cũng tăng tương ứng và ngược lại khi giá cả các yếu tố đầu vào giảm thì chi phí của doanh nghiệp cũng giảm tương ứng. Doanh nghiệp không thể tác động vào giá cả trên thị trường và doanh nghiệp phải tìm cách thích nghi với nó bằng nhiều cách như: ĐINH CÔNG CHIẾN 20 LỚP : K39 - D4
nguon tai.lieu . vn