- Trang Chủ
- Chính trị học
- Đề tài “Chi phí kinh doanh và một số giải pháp tiết kiệm chi phí kinh doanh tại công ty Cổ Phần Vận Tải Sơn Dương”
Xem mẫu
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta ngày nay được cả thế giới biết đến không chỉ vì là một
dân tộc có truyền thống đấu tranh bất khuất và kiên cường trong đánh giặc
mà còn đang có nền kinh tế phát triển đi lên rất mạnh mẽ và đầy tiềm năng.
Xuất phát từ một đất nước đi lên sau 30 năm chiến tranh rồi lại trải qua
những năm nền kinh tế nước ta thực hiện theo công tác kế hoạch hoá tập
trung đã kìm hãm năng lực sản xuất của nước nhà. Từ khi bước vào thời kỳ
đổi mới nền kinh tế nước ta đã và đang tăng tốc phát triển đi lên dần hoà
nhập với sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Điều này được thể
hiện qua việc chúng ta xoá bỏ nền kinh tế tập trung chuyển sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiếp đó là sự chủ động ra nhập các
khối và các tổ chức kinh tế chính trị như: ASEAN, AFTA…và mới đây nhất
là tổ chức thương mại quốc tế (WTO) đã khẳng định sự hội nhập đầy đủ
của Việt Nam với thế giới. Đây là điều kiện thuận lợi cho đất nước nói
chung và các doanh nhiệp nói riêng, đồng thời cũng là một thách thức to lớn
bởi sự trênh lệch về trinh độ công nghệ, nguồn vốn, trình độ quản lý. Trước
cơ hội và thách thức để phát triển hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải
làm thế nào để tồn tại và phát triển đi lên trong môi trường mà sự cạnh tranh
khốc liệt như hiện nay? Đây là vấn đề nan giải với cả nền kinh tế nói chung
và các doanh nghiệp nói riêng phải tìm hướng đi và lời giải cho mình.
Trong cuộc cạnh tranh khốc liệt để tồn tại và phát triển các doanh
nghiệp muốn giành được chiến thắng thì phải thực hiện tốt 3 vấn đề sau
đây: Hiệu quả sản xuất, hoạt động quản trị kinh doanh và chi phí. Trong đó
tiết kiệm chi phí mà tiết kiệm chi phí kinh doanh là vấn đề thiết thực và lành
mạnh nó không những mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, ngoài ra xét trên
khía cạnh toàn xã hội thì nó còn tiết kiệm cho nền kinh tế, nâng cao hiệu quả
lao động xã hội …thúc đẩy một sự cạnh tranh lành mạnh. Vì thế hiện nay,
việc nỗ lực cắt giảm chi phí đã trở thành một vấn đề quan trọng trong công
tác quản lý kinh doanh bởi hiệu quả của việc sử dụng chi phí kinh doanh
quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp trước sự cạnh tranh ngay gắt
hiện nay của các công ty đặc biệt là các công ty nước ngoài.
Vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp hiện nay là làm thế nào để tiết
kiệm được chi phí kinh doanh? Đây là thách thức của không riêng công ty nào
và tại công ty Cổ Phần Vận Tải Sơn Dương nơi em đang thực tập cũng
không ngoại lệ. Qua quá trình thực tập ở công ty trên tinh thần học hỏi và
phát huy những nổ lực của cán bộ công nhân viên của công ty trong công tác
tiết kiệm chi phí, cùng với những kiến thức đã được trang bị trên ghế nhà
trường cho em nhận thấy rằng vấn đề về chi phí kinh doanh của doanh
nghiệp là rất quan trọng. Vì vậy, em xin mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu đề
tài: “Chi phí kinh doanh và một số giải pháp tiết kiệm chi phí kinh doanh
tại công ty Cổ Phần Vận Tải Sơn Dương” nhằm mở rộng và ứng dụng
những kết quả nghiên cứu có thể đi sâu vào thực tiễn hoạt động của công ty.
ĐINH CÔNG CHIẾN 1 LỚP : K39 - D4
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
Chuyên đề được viết dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng cộng với các lý luận cơ bản của các môn : Kinh tế chính trị,
Thống kê, Tài chính, Kế toán…
Nội dung của chuyên đề nghiên cứu gồm :
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chi phí kinh doanh của doanh
nghiệp trong nền kinh tế hiện nay.
Chương 2: Những khảo sát thực tế tại công ty Cổ Phần Vận Tải Sơn
Dương.
Chương 3: Một số giải pháp đề suất nhằm tiết kiệm chi phí kinh
doanh tại công ty Cổ Phần Vận Tải Sơn Dương.
Do còn hạn chế kiến thức và thời gian thực tập cũng như nghiên cứu
nên chuyên đề không thể tranh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự
góp ý của các thầy cô và tập thể lãnh đạo công ty để em hoàn thiện đề tài
nghiên cứu.
Em xin trân thành cảm ơn sự hướng dẫn của cô Lê Thị Kim Nhung và
tập thể lãnh đạo công ty đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
ĐINH CÔNG CHIẾN 2 LỚP : K39 - D4
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
CHƯƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHI PHÍ KINH DOANH CỦA DOANH
NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ HIỆN NAY.
1. KHÁI NIỆM VÀ PHẠM VI CỦA CHI PHÍ KINH DOANH.
1.1. Khái niệm về chi phí kinh doanh.
a. Khái niệm về chi phí kinh doanh:
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, ngày nay hoạt động của các
doanh nghiệp ngày càng đa dạng, phong phú trên tất cả các lĩnh vực từ sản
xuất, thương mại, dịch vụ, xây lắp …nhằm cung cấp và thoả mãn tối đa nhu
cầu của xã hội và mang lại lợi nhuận cho các đơn vị kinh tế tham gia. Tuy
vậy, các doanh nghiệp dù ở loại hình nào thì hoạt động kinh doanh muốn
thực hiện được cũng phải bỏ ra chi phí để thực hiện. Đây là những khoản chi
phí phục vụ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong quá trình hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp ta thấy các chi
phí luôn phát sinh dưới nhiều hình thức khác nhau từ đơn giản đến phức tạp.
Các chi phí mà chúng ta nhận thấy đó là chi phí mua nguyên vật liệu, chi phí
trả lương cho cán bộ công nhân viên, chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí
vận chuyển bốc dở, thuế giá trị gia tăng …Vậy chi phí kinh doanh là gì?
Đứng dưới góc độ khác nhau thì chi phí được hiểu theo nhiều cách
khác nhau nhưng căn cứ vào nội dung kinh tế và nguồn bù đắp ta có thể chia
chi phí kinh của doanh làm ba nhóm chủ yếu là chi phí đầu tư dài hạn, chi phí
phúc lợi và chí phí kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó, chi phí đầu tư dài
hạn được hiểu là những khoản chi phí phát sinh cần thiết để tạo ra các yếu
tố của quá trình kinh doanh theo mục tiêu nhằm phục vụ cho những phương
hướng kinh doanh trong tương lai của doanh nghiệp. Nhóm chi phí này bao
gồm các khoản như: chi phí đầu tư xây dựng cơ bản, chi phí cho việc nghiên
cứu phát triển sản phẩm mới, chi phí cho việc ứng dụng thiết bị công nghệ
mới, chi phí mua thêm thiết bị máy móc mới, chi phí đào tạo cán bộ công nhân
viên của doanh nghiệp. Chúng được trang trải từ nguồn vốn đầu tư dài hạn
của doanh nghiệp. Tiếp theo, là các khoản chi phí phúc lợi xã hội, đây là
những khoản chi phí cho việc học tập văn hoá, thể dục thể thao, chi cho thăm
quan nghĩ mát, chi cho trợ cấp khó khăn cho người lao động …và nó được bù
đắp từ quỹ khen thưởng phúc lợi của doanh nghiệp. Cuối cùng, là nhóm chi
phí kinh doanh của doanh nghiệp. Khác hoàn toàn với hai nhóm chi phí trên,
nhóm chi phí này có ý nghĩa rất quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
toàn bộ chi phí của doanh nghiệp. Nếu hai nhóm trên phục vụ cho sự phát
triển lâu dài và bền vững của doanh nghiệp thì nhóm chi phí này lại phục vụ
cho sư tồn tại và phát triển hiện tại của doanh nghiệp nó gắn liền với quá
trình chi trả và tiêu phí các nguồn lực, tất cả các khoản chi trả và các khoản
ĐINH CÔNG CHIẾN 3 LỚP : K39 - D4
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
phí tổn về vật tư, tiền vốn, lao động và các yếu tố khác đã tiêu dùng cho hoạt
động kinh tế của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Vậy, chi phí kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ
hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết
khác mà doanh nghiệp đã bỏ ra để tiến hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định và được bù đắp bởi
chính doanh thu của thời kỳ đó.
Chi phí kinh doanh bao gồm hai bộ phận cấu thành: Chi phí kinh doanh
hàng hoá và dịch vụ, chi phí hoạt động tài chính. Chi phí kinh doanh hàng hoá
và dịch vụ là những hao phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để tiến hành các hoạt
động kinh doanh hàng hoá và dịch vụ. Chi phí hoạt động tài chính là những
chi phí thực hiện các hoạt động tài chính như liên doanh liên kết, cho vay và
đi vay vốn…
Nhóm chi phí này bao gồm toàn bộ các chi phí trực tiếp hoặc gián tiếp
phục vụ cho hoạt động kinh doanh trong kỳ và nó được bù đắp từ thu nhập
của doanh nghiệp trong kỳ đó. Tuy nhiên ta không nên nhầm lẫn rằng chi tiêu
mà doanh nghiệp bỏ ra là chi phí kinh doanh vì chi phí kinh doanh phải là
những chi phí có liên quan đến quá trình hoạt động kinh doanh và tạo ra thu
nhập trong một thời kỳ đó và được bù đắp bằng chính thu nhập tạo ra từ chi
phí đó.
Nói một cách tổng quát thì chi phí kinh doanh là biểu hiện những hao
phí lao động cá biệt mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong kỳ, chính vì vậy nó là
căn cứ để xác định số phải bù đắp của doanh nghiệp và nó là nhân tố ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Do đó, nếu công tác quản lý chi phí không
hợp lý, không đúng với bản chất sẽ gây ra việc giảm lợi nhận. Điều này
được thể hiện rõ qua phương trình sau :
Lợi nhuận trước thuế = Doanh thu thuần - Chi phí kinh doanh.
Giả sử rằng doanh thu thuần là cố định thì việc hạ thấp chi phí kinh
doanh là biện pháp tối ưu nhất để tăng lợi nhuận trước thuế. Từ đây, ta nhận
thấy vấn đề cần quan tâm của các nhà quản trị tài chính đó là: Làm thế nào
để luôn kiểm soát được chi phí kinh doanh nghiệp để chi phí bỏ ra được sử
dụng một cách tối ưu và có hiệu quả nhất.
b. Đặc điểm Chi phí kinh doanh trong ngành giao thông vận tải.
Đối với các doanh ngiệp dịch vụ đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc
nghành giao thông vận tải việc quản lý chi phí có sự phức tạp và khó khăn
riêng. Nguyên nhân là do quá trình sản xuất, trao đổi và tiêu dùng cùng diễn ra
một lúc nên sản phẩm của doanh nghiệp dịch vụ có tính vô hình, không bảo
quản dự trữ được. Ở các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao thông vận tải
công cộng chi phí chiếm tỷ trọng lớn là những chi phí nhiên liệu, khấu hao,
tiền lương. Nó khác các doanh nghiệp dịch vụ thuộc diện sản xuất, chế biến
như : ăn uống công cộng, may mặc…thì chi phí về nguyên liệu chính là
chiếm tỉ trọng cao. Điều này cho ta thấy, việc quản lý chi phí trong các doanh
nghiệp dịch vụ vận tải cần phải linh hoạt, chú ý quản lý tốt các trang thiết bị
ĐINH CÔNG CHIẾN 4 LỚP : K39 - D4
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
phục vụ khách hàng, xây dưng các định mức nhiên liệu phù hợp, cải tiến
phương pháp phục vụ, nâng cao trình độ tay nghề chuyên môn kỹ thuật và
tinh thần phục vụ.
Ngoài ra, sản phẩm được tạo ra là vô hình, sản xuất đồng thời là tiêu
thụ và không có dự trữ, không có sản phẩm dở dang. Nghành giao thông vận
tải luôn là ngành tạo lập cơ sở cho mọi hoạt động khác phát triển. Nên nó
mang tính xã hội càng làm cho hoạt động và quản lý chi phí thêm khó khăn và
phức tạp.
1.2. Phạm vi chi phí kinh doanh
Kể từ khi bước vào nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp đã có
được môi trường phát triển và vươn lên tuy vậy với sự hội nhập ngày càng
đầy đủ với nền kinh tế thế giới cũng đưa các doanh nghiệp vào tình thế phải
cạnh tranh gay gắt với nhau mà mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Tuy vậy,
một thực tế hiện nay là các doanh nghiệp luôn cố tình che dấu lợi nhuận thực
tế bởi lợi nhuận đồng nghĩa với trách nhiệm nộp thếu vào ngân sách nhà
nước, vì vậy xu hướng chung để đạt được điều đó là tại các doanh nghiệp
trên sổ sách họ kê khai chi phí tăng cao. Tình trạng này có ở rất nhiều nước
trong đó có Việt Nam do đó buộc nhà nước phải ban hành các văn bản quy
phạm cụ thể về phạm vi chi phí kinh doanh phù hợp để thúc đẩy cạnh tranh
lành mạnh và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Tuy phạm vi chi phí là
rất đa dang và phức tạp, nó lại thường mang đặc điểm riêng của từng
nghành, vì vậy phạm vi chi phí mà Bộ Tài Chính ban hành đã cố gắng phản
ánh đúng bản chất kinh tế đã là một nổ lực rất lớn khi mà các văn bản của
nước ta phần lớn đều chưa hoàn thiện và sửa đổi liên tục.
Trong một thời kỳ nhất định có thể nhận thấy rằng có rất nhiều loại
chi tiêu bằng tiền bằng vật chất khác không phải là chi phí của doanh nghiệp
trong thời kỳ đó, yêu cầu cơ bản nhất của việc xác định đúng đắn phạm vi
chi phí kinh doanh là phải tập hợp đầy đủ, chính xác kịp thời các chi phí phát
sinh trong kỳ liên quan đến hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh
nghiệp trong kỳ đó. Về nguyên tắc, chi phí kinh doanh được bù đắp từ doanh
thu của doanh nghiệp trong kỳ. Theo chế độ hiện hành phạm vi chi phí kinh
doanh được quy định như sau :
-Chi phí về vật tư ( Nguyên liệu, vật liệu, động lực..): Biểu hiện bằng
tiền của nguyên vật liệu, nhiên liệu, động lực đã sử dụng vào hoạt động sản
xuất kinh doanh thông thường của doanh nghiệp trong kỳ.
-Chi phí tiền lương: Bao gồm toàn bộ tiền lương tiền công và các
khoản chi phí có tính chất lương trả cho người lao động.
-Các khoản trích nộp theo quy định hiện hành của Nhà Nước như: Bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn.
-Khấu hao tài sản cố định: Đó là số tiền trích khấu hao tài sản cố định
của doanh nghiệp được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp ở kỳ hoạch toán.
ĐINH CÔNG CHIẾN 5 LỚP : K39 - D4
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
-Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là các chi phí trả cho tổ chức, cá nhân bên
ngoài doanh nghiệp về các dịch vụ mà họ đã cung cấp theo yêu cầu của
doanh nghiệp như chi phí vận chuyển, điện nước, chi phí kiểm toán, chi phí
quảng cáo, hoa hồng đại lý, uỷ thác, môi giới…
-Chi phí bằng tiền khác như thếu muôn bài, thếu tài nguyên, nhà đất,
phí cầu đường, chi phí tiếp dân…
-Chi phí dự phòng là các khoản trích dự phòng giảm giá vật tư, hàng
hoá, nợ khó đòi được hạch toán vào chi phí trong kỳ của doanh nghiệp theo
quy định.
-Chi phí phát sinh từ các hoạt động tài chính như: Chi phí trả lãi tiền
vay, thuê tài sản, mua bán chứng khoán, liên doanh - liên kết, chiết khấu thanh
toán trả cho người mua khi họ thanh toán tiền hàng hoá - dịch vụ trước hạn
và các chi phí hoạt động tài chính khác.
Vậy chi phí chỉ được tính vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp khi
nó trực tiếp hoặc gián tiếp phát sinh phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp và được bù đắp bằng doanh thu của kỳ đó. Ngoài ra, theo yêu
cầu của chế độ hoạch toán và chế độ quản lý của nhà nước chi phí phòng
cháy chữa cháy, phòng chống bão lụt, dân quân tự vệ …cũng được tính vào
chi phí kinh doanh.
Các khoản chi phí không thuộc phạm vi chi phí kinh doanh của doanh
nghiệp bao gồm:
-Chi phí đầu tư dài hạn của doanh nghiệp như: Chi xây dựng cơ bản,
mua sắm tài sản cố định, đào tạo dài hạn, nghiên cứu khoa học, đổi mới công
nghệ nhóm chi phí này được bù đắp từ nguồn vốn đầu tư dài hạn của doanh
nghiệp, nên không phải là chi phí kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ.
- Chi phúc lợi xã hội như văn hoá, thể thao, y tế, vệ sinh, tiền thưởng,
ủng hộ nhân đạo…nó được bù đắp bằng nguồn quỹ trong doanh nghiệp.
-Các khoản chi phí liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp nhưng do lỗi chủ quan của doanh nghiệp không
được tính vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp như: Chi phí hao hụt định
mức, tiền phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế, chậm nộp thuế, chi phí trả lãi
tiền vay quá hạn, chi phí giao dịch tiếp khách vượt quy định…
Khi đã xác định được phạm vi chi phí kinh doanh thì doanh nghiệp còn
cần lưu ý:
-Các khoản chi phí không được tính vào chi phí kinh doanh hợp lệ như
sau: Những khoản chi phí trích trước vào chi phí mà thực tế không phát sinh,
những khoản chi phí không có chứng từ hoặc chứng từ không hợp lệ, các
khoản chi do nguồn khác đài thọ…
-Những khoản không được ghi vào chi phí kinh doanh như: Những thiệt
hại trong kinh doanh như thiên tai, hoả hoạn, động đất…được chính phủ tài
trợ hoặc cho phép ghi giảm vốn hoặc đã được bên gây thiệt hại bồi thường
hoặc công ty bảo hiểm bồi thường.
* Ý nghĩa kinh tế của việc xác định phạm vi chi phí:
ĐINH CÔNG CHIẾN 6 LỚP : K39 - D4
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
-Đối với doanh nghiệp: Làm căn cứ để doanh nghiệp làm công tác kế
hoạc hoá, tập hợp chi phí phát sinh trong kỳ và xác định đúng chi phí đã bỏ ra.
Ngoài ra, làm căn cứ để doanh nghiệp kiểm tra, phân tích, đánh giá công tác
quản lý chi phí của doanh nghiệp, tìm ra được các biện pháp tốt nhất nhằm
giảm chi phí, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Đối với nhà nước: Làm cở sở để nhà nước kiểm tra các hoạt động
quản lý chi phí nói riêng và quản lý sản xuất kinh doanh nói chung của doanh
nghiệp, tính toán chính xác các khoản nộp thuế ngân sách nhà nước đặc biệt
là thuế thu nhập doanh nghiệp.
2. PHÂN LOẠI CHI PHÍ KINH DOANH.
2.1. Phân loại theo nội dung kinh tế.
Các chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra là để phục vụ cho các hoạt
động kinh doanh, trong các hoạt động kinh doanh ta có thể chia ra từng công
đoạn. Theo nội dung kinh tế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bắt đầu
từ việc hình thành sản phẩm đến việc tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp phải
bỏ ra những chi phí như: Nguyên vật liệu, khấu hao tài sản cố định, lương
công nhân, dịch vụ mua ngoài và các khoản chi bằng tiền khác để hoạt động
kinh doanh có thể thực hiện. Những khoản chi phí đó cụ thể như sau.
*Chi phí nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu chính là những nguyên vật liệu sau quá trình gia công
chế biến sẽ cấu thành nên thực thể vật chất chủ yếu của sản phẩm. Tuy
nhiên trong quá trình sản xuất nguyên vật liệu chính còn bao gồm cả bán
thành phẩm mua ngoài để tiếp tục chế biến.
Nguyên vật liệu phụ là những nguyên vật liệu chỉ có tác dụng phụ trợ
trong sản xuất, được sử dụng kết hợp với vật liệu chính để làm thay đổi
hình dáng màu, sắc mùi vị hay dùng để bảo quản phục vụ cho hoạt động của
các tư liệu lao động hay phục vụ cho lao động của công nhân viên chức trong
doanh nghiệp. Vật liệu phụ ở đây bao gồm: Dầu nhờn, hồ keo, thuốc nhuộm,
tẩy…
Nhiên liệu bao gồm những thứ dùng để cung cấp nhiệt lượng trong quá
trình sản xuất kinh doanh như xăng dầu, khí đốt, than đá.
Ngoài ra, chúng ta còn có thể phân loại chi phí nguyên vật liệu thành
chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nguyên vật liệu gián tiếp. Chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính
và nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu… tham gia trực tiếp vào việc sản xuất
chế tạo sản phẩm hay thực hiện dịch vụ. Chi phí nguyên vật liệu gián tiếp là
những loại vật liệu được sử dụng để kết hợp với nguyên vật liệu chính làm
tăng thêm chất lượng của sản phẩm cũng như vẻ đẹp của sản phẩm để sản
phẩm có thể tồn tại và cạnh tranh được với những sản phẩm cùng loại trên
thị trường hoặc để tạo cho quá trình sản xuất được thuận lợi. Giá trị của
nguyên vật liệu bao gồm cả chi phí thu mua, vận chuyển, bảo quản và hao
hụt định mức trong quá trình vận chuyển.
ĐINH CÔNG CHIẾN 7 LỚP : K39 - D4
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
Đối với doanh nghiệp dịch vụ chi phí vật liệu bao gồm cả chi phí mua
ngoài và các công cụ không nhỏ thuộc về tài sản cố định, phụ tùng thay thế
mua ngoài để thay thế sửa chữa tài sản cố định.
Tóm lại, chi phí nguyên vật liệu là bộ phận cấu thành nên giá của sản
phẩm kinh doanh vì vậy việc phân biệt chi phí nguyên vật liệu giúp công tác
kế hoạch chi phí, quản lý chi phí tiết kiệm tránh lãng phí, giúp cho doanh
nghiệp có thể thực hiện việc hạ giá thành sản phẩm.
*Chi phí nhân công.
Chi phí công nhân bao gồm tiền lương chính, lương phụ của người lao
động, công nhân viên trong doanh nghiệp do quỹ tiền lương của doanh
nghiệp chi trả và khoản bảo hiểm xã hội tính theo tỷ lệ % theo quy định trên
cơ sở tiền lương được hưởng.
Tiền lương được tính theo lương cấp bậc, chức vụ, theo ngạch bậc
lương theo quy định 26/CP của chính phủ hoặc tiền lương tính theo kết quả
hoạt động của doanh nghiệp. Tiền lương trả cho công nhân trực tiếp có thể
là lương khoán theo doanh thu, khoán theo khối lượng hàng hoá tiêu thụ,
lượng thời gian. Tùy từng doanh nghiệp khác nhau mà các hình thức trả
lương khác nhau cho phù hợp với tình hình và đặc điểm kinh doanh của
doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp dịch vụ như công ty vận chuyển thì việc áp
dụng theo hình thức khoán theo khối lượng hàng hoá vận chuyển, kết hợp
với chế độ tiền thưởng để khuyến khích người lao động hăng say làm việc.
Lương tháng là tiền lương trả cho công nhân viên theo tháng hoặc theo
bậc lương đã sắp xếp, người hưởng lương sẽ nhận được tiền lương theo
cấp bậc và các khoản phụ cấp nếu có. Lương này là tiền lương trả cho
người lao động theo mức lương tháng và số ngày làm việc trong tháng và
được tính:
Đơn giá tiền Lương cấp bậc
lương theo =
thời gian số ngày lao động định mức
Lương tháng theo
= từng người Đơn giá tiền lương x Số ngày làm việc thực tế
Hình thức trả lương theo thơi gian đơn giản dễ tính, ít tốn thời gian
tính toán và chi phí phát sinh khác song hình thức trả lương này lại không
khuyến khích người lao động tăng năng suất công việc.
Bên cạnh chế độ tiền lương, thưởng được hưởng trong quá trình sản
xuất kinh doanh người lao động còn được hưởng các khoản trợ cấp thuộc
quỹ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội…trong các trường hợp ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động…Các quỹ này hình thành một phần do người lao động đóng
góp và phần còn lại được tính vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Quỹ
ĐINH CÔNG CHIẾN 8 LỚP : K39 - D4
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
bảo hiểm y tế được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ quy định trên tổng
quỹ lương cấp bậc và các khoản phụ cấp của người lao động trên thực tế
phát sinh trong tháng. Theo chế độ hiện hành tỷ lệ trích bảo hiểm xã hội là 20
% trên trên cơ sở quỷ lương của doanh nghiệp trong đó 15 % là do đơn vị chủ
sử dụng lao động nộp và được tính vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp,
còn 5 % trên lương là do người lao động đóng góp và được trích trừ vào
lương tháng của người lao động.
Quỹ bảo hiểm xã hội được chi tiêu trong trường hợp người lao động
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí…quỹ này do
cơ quan bảo hiểm xã hội quản lý. Vì vậy, theo pháp luật quy định thì công ty
phải ký hợp đồng lao động và trình lên sở lao động thương binh và xã hội để
làm căn cứ lập sổ bảo hiểm xã hội. Sổ này ghi mức đóng góp của người lao
động trong suốt thời gian lao động và làm căn cứ tính trợ cấp bảo hiểm xã
hội sau này. Hàng quý doanh nghiệp phải thanh toán với công ty bảo hiểm
một lần về số bảo hiểm chi tại doanh nghiệp và số bảo hiểm phải nộp theo
quy định hiện hành.
Quỹ bảo hiểm y tế được sử dụng để thanh toán các khoản khám chữa
bệnh cho người lao động trong thời gian ốm đau, thai sản…quỹ này được
hình thành bằng cách trích lập theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương của
người lao động thực tế phát sinh trong tháng. Tỷ lệ trích bảo hiểm y tế hiện
hành là 3% trong đó 2 % tính vào chi phí kinh doanh và 1 % tính trừ vào lương
của người lao động.
Quỹ kinh phí công đoàn được dùng để hổ trợ cho người lao động duy
trì các hoạt động công đoàn trong doanh nghiệp nhằm giúp đỡ nhau phát triển
chuyên môn và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động. Hiện nay
doanh nghiệp được phép trích 2% trên cơ sở quỹ lương tính vào chi phí.
Như vậy, tổng cộng 3 quỹ trên doanh nghiệp được phép trích 25 % trên
tổng quỹ lương trong đó tính vào tính vào chi phí của doanh nghiệp là 19 % và
trừ vào lương của người lao động 6 %. Từ đó, doanh nghiệp có kế hoạch và
thực hiện việc tổ chức lao động tiết kiệm và hợp lý hơn để nâng cao năng
suất lao động và tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp.
*Chi phí khấu hao tài sản cố định.
Trong quá trình bảo quản và sử dụng tài sản cố định luôn bị hao mòn.
Hao mòn là do sự giảm dần giá trị tài sản cố định do tham gia vào hoạt động
sản xuất kinh doanh, do hao mòn tự nhiên và do tiến bộ khoa học kỹ thuật …
căn cứ vào nguyên nhân gây ra sự hao mòn đó người ta chia tài sản cố định
thành hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn về
vật chất, do quá trình sử dụng tài sản cố định hoặc những bộ phận chi tiết
của chúng không còn giữ nguyên trạng thái ban đầu mà bị hư hỏng dần, giá
trị sử dụng của chúng giảm theo thời gian.
Hao mòn vô hình là do tiến bộ khoa học kỹ thuật, khoa học kỹ thuật
phát triển dẫn đến năng suất lao động tăng lên, giá thành sản xuất giảm
xuống. Từ đó trên thị trường xuất hiện những tài sản cố định mới tuy có cùng
ĐINH CÔNG CHIẾN 9 LỚP : K39 - D4
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
thông số kỷ thuật nhưng giá bán lại thấp hơn hay có thông số kỷ thuật tiến
bộ hơn nhưng giá bán lại không cao hơn…Nói chung hao mòn vô hình liên
quan đến sự mất giá của tài sản cố định và không liên quan đến hao mòn vật
chất của nó vì thế có những tài sản cố định do chậm đem ra sử dụng đã bị
hao mòn vô hình.
Khi tài sản cố định được sử dụng vào sản xuất kinh doanh thì sự
chuyển dịch giá trị hao mòn của nó vào chi phí của đối tượng sử dụng tài sản
cố định và được gọi là khấu hao. Khấu hao là việc tính toán và phân bổ một
cách có hệ thống nguyên giá của tài sản cố định vào chi phí kinh doanh qua
thời gian sử dụng của tài sản cố định. Tuy nhiên không phải bất cứ tài sản cố
định nào cũng được phép trích khấu hao mà chỉ có những tài sản cố định liên
quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh thì mới được phép trích khấu hao,
mức trích khấu hao được hoạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ.
Chi phí khấu hao là khoản tiền trích ra do tài sản cố định bị hao mòn
trong quá trình sử dụng, dùng để tái sản xuất tài sản cố định của đơn vị theo
đặc điểm của việc hình thành và sử dụng quỹ khấu hao.
Nguyên giá tài sản cố định được lấy làm căn cứ để tính khấu hao và nó
là toàn bộ lượng giá trị đã đầu tư vào tài sản cố định tính đến thời điểm tài
sản cố định chính thức phục vụ sản xuất kinh doanh bao gồm chi phí thực tế
đã chi ra để có được tài sản cố định cho tới khi đưa tài sản cố định vào hoạt
động bình thường như giá mua, chi phí vận chuyển, lắp đặt, chạy thử...gồm
tài sản cố định mua ngoài và tài sản cố định thuê tài chính.
Việc lựa chọn phương pháp khấu hao nào là do quy định của nhà nước
về chế độ quản lý tài chính đối với doanh nghiệp và theo yều cầu quản lý
của doanh nghiệp. Phương pháp khấu hao phải đảm bảo được yêu cầu thu
hồi vốn đầy đủ và phù hợp với đặc điểm từng nghành kinh tế. Trong thực tế,
phần giá trị hao mòn (hay phần giá trị tài sản cố định được phân bổ) được ghi
nhận trong chi phí sản xuất kinh doanh hay giá trị sản phẩm dịch vụ được tạo
ra được coi là một yếu tố chi phí và được gọi là chi phí khấu hao tài sản cố
định. Bộ phận chi phí này thể hiện dưới hình thái tiền tệ và được gọi là tiền
khấu hao. Sau khi sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được tiêu thụ số tiền khấu
hao được tích luỹ lại và trở thành nguồn tài chính quan trọng để đảm bảo tái
sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định của doanh nghiệp.
Khi chưa có nhu cầu đầu tư tài sản cố định, nguồn vốn được thu hồi bằng
việc khấu hao tồn tại dưới hình thái là một bộ phận tài sản lưu động của
doanh nghiệp và được sử dụng linh hoạt. Ngoài ra, nguồn vốn khấu hao còn
được dùng chi phí cho hoạt động sửa chữa lớn để khôi phục lại giá trị hao
mòn, việc thực hiện sửa chữa lớn có thể do doanh nghiệp tiến hành hoặc
thuê ngoài.
Từ đó, doanh nghiệp phải xác định được khoản khấu hao hợp lý vừa
đảm bảo thu hồi vốn nhanh vừa đảm bảo mức chi phí đó không làm đội mức
chi phí của doanh nghiệp lên làm ảnh hưởng tới tổng chi phí của doanh
ĐINH CÔNG CHIẾN 10 LỚP : K39 -
D4
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
nghiệp và ảnh hưởng tới lợi nhuận. Chi phí khấu hao tài sản cố định đối với
doanh nghiệp sản xuất chiếm tỷ trọng lớn và cần thực hiện quản lý tốt.
* chi phí dịch vụ mua ngoài.
Là các khoản chi phí mua ngoài phục vụ cho doanh nghiệp như chi phí
thêu ngoài sửa chữa tài sản cố định, tiền thêu kho, tiền bốc vác, vận chuyển
hàng hoá để tiêu thụ, hoa hồng cho các đại lý và cho nhận uỷ thác xuất nhập
khẩu, chi phí lãi vay…
Chi phí thuê ngoài sửa chữa tài sản cố định ở đây là hoạt động thuê sửa
chữa nhỏ tài sản cố định của doanh nghiệp và mang tính thường xuyên. Đây
là toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để thuê sửa chữa và chi phí mua các
phụ kiện vật liệu thay thế sửa chữa. Chi phí thuê ngoài do hai bên thoả thuận
trước và thực hiện khi doanh nghiệp không có chức năng sửa chữa hoặc khi
điều kiện không cho phép doanh nghiệp tự sửa chữa như khoảng cách, kỷ
thuật, con người…
Cước phí vận chuyển là khoản chi trả cước phí vận chuyển thuê ngoài
và toàn bộ chi phí về tiền lương, bảo hiểm xã hội, khấu hao, nhiên liệu cho
phương tiện vận chuyển chuyên dùng của doanh nghiệp. các phương tiện
vận chuyển thuê ngoài thì doanh nghiệp phải trả tiền cho chủ phương tiện.
Chi phí bốc dở, khuân vác là khoản chi phí thuê công nhân bốc dở,
khuân vác hàng hoá lên phương tiện vận chuyển hoặc sang phương tiện vận
chuyển khác.
Các chi phí vận tải khác là số tiền chi phí thuê bao bì, bến bãi tạm thời,
tiền thuê đò phà, các khoản chi phí cần thiết khác để bảo quản hàng hoá
trong quá trình vận chuyển, chi phí này theo tỷ lệ phần trăm cước phí vận
chuyển.
Chi phí hoa hồng là khoản tiền mà doanh nghiệp phải trả cho tập thể
hoặc cá nhân bán hàng đại lý cho doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ vận tải thì chi phí hoa hồng là khoản tiền doanh nghiệp trả cho
người môi giới của doanh nghiệp. Khoản hoa hồng này có thể tính bằng %
trên giá bán hoặc tính phần trăm trên hợp đồng thêu xe hoặc theo thoả thuận
giữa doanh nghiệp với đại lý, môi giới.
Tiền thuê kho, thuê bãi có thể tính theo ngày thuê cũng có thể tính theo
diện tích mặt bằng thuê, thoả thuận giữa doanh nghiệp với bên cho thuê.
Chi phí lãi vay là khoản chi phí doanh nghiệp phải trả cho việc huy
động vốn phục vụ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm cả vay
ngắn hạn và vay dài hạn.
Như vậy, đối với doanh nghiệp thì chi phí dịch vụ mua ngoài chiếm tỷ
trọng vừa phải song nhiều khoản kho hoạch toán, doanh nghiệp cần phân
loại rõ ràng từng khoản chi phí để quản lý tốt tránh lãng phí thất thoát, giảm
giá thành sản phẩm.
* Chi phí bằng tiền khác.
ĐINH CÔNG CHIẾN 11 LỚP : K39 -
D4
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
Là khoản chi ngoài các khoản chi ở trên, phát sinh trong quá trinh kinh
doanh của doanh nghiệp như chi phí tiếp khách, quảng cáo, hội nghị, đồ dùng
văn phòng…khoản chi phí này thực tế phát sinh tại mọi doanh nghiệp và
không có định mức cụ thể để quản lý.
Các khoản chi phí như vệ sinh quét dọn, quãng cáo, tiếp khách và giao
dịch góp phần mang lại cho doanh nghiệp uy tín, thương hiệu và có thể là các
hoạt động kinh tế trong tương lai, chi phí này ngày càng trở nên cần thiết đối
với doanh nghiệp trong thời kinh tế hiện nay. Chi phí giới thiệu hàng hoá như
hội trợ, triển lãm, khuyến mại thúc đẩy doanh nghiệp tiêu thụ hàng hoá nâng
cao lợi nhuận.
Trong doanh nghiệp thì khoản chi phí này không có định mức cụ thể
người quản lý phải quản lý khoản chi phí này phù hợp để vừa giảm chi phí,
không lãng phí song không ảnh hưởng đến công việc thường xuyên của
doanh nghiệp mang lại lợi ích cao nhất cho doanh nghiệp.
2.2. Phân loại theo sự biến đổi của chi phí so với sự biến đổi
doanh thu .
Chi phí của doanh nghiệp bỏ ra nhằm mang lại doanh thu và lợi nhuận,
căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí kinh doanh và doanh thu đạt được hay
mức độ hoạt động của doanh nghiệp, có thể chia chi phí thành hai loại là chi
phí bất biến và chi phí khả biến.
* Chi phí bất biến (hay chi phí cố định).
Chi phí bất biến là những chi phí không thay đổi (hoặc thay
đổi không đáng kể) theo sự thay đổi của quy mô sản xuất kinh
doanh (hay doanh thu) của doanh nghiệp bao gồm các chi phí như: Chi
phí khấu hao tài sản cố định( theo thời gian), chi phí tiền lương trả cho cán
bộ công nhân viên quản lý, chi phí thuê tài sản, văn phòng, chi phí lãi vay phải
trả, chi phí bão dưỡng máy móc thiết bị…
Tổng định phí của doanh nghiệp thường không thay đổi nhưng định phí
tính cho một đơn vị sản phẩm đạt được thì thay đổi, nếu mức kết quả đạt
được cao thì định phí cho một đơn vị giảm xuống và ngược lại, tổng định phí
không biến đổi trong hạn mức giới hạn nhất định khi vượt qua mức đó thì
định phí sẽ thay đổi. Căn cứ vào mối quan hệ của định phí đối với mức hoạt
động ta có thể chia định phí làm hai loại:
- Định phí bắt buộc: Là khoản chi phí không thể thay đổi được của
doanh nghiệp dù doanh nghiệp có hoạt động hay không doanh nghiệp vẫn
phải trả khoản chi phí này, chi phí thường liên quan đến cơ sở hạ tầng của
doanh nghiệp như chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí trả tiền thuê đất,
thuê văn phòng, chi phí lãi vay, lương quản lý…đây là loại chi phí mà doanh
nghiệp không thể hạ thấp về không được.
- Định phí tuỳ ý là những khoản chi phí có thể thay đổi bằng các quyết
định của nhà quản trị như : Chi phí quảng cáo, chi phí nghiên cứu khoa học.
ĐINH CÔNG CHIẾN 12 LỚP : K39 -
D4
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
Chi phí
định phí
X0 X1 Mức hoạt động
Tóm lại, do bản chất khó thay đổi của định phí nên nếu muốn thay đổi
doanh nghiệp phải gán với các kế hoạch dài hạn của doanh nghiệp. Định phí
là bộ phận chủ yếu trong chi phí của doanh nghiệp nên trong công tác quản lý
và kế hoạch doanh nghiệp cần tính toán giảm tối đa định phí có thể theo
hướng dài hạn.
*Chi phí khả biến( hay chi phí biến đổi).
Chi phí biến đổi là chi phí thay đổi khi trực tiếp theo sự thay
của doanh thu hay quy mô sản xuất, bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu,
chi phí dịch vụ được cung cấp như tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại,
lương theo sản phẩm…
Tổng chi phí khả biến của doanh nghiệp luôn thay đổi theo hướng thay
đổi của doanh thu, khi doanh thu tăng thì đồng nghĩa với tổng chi phí tăng lên
và ngược lại, trên lý thuyết thì biến phí có thể giảm tới không đó là khi doanh
nghiệp không hoạt động.
Căn cứ vào mối quan hệ giữa biến phí và doanh thu hay mức độ hoạt
động của doanh nghiệp ta chia biến phí thành:
- Biến phí tỷ lệ là những khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận với biến
động của mức độ sản xuất kinh doanh như: Chi phí nguyên vật liệu, chi phí
lương công nhân trực tiếp theo sản phẩm…
- Biến phí cấp bậc là các khoản chi phí có thể thay đổi khi mức hoạt
động của doanh nghiệp thay đổi rỏ rệt, đột biến vượt qua một giới hạn nào
đó, biến phí này sẻ không thay đổi khi mức độ hoạt động sản xuất kinh
doanh thay đổi ít như tiền thuê phương tiên vận tải quy định như sau: 20triệu/
tháng nếu chạy dưới 20.000 km/tháng nếu lớn hơn 20.000 km/tháng tính theo
luỹ tiến 500km phải trả 50 nghìn đồng…
Trên thực tế, trong doanh nghiệp không phải lúc nào chi phí cũng có
thể phân chia rỏ rệt như trên có những chi phí vừa mang tính chất của định
phí vừa mang tính chất của biến phí như chi phí điện, chi phí điện thoại…do
vậy việc phân chia chỉ mang tích tương đối. Nhưng việc phân chia này giúp
doanh nghiệp thấy được xu hướng biến đổi cửa từng chi phí theo quy mô
kinh doanh, từ đó doanh nghiệp có thể xác định sản lượng hoà vốn cũng như
quy mô kinh doanh hợp lý để đạt hiệu quả cao nhất.
Tỷ trọng về chi phí khả biến và chi phí bất biến luôn thay đổi khi khối
lượng sản phẩm lao vụ tăng lên. Hiện nay các doanh nghiệp đang có xu
hướng tăng chi phí cố định lên với lý do trong nền kinh tế thị trường để cạnh
ĐINH CÔNG CHIẾN 13 LỚP : K39 -
D4
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
tranh tốt doanh nghiệp phải mua sắm trang thiết bị hiện đại, điều này đồng
nghĩa với đầu tư thiết bị máy móc tăng làm cho chi phí cố định tăng lên.
Hiện nay, xu hướng tăng dần tỷ trọng chi phí cố định so với chi phí
biến đổi có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc phát triển lâu dài và cơ bản
của doanh nghiệp. Nhưng khi chi phí cố định tăng cao hơn chi phí biến đổi thì
khi nhà quản trị lập kế hoạch chi phí dễ bị động và có ít sự lựa chọn và giải
pháp có thể quyết định cũng như hoạt động tiết kiệm chi phí của doanh
nghiệp cũng khó thực hiện.
2.3. Phân loại theo các khâu kinh doanh.
Các khâu kinh doanh trong doanh nghiệp gồm có sản xuất, tiêu thụ và
công tác quản lý các hoạt động đó, để thực hiện điều đó doanh nghiệp phải
bỏ ra chi phí. Phân loại theo cách này ta chia chi phí thành : Chi phí sản xuất,
chi phí tiêu thụ và chi phí quản lý.
* Chi phí sản xuất.
Phân loại chi phí theo tiêu thức này, toàn bộ chi phí sản xuất của doanh
nghiệp được chia thành các yếu tố như sau:
- Nguyên liệu chính mua ngoài: Là toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính
dùng vào sản xuất mà doanh nghiệp phải mua từ bên ngoài, bao gồm mua
nguyên vật liệu, chi phí vận chuyển về kho, hao hụt định mức.
- Vật liệu phụ mua ngoài bao gồm các loại nhiên liệu như than, củi,
điện, dầu nhờn…mua từ bên ngoài dùng cho sản xuất của doanh nghiệp.
- Tiền lương bao gồm lương chính lương phụ của cán bộ, công nhân
viên trong doanh nghiệp.
- Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là số tiền tính theo tỷ lệ quy định
trên quỹ lương của doanh nghiệp trợ cấp mất sức lao động, hưu trí, ốm đau,
tai nạn… của công nhân.
- Khấu hao tài sản cố định là số tiền khấu hao những tài sản cố định
dùng trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Các chi phí khác bằng tiền bao gồm những chi phí về tiền mặt mà
theo tính chất kinh tế thì không thể sắp xếp vào các yếu tố kể trên như tiền
công tác phí, chi phí nước…
Chi phí sản xuất là bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá thành sản phẩm
và cũng là bộ phận chi phí chủ yếu trong doanh nghiệp việc xác định rỏ từng
bộ phận cấu thành để quản lý tốt tránh lãng phí và có thể thực hiện tốt việc
hạ giá thành sản phẩm.
* Chi phí tiêu thụ sản phẩm.
Trong sản xuất hàng hoá của nền kinh tế thị trường thì việc tiêu thụ
sản phẩm đối với các doanh nghiệp là hết sức quan trọng. Khối lượng lượng
hàng hoá tiêu thụ là nhân tố quan trọng quyết định đến quy mô sản xuất kinh
doanh và lợi nhuận cuối cùng của doanh nghiệp. Để thực hiện việc tiêu thụ
ĐINH CÔNG CHIẾN 14 LỚP : K39 -
D4
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ doanh nghiệp phải bỏ ra những chi
phí cần thiết.
Chi phí tiêu thụ sản phẩm bao gồm chi phí liên quan trực tiếp đến tiêu
thụ sản phẩm và chi phí cho việc mở rộng thị trường và nâng cao khả năng
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Chi phí trực tiếp tiêu thụ sản phẩm là những chi phí trực tiếp liên quan
đến việc tiêu thụ sản phẩm phát sinh trong quá trình chuyển sản phẩm từ
doanh nghiệp tới tay người mua gồm chi phí:
- Chi phí khấu hao tài sản cố định ở bộ phận bảo quản và bộ phận bán
hàng như kho tàng, cửa hàng, phương tiện vận chuyển bốc dở hàng hoá.
-Chi phí đóng gói sản phẩm là những chi phí bao gói sản phẩm thành
từng lô, từng kiện để bảo quản và thuận tiện trong chuyên chở.
- Chi phí vận chuyển sản phẩm đến tay người mua.
- Chi phí bảo quản sản phẩm kể từ xuất kho gửi đi bán, chi phí mua
ngoài như chi phí bốc dở ở nơi sân ga bến cảng, thuê kho bãi, hoa hồng đại lý
bán hàng, hoa hồng uỷ thác xuất nhập khẩu…
Những chi phí trên đây là những chi phí mà doanh nghiệp có thể phải
trả hoặc do người mua trả do thoả thuận hai bên trong đàm phán ký kết hợp
đồng. Khi doanh nghiệp phải thanh toán tiền vận chuyển thì việc lựa chọn
hình thức vận chuyển phù hợp có thể làm doanh nghiệp giảm bớt chi phí đặc
biệt là trong buôn bán xuất nhập khẩu. Chi phí tiêu thụ trong doanh nghiệp
dịch vụ được tính trực tiếp hoặc phân bổ cho khối lượng sản phẩm đã tiêu
thụ.
Chi phí nhằm nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm là những chi phí
cho việc nghiên cứu thị trường, chi phí cho việc đàm phán ký kết hợp đồng
và các chi phí khác nhằm mở rộng thị trường.
- Chi phí cho công tác điều tra, nghiên cứu thị trường gồm chi phí thu
thập thông tin, phân tích thông tin…giúp cho công việc ra quyết định kinh
doanh.
- Chi phí cho đàm phán ký kết hợp đồng, việc đàm phán ký kết hợp
đồng có thể tự doanh nghiệp thực hiện khi đó chi phí đàm phán gồm chi phí
đi lại, ăn ở, công tác phí còn khi nhờ môi giới doanh nghiệp mất chi phí môi
giới.
- Chi phí cho quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hội trợ triển lãm nhằm
mở rộng thị trường và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm gồm các chi phí như thuê
quản cáo, chi phí thuê triển lãm, chi phí thực hiện tiếp thị khuyến mại và chi
phí về hàng tiếp thị khuyến mại, tặng kèm…
Chi phí tiêu thụ sản phẩm là yếu tố quyết định việc tiêu thụ sản phẩm
được tiến hành tốt hay không. Trong các yếu tố cấu thành nên chi phí tiêu thụ
sản phẩm có nhiều yếu tố khó định mức vì vậy việc quản lý chi phí tiêu thụ
cần thực hiện tốt tránh lãng phí và không ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ
sản phẩm.
* Chi phí quản lý.
ĐINH CÔNG CHIẾN 15 LỚP : K39 -
D4
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
Chi phí quản lý của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền về toàn bộ
lao động sống và lao động vật hoá phát sinh ở bộ máy quản lý của doanh
nghiệp. Đây là chỉ tiêu tương đối quan trọng đối với các doanh nghiệp nó
phục vụ cho bộ máy điều hành hoạt động của doanh nghiệp. Chi phí quản lý
doanh nghiệp bao gồm :
- Chi phí nhân viên quản lý: Là khoản tiền mà doanh nghiệp phải trả
cho cán bộ công nhân viên quản lý như tiền lương, phụ cấp và các khoản tính
theo lương.
- Chi phí đồ dùng văn phòng là toàn bộ chi phí về đồ dùng văn phòng
xuất dùng như giấy, bút, mực…sửa chữa cho tài sản cố định, công cụ, dụng
cụ, đồ dùng trong quản lý.
- Chi phí khấu hao ở bộ phận quản lý doanh nghiệp là chi phí về những
hao mòn của tài sản cố định dùng cho bộ phận quản lý như văn phòng làm
việc phương tiện, máy móc, thiết bị truyền dẫn…
- Chi phí bằng tiền khác như điện, nước, điện thoại.
Chi phí quản lý doanh nghiệp là bộ phận gián tiếp của chi phí kinh
doanh, tỷ trọng của bộ phận này trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh và trình độ tổ
chức quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài các mục chi phí ở trên trong doanh nghiệp còn các khoản chi phí
thường xuyên sau:
- Chi phí dự phòng như chi phí dự phòng giảm giá hàng tồn kho, chi phí
dự phòng phải thu khó đòi và khoản chi phí dự phòng giảm giá chứng khoán.
- Chi phí cho hoạt động tài chính như mua cổ phiếu, đầu tư chứng
khoán, chi phí cho vay vốn, chi phí để vay vốn.
Tóm lại, nếu phân loại chi phí kinh doanh một cách hợp lý và khoa học
sẽ có ý nghĩa to lớn trong công tác quản lý kinh tế của doanh nghiệp thuận
lợi cho quá trình kiểm soát các chi phí phát sinh. Phân loại chi phí theo các tiêu
thức khác nhau nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý chi phí, xác định hướng phấn
đấu tiết kiệm chi phí kinh doanh và đề ra các biện pháp tiết kiệm chi phí,
tăng lợi nhuận.
3. CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ CƠ BẢN CỦA CHI PHÍ KINH
DOANH.
Để đánh giá, phân tích đầy đủ tình hình thực hiện chi phí của doanh
nghiệp các nhà quản trị cần sử dụng một loạt các chỉ tiêu có quan hệ với
nhau mà qua đó chúng ta có thể phản ánh được những tính chất cơ bản và
quan trọng nhất của quá trình thực hiện chi phí. Mục đích của các chi tiêu sẽ
giúp cho các nhà quản trị hạn chế tối đa tính chất định tính khi đề ra các mục
tiêu mà cố gắng lượng hoá cụ thể bằng những con số sẽ giúp cho người thực
hiện xác định được công việc cần thực hiện, để thực hiện mục tiêu đã đề ra.
Các chỉ tiêu vừa phải dể tính dể hiểu và thể hiện tổng quát.
3.1. Tổng chi phí kinh doanh.
ĐINH CÔNG CHIẾN 16 LỚP : K39 -
D4
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
Tổng chi phí kinh doanh là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh toàn bộ chi phí
kinh doanh phát sinh trong kỳ được kết chuyển (phân bổ) cho hàng hoá dịch
vụ đã tiêu thụ trong kỳ của doanh nghiệp.Tổng chi phí kinh doanh được xác
định trên cơ sở tính toán và tổng hợp từng khoản mục chi phí cụ thể, việc
này phải dựa vào việc tính toán và xác định từng khoản mục chi phí thực tế
đã phát sinh và phù hợp.
Tổng chi phí kinh doanh phân bổ cho hàng hoá- dịch vụ tiêu thụ trong
kỳ được tính bằng công thức:
F =Fdk + Fps - Fck
Trong đó:
F: Là tổng chi phí kinh doanh phân bổ cho hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ
trong kỳ.
Fdk: Là số dư chi phí kinh doanh đầu kỳ.
Fps: Là tổng chi phí kinh doanh phát sinh trong kỳ.
Fck: Là tổng chi phí kinh doanh phân bổ cho hàng hoá dự trữ cuối kỳ.
Tổng chi phí kinh doanh là một số tuyệt đối tính bằng tiền phản ánh
quy mô của chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được bù đắp từ
doanh thu của doanh nghiệp trong kỳ hạch toán. Song chưa phản ánh được
trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp phục vụ sản xuất kinh
doanh là thấp hay cao. Để khắc phục điều này ta sử dụng chỉ tiêu tỷ suất chi
phí kinh doanh.
3.2. Tỷ suất chi phí kinh doanh:
Nếu tổng chi phí kinh doanh là chỉ tiêu phản ánh về chiều rộng mức độ
bỏ ra của chi phí trong kỳ thì chỉ tiêu tỷ suất chi phí lại phản ánh về chiều
sâu, chất lượng sử dụng chi phí của doanh nghiệp. Nhìn vào chỉ tiêu tổng chi
phí kinh doanh, doanh nghiệp sẽ thấy được tổng cộng chi phí doanh nghiệp
bỏ ra để có được doanh thu trong kỳ, còn chỉ tiêu tỷ suất chi phí có thể đánh
giá được hiệu quả sử dụng chi phí của doanh nghiệp so với doanh nghiệp
khác cùng điều kiện hoặc so với kỳ gốc, đây là chỉ tiêu tương đối và được
tính bằng tỷ lệ phần trăm (%) của chi phí trên doanh thu bán hàng thể hiện
bằng công thức:
F
F/ = x 100
M
Trong đó:
F/ : Là tỷ suất chi phí kinh doanh trong kỳ ( tính bằng %).
F : Là tổng chi phí kinh doanh phân bổ cho hàng hoá, dịch vụ tiêu
thụ trong kỳ.
M : Tổng doanh thu hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ trong kỳ.
ĐINH CÔNG CHIẾN 17 LỚP : K39 -
D4
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
Chỉ tiêu này phản ánh mối qua hệ giữa tổng mức chi phí kinh doanh với
doanh thu tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ trong kỳ. Nó phản ánh cứ 100 đồng
doanh thu thì có bao nhiêu đồng chi phí cần bỏ ra để có được doanh thu đó.
Nếu doanh nghiệp nào có tỷ suất chi phí kinh doanh thấp thì có nghĩa là doanh
nghiệp đó kinh doanh có hiệu quả, trình độ tổ chức, quản lý chi phí nói chung
là tốt bởi tỷ suất chi phí thấp sẽ dẫn tới tỷ lệ lợi nhuận cao. Vì thế tất cả
các doanh nghiệp đều tìm mọi biện pháp để hạ thấp tỷ suất chi phí kinh
doanh của doanh nghiệp mình.
3.3. Mức độ tăng giảm tỷ suất chi phí kinh doanh ( ký hiệu là ∆F/ ).
Đây là chỉ tiêu phản ánh sự thay đổi về tỷ suất chi phí giữa hai kỳ kinh
doanh giữa kỳ so sánh với kỳ gốc. Mốc chênh lệch này được phản ánh bằng
công thức sau:
∆F/ = F/1 - F/0
Trong đ ó :
∆F/ : Là mức độ tăng hoặc giảm tỷ suất chi phí kinh doanh.
F/1 : Là tỷ suất chi phí kinh doanh kỳ so sánh.
F/0 : Là tỷ suất chi phí kinh doanh kỳ gốc.
Đối với doanh nghiệp khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà ta
chọn kỳ so sánh và kỳ gốc cho phù hợp. Ta có thể chọn kỳ gốc là kỳ kế hoặc
còn kỳ so sánh là kỳ thực hiện hay kỳ gốc là số thực hiện của năm trước còn
kỳ so sánh là số thực hiện của năm sau để đánh giá sự thay đổi về số tuyệt
đối của tỷ suất chi phí qua đó nhận thấy sự tiến bộ hay sự yếu kém trong
công tác quản lý chi phí kinh doanh của doanh nghiệp: Nếu ∆F/ nhỏ hơn
không hay nói cách khác tỷ suất chi phí của kỳ nghiên cứu nhỏ hơn kỳ gốc
chứng tỏ doanh nghiệp có cố gắng trong việc hạ thấp tỷ suất chi phí nên
việc tổ chức thực hiện chi phí kinh doanh tốt. Ngược lại nếu ∆F/ lớn hơn
không chứng tỏ việc tổ chức chi phí kinh doanh của doanh nghiệp là kém đi.
Tuy nhiên, ∆F/ bằng không ta khó có thể kết luận được việc quản lý và sử
dụng chi phí của doanh nghiệp là tốt hơn hay kém đi. Vì vậy, để kết luận
được chính xác ta cần xem xét đến các chỉ tiêu tiếp theo.
3.4. Tốc độ tăng giảm tỷ suất chi phí( TF’ ).
Đây là chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ (%) giữa mức tăng giảm tỷ suất chi phí
với tỷ suất chi phí kỳ gốc. Qua tốc độ nhanh hay chậm của tỷ suất chi phí
kinh doanh giữa hai thời kỳ ta có thể thấy rỏ hơn được tình hình phấn đấu
giảm chi phí của kỳ nào hay doanh nghiệp nào là tốt hơn.
Công thức biểu hiện tốc độ tăng hay giảm tỷ suất chi phí như sau:
∆F '
× 100
TF’ = F '0
Trong đó:
ĐINH CÔNG CHIẾN 18 LỚP : K39 -
D4
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
TF’ : Là tốc độ tăng giảm tỷ suất chi phí kinh doanh.
∆F/ : Là mức độ tăng giảm tỷ suất chi phí kinh doanh.
F/0 : Là tỷ suất chi phí kinh doanh kỳ gốc.
Nếu như qua chỉ tiêu mức độ tăng giảm tỷ suất chi phí kinh doanh mới
chỉ xác định được độ lớn của phần tỷ suất tăng hay giảm thì chỉ tiêu tốc độ
tăng giảm tỷ suất cho ta thấy rỏ quá trình tăng giảm trên là nhanh hay chậm.
Qua đó, nhà quản lý sẽ nhận biết được sự thành công hay thất bại của việc
phấn đấu giảm chi phí kinh doanh vì trong một số trường hợp giữa hai thời
kỳ của doanh nghiệp hoặc giữa hai doanh nghiệp có cùng điều kiện so sánh
đều có mức độ hạ thấp chi phí là như nhau nhưng tốc độ tăng hoặc giảm
như nhau, trong trường hợp này doanh nghiệp hay kỳ nào đó có tốc độ giảm
nhanh hơn thì được đánh giá là tốt hơn và ngược lại.
3.5. Mức độ tiết kiệm hay lãng phí chi phí : ( ký hiệu là ∆F ).
Chỉ tiêu này cho biết với mức doanh thu trong kỳ và mức giảm (hoặc
tăng) tỷ suất chi phí thì doanh nghiệp tiết kiệm ( hoặc lãng phí ) là bao
nhiêu ? Mức độ này được biểu hiện bằng công thức sau:
∆F = ∆F ' × M 1
Trong đó:
∆F : Là số tiền tiết kiệm ( hay lãng phí ) của doanh nghiệp.
M1 : Là doanh thu tiêu thụ hàng hoá dịch vụ kỳ so sánh.
∆F/ : Là mức độ tăng giảm tỷ suất chi phí.
Chỉ tiêu này cho ta thấy rõ hơn về mức độ hạ thấp chi phí kinh doanh
bằng cách chuyển số tương đối (%) thành số tuyệt đối. Từ đó, các nhà quản
trị tài chính sẽ được cụ thể việc giảm tỷ suất chi phí kinh doanh sẽ mang lại
bao nhiêu đồng lợi nhuận. Bằng việc đem so sánh chi phí của hai kỳ với nhau
trong mối quan hệ với doanh thu đã mang lại hiệu quả thật sự trong công tác
quản lý chi phí kinh doanh.
3.6. Hệ số sinh sinh lợi của chi phí kinh doanh ( ký hiệu là H ).
Hệ số sinh lợi của chi phí kinh doanh là chỉ tiêu tương đối phản ánh
mối quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận và tổng chi phí kinh doanh thương mại
trong một thời kỳ nhất định biểu hiện bằng công thức :
P
H=
F
Trong đó :
H : Là hệ số sinh lợi của chi phí kinh doanh
P : Là tổng lợi nhuận đạt được trong thời kỳ kinh doanh
F : Là tổng chi phí kinh doanh trong kỳ
Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, nó thể hiện mức sinh lợi của chi phí đã bỏ ra: Cứ
một đồng chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra sẽ thu về bao nhiêu đồng lợi nguận.
Nếu hệ số sinh lợi của doanh nghiệp nâng cao ( H càng lớn ) thì chứng tỏ
khả năng kinh doanh của doanh nghiệp là tốt hay nói các khác chi phí mà
ĐINH CÔNG CHIẾN 19 LỚP : K39 -
D4
- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP KHOA : KẾ TOÁN-TÀI CHÍNH
doanh nghiệp bỏ ra đã được sử dụng có hiệu quả và ngược lại nếu hệ số
sinh lợi của doanh nghiệp thấp ( H nhỏ ) chứng tỏ khả năng kinh doanh của
doanh nghiệp kém.
Nhìn chung, tất cả các chỉ tiêu đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Do vậy, để phân tích đánh giá được hiệu quả sử dụng chi phí kinh doanh một
cách toàn diện cần phải đi sâu phân tích các chỉ tiêu này với nhau để rút ra
được kết luận tổng quát, chặt chẽ và chính xác. Từ đó, đề ra những quyết
định hay đánh giá sát với tình hình thực tế của doanh nghiệp.
4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾT KIỆM CHI PHÍ KINH DOANH.
4.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh :
Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn chịu ảnh của
rất nhiều yếu tố từ môi trường bên trong và bên ngoài, doanh nghiệp muốn
tồn tại và phát triển thì phải biết kết hợp hài hoà giữa các nhân tố. Môi
trường bên trong bao gồm các nhân tố chủ quan của doanh nghiệp còn môi
trường bên ngoài bao gồm các nhân tố khách quan của doanh nghiệp. Do đó
việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh tức là phân tích
các tác động của các nhân tố từ môi trường bên trong và bên ngoài đến chi phí
của doanh nghiệp.
4.1.1. Nhân tố khách quan.
Nhân tố khách quan là những nhân tố bên trong và ngoài doanh nghiệp,
nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Bởi vậy, thay vì việc cố gắng
tác động làm thay đổi các nhân tố này doanh nghiệp nên tìm mọi biện pháp
để thích nghi với chúng. Các nhân tố này luôn ảnh hưởng tới doanh nghiệp
theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Vậy làm thế nào để hạn chế mặt
tiêu cực và thúc đẩy mặt tích cực của nó? muốn hiểu rõ hơn về điều này ta
phải tìm hiểu thêm về các nhân tố thuộc về môi trường khách quan sau đây:
*Ảnh hưởng của nhân tố giá cả đến chi phí kinh doanh.
Để tiến hành kinh doanh doanh nghiệp phải lấy từ môi trường bên
ngoài những yếu tố đầu vào như : Nguyên vật liệu, lao động, vốn …tuy
nhiên đối với doanh nghiệp thì đây là yếu tố đầu vào còn trên góc độ thị
trường thì chúng lại là hàng hoá và là đầu ra của các doanh nghiệp khác. Vì
thế, đã là hàng hoá thi nó đều phải chịu tác động của quy luật thị trường như
cung cầu, quy luật giá cả. Mặt khác trong quá trình sản xuất thì giá cả các
yếu tố đầu vào sẽ được kết chuyển vào giá trị hàng hoá mà doanh nghiệp sản
xuất ra. Ngoài ra, còn một bộ phận các yếu tố đầu vào khác kết chuyển vào
chi phí sản xuất của doanh nghiệp và chi phí bán hàng . Bởi vậy, khi giá cả
các yếu tố đầu vào tăng thì chi phí của doanh nghiệp cũng tăng tương ứng và
ngược lại khi giá cả các yếu tố đầu vào giảm thì chi phí của doanh nghiệp
cũng giảm tương ứng. Doanh nghiệp không thể tác động vào giá cả trên thị
trường và doanh nghiệp phải tìm cách thích nghi với nó bằng nhiều cách như:
ĐINH CÔNG CHIẾN 20 LỚP : K39 -
D4
nguon tai.lieu . vn