Xem mẫu

  1. A. MỞ ĐẦU Trong quá trình nghiên cứu về phản ánh tâm lý thông qua hoạt động và giao tiếp, các nhà khoa học thường không chỉ quan tâm đến bản thân của quá trình đó mà còn quan tâm đến cả ch ủ th ể của nó nữa, ch ủ th ể đó chính là nhân cách. Nhân cách là đối tượng được nhiều ngành khoa học khác nhau nghiên cứu như triết học, xã hội học, kinh tế - chính tr ị học, luật học, tâm lý học, y học, giáo dục học, v.v...Nhân cách trong tâm lý học là một phạm trù nền tảng. Việc làm sáng tỏ những vấn đề về bản chất nhân cách, cấu trúc nhân cách, con đ ường hình thành nhân cách… có ý nghĩa lý luận thực tiễn rất to lớn. Trong đó, các nhân t ố như giáo dục, hoạt động, giao tiếp… có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường như ngày hôm nay, việc nghiên cứu nhân cách con người lại mang tính cấp thiết, có ý nghĩa cấp thiết nhiều hơn nữa khi mà xây dựng và phát triển con người, nâng cao chất lượng nguồn lực con người đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh của công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Để góp phần thực hiện thắng lợi công việc lớn lao này, em chọn đã chọn đề tài “ cấu trúc nhân cách và các yếu tố cần tạo lập để hình thành nhân cách của con người tiến bộ trong chế độ xã hội chủ nghĩa” để nghiên cứu và tìm hiểu. Bằng việc đóng góp một vài ý kiến cá nhân, em hy vọng ý kiến của em s ẽ phẩn nào giúp góp phần xây dựng hình ảnh con người mới – con người tiến bộ trong chế độ xã hội chủ nghĩa để đưa đất nước Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ và phồn thịnh hơn. Nội dung bài tiểu luận của em được trình bày theo các phần như sau:
  2. Mục lục Trang A. MỞ ĐẦU..............................................................................................2 B. NỘI DUNG CHÍNH..............................................................................4 I. NHÂN CÁCH VÀ CẤU TRÚC NHÂN CÁCH...............................4 1. Khái niệm nhân cách....................................................................4 2. Cấu trúc nhân cách.......................................................................5 II. XÂY DỰNG NHÂN CÁCH CON NGƯỜI TI ẾN BỘ CHO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.....................................................................................6 1. Tạo lập các tiền đề......................................................................6 a) Tiền đề vật chất.....................................................................6 b) Tiền đề văn hóa, giáo dục, tư tưởng (thế giới quan)..........10 c) Một số nhân tố mang tính tiền đề khác...............................12 2. Vấn đề nhân cách con người Việt Nam hiện nay so với các dân tộc văn minh và những yêu cầu xây dựng con người MỚI..................17 a) Các giá trị đã có.....................................................................17 b) Các khiếm khuyết, biểu hiện lạc hậu cần khắc phục.......18 c) Một số kiến nghị...................................................................19 C. KẾT LUẬN.........................................................................................21 Và bây giờ chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu kỹ các yếu tố cấu thành cũng như ảnh hưởng của nó tới nhân cách con người.
  3. B. NỘI DUNG CHÍNH 1. NHÂN CÁCH VÀ CẤU TRÚC NHÂN CÁCH 2. Khái niệm nhân cách Nói đến nhân cách thì nhân cách được xem là một trong nh ững v ấn đề phức tạp trong các vấn đề phức tạp khác của con người. Trên thế giới, do có nhiều trường phái nghiên cứu khác nhau nên cũng có nhiều quan niệm khác nhau về nhân cách. Vậy nhân cách là gì? Theo chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo quan niệm có “tính người b ẩm sinh”; “nhân cách là yếu tố tinh tinh th ần đầu tiên c ủa t ồn t ại ng ười và chúa là nhân cách tối cao nhất có trước và chi phối nhân cách con người”… Còn chủ nghĩa duy vật và các khoa học cụ thể thông th ường thì l ại có xu hướng tuyệt đối hoá mặt tâm lý, sinh lý, xem nh ẹ mặt xã h ội hay tách rời mặt xã hội với mặt tự nhiên của nhân cách. Ngày nay, nhờ những thành tựu có được của nhiều ngành khoa h ọc nghiên cứu về nhân cách, người ta đã đưa ra một quan niệm tổng hợp và đúng đắn hơn về nhân cách như sau: nhân cách là toàn bộ những năng lực và phẩm chất xã hội – sinh lý – tâm lý tạo thành một ch ỉnh thể mà nhờ nó mỗi cá nhân có thể đóng vai trò chủ thể, tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định, tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình. Trên cơ sở những quan điểm đó, ta có thể nêu lên một khái niệm tổng quát về nhân cách như sau: nhân cách là tổ hợp thái độ, thuộc tính riêng trong quan hệ hành động của từng người với giới tự nhiên, với xã hội và bản thân.
  4. Khái niệm trên nhấn mạnh vấn đề “hành động”, có nghĩa là nhân cách của một con người chỉ bộc lộ trong hành động thông qua các m ối quan hệ ứng xử của người đó với tự nhiên, với xã hội và với b ản thân. Vì lẽ đó mà Platôn đã rất có lý khi ông nói rằng: “Người đang ngủ thì kẻ cướp cũng như thiên thần”. 3. Cấu trúc nhân cách Trên thế giới, có rất nhiều quan điểm về cách xác định cấu trúc của nhân cách: Theo các sách giáo khoa tâm lý học của Liên Xô và Việt Nam thì cấu trúc của nhân cách được xác định gồm 4 yếu tố như sau: xu hướng phát triển cá nhân, năng lực cá nhân, tính cách cá nhân và tính khí c ủa cá nhân. Quan điểm giáo dục học quy cấu trúc của nhân cách vào ba lĩnh vực: nhận thức, rung cảm và ý chí. Gần đây một số nhà tâm lý học Việt Nam lại cho rằng nhân cách gồm 3 thành ph ần: Một là, những thuộc tính tâm lý ổn định bao gồm không gian bên trong của nhân cách; Hai là, mối quan hệ giữa các cá nhân với xã hội, với người khác thông qua giao tiếp; Ba là, mối quan hệ giữa cá nhân với công việc. Những quan điểm được nêu ra ở trên tuy có khác nhau nhưng cũng có những điểm chung. Trên cơ sở những điểm chung đó, ta có th ể hình dung một cách khái quát cấu trúc của nhân cách bao gồm: Hạt nhân của nhân cách là thế giới quan của cá nhân, đó là toàn bộ những quan điểm, lý tưởng, niềm tin, định hướng giá trị chung của cá nhân. Không gian bên trong của nhân cách là những năng lực và phẩm chất xã hội của cá nhân như thể chất, năng lực, trí tuệ, trình độ chuyên môn, các phẩm chất chính trị, pháp luật, đạo đức, thẩm mỹ,…
  5. Bộ phận sâu kín và nhạy cảm nhất của nhân cách là tâm hồn con người, nó là tầng sau nhất, là tập mờ của nhân cách, là nơi lắng đọng và tiềm ẩn của mỗi cá nhân. Đó là thế giới nội tâm, có ch ức năng làm tăng thêm hay giảm nhẹ, kiềm chế hay thúc đẩy hành vi của mỗi con người. 4. XÂY DỰNG NHÂN CÁCH CON NGƯỜI TIẾN BỘ CHO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1. Tạo lập các tiền đề Để giải quyết vấn đề nhân cách và xây dựng nhân cách con người tiến bộ cho xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần xem xét mối quan h ệ giữa cái sinh học và cái xã hội trong con người, bởi nh ư C.Mác đã nói: “con người là một thực thể sinh học - xã hội”. Trong quá trình phát tri ển c ủa mình, con người đã bỏ xa giới động vật trong sự tiến hoá, nh ưng điều đó không thể khẳng định rằng con người đã lột bỏ được tất cả nh ững cái tự nhiên, cái sinh học trong mình. Do đó, nhân cách của con người cũng không ngoại lệ. Nó phải chịu sự chi phối của nhiều y ếu t ố mang tính tiền đề như vật chất, văn hoá, giáo dục, tư tưởng, v.v… Chúng ta hãy cùng nghiên cứu về yếu tố mang tính tiền đề đầu tiên. a) Tiền đề về vật chất Trước hết, muốn tìm hiểu về nhân cách, ta phải dựa trên cơ s ở sinh học. Khi nói tới những yếu tố sinh học trong con người, có th ể hi ểu đó là những yếu tố hữu sinh, hữu cơ, những cái mà về mặt phát sinh, luôn gắn bó với tổ tông động vật của con người, những cái làm cho con người hình thành và hoạt động như một cá th ể, một h ệ th ống ph ục tùng các quy luật sinh học hoặc cũng có thể coi đó là toàn bộ tiền đề sinh học của con người. Một con người phát triển đầy đủ, không
  6. khiếm khuyết về cơ thể, giác quan và tư duy thì mới có th ể có một nhân cách tốt. Để có được điều đó, trước tiên, con người phải được sống trong một xã hội ổn định và có nền kinh tế phát triển. Khi được sống trong một nền kinh tế phát triển, một xã hội ổn định thì nhu cầu ăn, mặc, ở của con người sẽ được đáp ứng đầy đủ. Đồng thời, con người cũng sẽ được chăm sóc đầy đủ và tốt nhất về giáo dục, y t ế, văn hóa, tư tưởng. Đó là bước đệm để hình thành một con người phát triển toàn diện, từ đó nhân cách con người cũng được phát triển theo hướng tích cực hơn. Song đây chỉ là “điều kiện cần” bởi vì nhân cách không hẳn là những yếu tố có sẵn có trong cấu trúc cơ thể (không ph ải từ khi sinh ra đã có bẩm sinh) rồi lớn dần lên về lượng theo thời gian và không gian mà nó được hình thành dần dần cùng với sự phát triển của cá nhân và sự quy định của môi trường xã h ội. Cũng nh ư A.N.Leonchiev đã chỉ ra rằng: “nhân cách con người không phải được đẻ ra mà được hình thành”. Tiền đề vật chất đóng vai trò “điều kiện đủ” chính là môi trường xã hội. Môi trường xã hội cụ thể là các nhóm mà các cá nhân là thành viên, đó là: gia đình, làng xóm, khu phố, cộng đồng, tập thể. Gia đình là nhóm cơ sở, là cái nôi đầu tiên mà cá nhân con ng ười hình thành từ ấu thơ. Đây cũng là hình th ức nhóm có sớm nh ất trong lịch sử loài người. Gia đình là khái niệm có nhiều cách tiếp cận khác nhau, vì vậy, cách hiểu về gia đình cũng rất đa dạng. Năm 1994 - Năm Quốc tế Gia đình, Liên Hợp Quốc có bàn đến khái niệm "gia đình" trong cuốn tài liệu "Sự tiến triển của cấu trúc gia đình" nh ư sau: "Gia đình là một thể chế có tính chất toàn cầu". Mặc dù không đưa ra một khái niệm cụ thể về gia đình nhưng kết luận của Liên Hợp Quốc đã khẳng định tính toàn cầu, phổ biến và đa dạng của gia đình. Khi đã coi
  7. gia đình là một thể chế thì có nghĩa là ở mỗi qu ốc gia (ho ặc vùng lãnh thổ), gia đình lại có những "biến thể" khác nhau tuỳ thuộc vào lối sống, nền văn hoá cụ thể. Ở Việt Nam cũng tương tự, hiện vẫn chưa có m ột khái niệm gia đình mang tính "chuẩn mực" nào được th ừa nh ận. Tuy nhiên, theo cách hiểu thông thường vẫn được chấp nhận trong các nghiên cứu cũng như trong các văn bản, tài liệu, v.v… thì gia đình là "tế bào của xã hội", "một thiết chế xã hội", "một đơn vị kinh tế - xã hội cơ sở", đồng thời là "một nhóm tâm lý - xã hội đặc thù". Từ những quan niệm như trên ta có thể thấy gia đình có vai trò vô cùng to lớn đối với mỗi cá nhân và toàn xã hội thông qua các vài trò và chức năng của nó. Gia đình có rất nhiều chức năng khác nhau, nhưng theo nghiên cứu thì có bốn chức năng được chú ý và th ừa nh ận r ộng rãi nhất là: chức năng tái sản xuất con người nhằm duy trì nòi giống; chức năng kinh tế để nuôi sống và đảm bảo các nhu cầu vật chất của các thành viên; chức năng nuôi dưỡng và giáo dục con cái và chức năng làm cân bằng làm cân bằng tâm lý, thoả mãn các nhu cầu tình c ảm c ủa các thành viên trong gia đình. Trong các chức năng nêu trên, chức năng nuôi dưỡng và giáo dục con cái có tầm quan trọng đặc biệt đối với mỗi cá nhân từ khi sinh ra đến khi giã từ cuộc đời mà các thiết ch ế khác như giáo d ục, pháp lu ật, tôn giáo.v.v. không thể thay thế được. Đây là chức năng xã hội hoá và giáo dục nhân cách con người của gia đình. Tiếp theo đó, con người là thành viên của các nhóm theo tên g ọi khác nhau: nhóm chính thức, nhóm không chính thức, nhóm lớn, nhóm nhỏ, nhóm chuẩn mực, nhóm quy chiếu,... Các nhóm có thể đạt tới trình độ phát triển cao nhất được gọi là tập thể. Tập thể là một nhóm
  8. người, một bộ phận của xã hội được thống nhất lại theo những mục đích chung phục vụ từng các mục đích của xã hội. Tập thể có vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát triển nhân cách. Trước h ết, tập thể giúp con người tìm thấy chỗ đứng của nhu cầu hoạt động, giao tiếp vốn là những nhu cầu cơ bản và xuất hiện rất sớm của con người. Vì vậy, hoạt động tập thể là điều kiện, đồng thời là phương thức thể hiện và hình thành những năng khiếu, năng lực và các ph ẩm ch ất trong nhân cách. Tập thể tác động đến nhân cách thông qua hoạt động cùng nhau, qua dư luận tập thể, truyền thống tập th ể, b ầu không khí tâm lý tập thể. Nhờ vậy nhân cách mỗi thành viên liên tục được đều ch ỉnh, điều khiển cũng như phải thay đổi để phù hợp với quan hệ xã hội mà nó tham gia. Ngược lại, mỗi cá nhân tác động tới cộng đồng, xã hội, tới cá nhân khác thông qua tập thể của mình. Chính vì thế, trong giáo dục người ta thường vận động nguyên tắc giáo dục trong tập th ể và bằng tập thể. Trong các buổi sinh hoạt lớp, ta được quy ền nói lên ý kiến của mình cũng như tiếp thu ý kiến nhận xét của các bạn để sửa đổi những cái chưa tốt, phát huy nhửng cái tốt, hướng nhân cách đến sự chẩn mực. Ví dụ: là một thành viên của Đoàn xã (ph ường), thông qua quá trình cùng học tập, tham gia các thành viên khác trong Đoàn, ta th ấy r ằng cần phải học tập những đức tính tốt như chăm chỉ, cần cù, tham học hỏi, tích cực tham gia các hoạt động Đoàn, Đội, các công tác xã h ội…, tránh xa những thói quen xấu như: vô lễ, ăn chơi, đua đòi… Đ ồng th ời, ta phải biết rèn luyện theo những truyền thống, giữ gìn những giá trị văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Về mặt này thì mỗi cá nhân có một môi trường riêng, độc đáo, (mỗi gia đình là một “tế bào” của xã hội) từ đó quy định sự khác nhau về sắc thái nhân cách cá nhân. Từ đó
  9. có thể thấy rằng sự phong phú của các quan hệ xã hội mà cá nhân tham gia quy định sự phong phú của nhân cách. Tuy nhiên mối quan hệ giữa nhân cách và môi trường xã h ội không phải là một chiều mà là quan hệ biện chứng có tính hai chiều: mỗi cá nhân, một mặt, tiếp nhận sự tác động của môi trường xã h ội m ột cách có tích cách, có chọn lọc, kế thừa, cải biến và chuyển hóa để biến thành cái bên trong của mình; mặt khác, thông qua sự hoạt động tích cực của mỗi cá nhân, sự hoạt động tích cực đó lại tác động trở l ại môi trường xã hội. Sự hình thành nhân cách của con người mới xã hội chủ nghĩa cũng không nằm ngoài những tiền đề trên, nhưng trên mỗi yếu tố đó có sự khác nhau về chất so với các xã hội có giai cấp trong lịch sử. Ch ẳng hạn, yếu tố “con người sinh học”, đó là con người được cả xã hội chăm lo, tôn trọng, giúp đỡ từ trong bào thai đến tuổi trưởng thành. Yếu tố “môi trường xã hội” là nền tảng của phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa hình thành nền giáo dục mới, các mối quan h ệ xã h ội mới, các chuẩn mực giá trị mới cho sự ra đời một nhân cách mới. b) Tiền đề về văn hoá, giáo dục, tư tưởng (thế giới quan) Sự hình thành nhân cách nói chung và nhân cách xã hội chủ nghĩa nói riêng diễn ra trong cả một đời người, trong đó giáo dục và tự giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là lứa tuổi trẻ. Vì giáo dục theo nghĩa chung nhất là hoạt động có định hướng của con người nhằm hình thành và phát triển nhân cách nhanh hơn. Ý thức được vị trí đó c ủa giáo dục, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết về vấn đề này, đặc bi ệt trong nghị quyết VIII: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân l ực,
  10. bồi dưỡng nhân tài” và sau đó có một nghị quyết riêng (nghị quyết Trung Ương 2 khóa VIII) chuyên bàn về giáo dục. Điều đó ti ếp t ục được khẳng định trong Đại hội Đảng khóa IX với tinh thần: “Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghi ệp, không cam ch ịu nghèo hèn”. Qua những nhận thức của Đảng và những nghị quyết được Đảng đưa ra, ta thấy rằng giáo dục giữ vai trò ch ủ đạo đối v ới s ự hình thành và phát triển nhân cách, điều đó được thể hiện ở những mặt sau đây: - Giáo dục là sự tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch nhằm thực hiện có hiệu quả các mục đích đã đề ra. - Giáo dục có thể mang lại những tiến bộ mà các nhân tố khác như bẩm sinh - di truyền hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể có được. - Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người bị khuyết tật, nó có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật gây ra cho con người. - Giáo dục còn có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội. Đó chính là hiệu quả của công tác giáo dục lại đối với trẻ em hư và những người phạm pháp. - Không giống với những nhân tố khác, giáo dục không chỉ thích ứng mà còn có thể đi trước hiện thực và thúc đẩy nó phát tri ển. Đi ều đó có giá trị định hướng cho việc xây dựng mô hình nhân cách c ủa con ng ười việt nam với tư cách là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
  11. - Thực tế giáo dục cũng chứng minh rằng: sự phát triển tâm lý cảu trẻ em chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những điều kiện của giáo dục và dạy học tiên tiến. Điều đó càng chứng tỏ được tầm quan trọng của nền giáo dục tiên tiến. Nền giáo dục, dạy học tiên ti ến s ẽ tạo nên sự phát triển nhân cách khi trong quá trình ấy, nh ững s ức m ạnh của bản thân trẻ được thúc đẩy, khi nhu cầu, động cơ, h ứng thú của trẻ được chú ý, khi giáo dục và dạy học phù hợp với nh ững quy lu ật bên trong của sự phát triển cá nhân. Yếu tố mang tính tiền đề ảnh hưởng đến nhân cách tiếp theo chính là tư tưởng chính trị. Nòng cốt của tiền đề này chính là ch ủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là những lý luận và t ư tưởng v ừa có tính chất khoa học, vừa có tính cách mạng, vừa thấm đẫm chủ nghĩa nhân văn cao cả: “Tất cả do con người, tất cả vì con ng ười” v ới lý tưởng tối cao là con người giải phóng, con người tự do, phát triển toàn diện. Vì vậy, người dân phải được giáo dục một cách đầy đủ về chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh để nhân cách được phát triển toàn diện. c) Một số nhân tố mang tính tiền đề khác Bên cạnh các yếu tố mang tính tiền đề nh ư vật chất, văn hóa, giáo dục, tư tưởng còn có yếu tố hoàn cảnh sống, di truyền, hoạt động, giao tiếp cũng ảnh hưởng trực tiếp tới sự hình thành và phát triển nhân cách. Ảnh hưởng của nhân tố môi trường sống đến nhân cách Hoàn cảnh tự nhiên: nhân cách như là một thành viên của xã hội, chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên thông qua những giá trị vật chất và tinh thần, qua phong tục tập quá của dân tộc, của địa phương,
  12. của nghề nghiệp – những cái vốn có liên hệ với điều ki ện t ự nhiên ấy qua phương thức sống của chính bản thân nó. Ví dụ như: một người sống lâu trong rừng, quen với thói chạy nhảy, săn bắt, khi được về thành phố họ cũng mamg theo sự hoang dã đó. Khi đó, muốn thay đổi được bản tính là một điều khó khăn và phải mất thời gian khá dài. Hoàn cảnh xã hội: có vai trò lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Nếu như không có sự tiếp xúc với con người thì cá thể lớn lên và phát triển trong trạng thái động vật, nó không thể trở thành một con người, một nhân cách. Nhân cách đó là sản phẩm của xã hội. Quan hệ sản xuất là một thuộc tính của xã hội, quy định nội dung của nhiều nét tâm lý cơ bản của nhân cách. Tâm lý nhân cách phụ thuộc vào quan hệ chính trị và pháp luật. v ị trí giai c ấp cá nhân sẽ kích thích của nó ở mức độ này, mức độ khác trong vai trò xã hội. nhu cầu, hứng thú,…phụ thuộc không ít vào vai trò ấy. Trong những mối quan hệ được nêu trên, nhân cách không chỉ là một khách thể mà còn là một cụ thể. Cá nhân là một tồn tại có ý thức, nó có th ể lựa chọn phương thức sống của mình và do đó nó lựa chọn những phản ứng khác nhau trước tác động của hoàn cảnh xã hội. Ngoài ra, ta còn thấy những hiện tượng tâm lý nhân cách. Dư lu ận và tâm tr ạng chung. Đó là sự phán xét đánh giá của đông người về s ự ki ện đ ời s ống xã hội của hoạt động tập thể của hành vi cá nhân, đóng vai trò tích c ực hoặc tiêu cực trong đời sống. • Tâm trạng chung bao trùm bầu không khí lạc quan hay bi quan, sức phấn đấu chung của cả nhóm hay cá nhân đều chịu ảnh hưởng của tâm trạng chung đó.
  13. • Thi đua là phương thức tác động qua lại giữa cá nhân, nhóm và tập thể làm tăng kết quả hoạt động của nhau, nhiều phẩm ch ất nhân cách, tập thể được phát triên qua thi đua. • Bắt chước thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống (vui chơi, học tập….). Bắt chước diễn ra một cách có ý thức hay không ý thức, bắt chước trong giao tiếp, ngôn ngữ, v.v… Ví dụ minh họa: khi bạn tham gia giao thông chẳng may vượt đèn đỏ, cảnh sát giao thông tuýt còi và phạt hành chính bạn. Để không b ị giữ xe, bạn đã dúi cho anh ta ít tiền. Sau khi đ ược cho đi, b ạn phàn nàn rằng cảnh sát dạo này xuống cấp quá. Tốt nghiệp đại h ọc xong, bạn cũng được vào làm trong ngành cảnh sát. Mặc dù những ngày đầu bạn giữ phẩm chất của người cảnh sát khá tốt, nhưng khi về nhà bị vợ phàn nàn, bạn bè khích bác nên cuối cùng bạn cũng nhận tiền của người dân. Đây là một sự tác động tiêu cực của hoàn cảnh xã h ội đến nhân cách.
  14. Ảnh hưởng của nhân tố hoạt động Mọi hoạt động của giáo dục đều là vô nghĩa nếu thiếu hoạt đông của cá nhân. Vì vậy hoạt động của cá nhân là nhân tố quy ết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người luôn có tính mục đích, tính xã hội, được th ực hi ện bằng nh ững thao tác và công cụ nhất định. Vì vậy, mỗi loại hoạt động đều có những yêu cầu ở con người những phẩm chất và năng lực nhất định. Quá trình tham gia hoạt động làm cho con người hình thành và phát triển những phẩm chất và năng lực đó. Ví dụ như khi ta tham gia giao thông trên đường, gặp đèn đỏ ta dừng lại. Tuy nhiên,có một số người vẫn cố tình vượt và họ đã bị cảnh sát giao thông phạt vi phạm hoặc họ đã vô tình gây ra nh ững tai n ạn thương tâm. Từ đó, ta ý thức được rằng phải tuân thủ pháp luật. Thông qua hai quá trình xuất tâm (đối tượng hóa) và nh ập tâm (ch ủ thể hóa) trong hoạt động, con người, một mặt lĩnh hội được nh ững kinh nghiệm xã hội lịch sử để hình thành nhân cách, m ột m ặt xu ất tâm lực lượng bản chất vào xã hội, “tạo nên sự đại diện nhân cách” của mình ở người khác và trong xã hội. Sự hình thành và phát tri ển nhân cách của mỗi người phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo ở mỗi th ời kì nhất định. Muốn hình thành nhân cách con người ph ải tham gia vào các dạng hoạt động khác, nhất là vai trò của hoạt động chủ đạo. Tóm lại, hoạt động có vai trò quyết định trực ti ếp s ự hình thành và phát triển nhân cách,vì vậy trong công tác giáo dục cần chú ý việc tổ chức hoạt động sao cho phong phú, hấp dẫn cả nội dung l ẫn hình th ức để lôi cuốn cá nhân tham gia tích cực, tự giác. Đặc biệt, cần chú ý t ổ chức tốt các hoạt động chủ đạo ở mọi lứa tuổi, vì hoạt động ấy quy ết
  15. định sự hình thảnh các cấu trúc tâm lý – nhân cách đặc trưng của lứa tuổi đó. Ảnh hưởng của nhân tố giao tiếp Cùng với hoạt động, giao tiếp là một con đường quan trọng trong công việc hình thành và phát triển nhân cách. Giao tiếp là điều kiện tồn tại của xã hội loài người. Không thể có xã hội nếu không có giao tiếp vì xã hội là một cộng đồng người. Đối với cá nhân, giao tiếp là điều kiện tồn tại và là một nhân t ố phát tri ển tâm lý, nhân cách họ. C.Mác đã chỉ ra rằng: “sự phát triển của một cá nhân được qui định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác mà nó giao tiếp một các trực tiếp hay gián tiếp với h ọ” (C.Mác, Anghen, toàn tập – tập 3). Bởi lẽ ở mỗi người đều chứa đựng những kinh nghiệm xã hội – lịch sử. Trong quá trình giao tiếp, mỗi cá nhân sẽ được lĩnh hội những kinh nghiệm ấy để tồn tại và phát triển. Không chỉ là điều kiện cho sự phát triển, giao tiếp còn là con đường hình thành nhân cách con người. Bằng giao tiếp, con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, các chu ẩn mực xã hội và “tổng hòa các mối quan hệ xã hội” thành bản ch ất con người, đồng thời thông qua giao tiếp, con người đóng góp tài lực của mình vào kho tàng chung của nhân loại, của xã hội. Trong giao tiếp con người không chỉ nhận thức được người khác, nhận thức các quan hệ xã hội, mà còn nhận thức được chính bản thân mình, tự đối chiếu, so sánh mình với người khác, với chuẩn m ực xã hội, tự đánh giá bản thân mình để hình thành một thái độ giá trị - cảm xúc đối với bản thân. Hay nói khác đi, qua giao ti ếp con ng ười hình thành năng lực tự ý thức – một thành ph ần quan trọng trong nhân cách.
  16. Qua giao tiếp, chúng ta học hỏi những người xung quanh, vì vậy mà trưởng thành nhanh chóng. Ví dụ chứng minh: Khi còn học phổ thông, ta có thói quen x ấu nh ư: cẩu thả, luộm nhuộm….vì ta vẫn sống cùng bố m ẹ, ph ụ thu ộc vào b ố mẹ. Nhưng khi vào đại học, sống xa gia đình, ph ải tự l ập, ở cùng b ạn bè mới, được tiếp xúc với con người mới, nền giáo dục mới, ta nhận ra những thói quen trước kia của mình là không tốt. Chính vì vậy ta ý th ức được rằng cần phải thay đổi những thói hư tật xấu trước kia, t ừ đó góp phần hoàn thiện nhân cách bản thân. Tóm lại giao tiếp là hình tức đặc trưng cho mối quan hệ người – người, là một yếu tố cơ bản của sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách. Song mọi hoạt động và giao tiếp của con ng ười ch ỉ có thể diễn ra trong cộng đồng, trong nhóm và tập thề. Ảnh hưởng của nhân tố bẩm sinh – di truyền Hiểu một cách đơn giản, bẩm sinh là những đặc điểm sinh lý mà khi sinh ra đã sẵn có. Di truyền là được truyền từ đời này sang đời khác bằng con đường sinh học. Để nhận thức đúng vai trò của bẩm sinh – di truyền trong sự phát triển tâm lý nhân cách, ta cần ph ải th ừa nh ận m ột thực tế là mọi cơ thể bình thường đều có thể phát triển tốt đẹp đời sống tinh thần của mình. Hơn thế, hoạt động tâm sinh lý c ủa con người lại có khả năng bù trừ: sự thiếu hụt của giác quan này có th ể làm tăng tính nhạy cảm của giác quan khác, một chức năng tâm lý bị phá hủy có thể được khôi phục bằng cách luyện tập để thiết lập ch ức năng mới trên võ não ứng với chức năng tâm lý đó. Ngoài ra, s ự tác động của yếu tố di truyền đối với từng giai đoạn phát triển l ứa tuổi và đối với từng hoạt động cụ thể khác nhau.
  17. Ví dụ: khả năng tiềm tàng của bộ máy phân tích âm thanh cần ph ải được phát triển từ thời thơ ấu. Nó lá đặc điểm duy truy ền khác c ủa c ơ thể. Qua đó, ta nhận ra rằng bẩm sinh – di truy ền là n ền t ảng t ự nhiên cho sự hình thành và phát triển nhân cách. Tóm lại, các yếu tố trên tác động đan xen vào nhau, b ổ sung h ỗ tr ợ cho nhau trong việc hình thành và phát triển nhân cách. 2. Vấn đề nhân cách con người Việt Nam hiện nay so với các dân tộc văn minh và những yêu cầu xây dựng con người MỚI Nhân cách của mỗi cá nhân không phải hình thành một lúc, m ột l ần là xong mà phải diễn ra theo một quá trình dài suốt c ả m ột đời ng ười. Đương nhiên trong quá trình đó có những thời kỳ quan trọng hơn (theo quan điểm của các nhà tâm lý – nhân cách thì thời kỳ đó là trước tuổi 30). Quá trình hình thành nhân cách con người mới xã h ội ch ủ nghĩa nói chung và ở Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. a) Các giá trị đã có Những giá trị đã đạt được thể hiện ở việc từng bước tạo lập những tiền đề cho sự hình thành nhân cách xã h ội chủ nghĩa Vi ệt Nam. Lấy nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa làm ti ền đề vật chất, tiền đề tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng HCM, và tiền đề giáo dục là cải cách hệ thống giáo dục quốc dân nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mô hình nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam là “mô hình động”. Trong thời kỳ quá độ hiện nay, về đại thể, mô hình đó là: - Tự giác nâng cao trình độ lý luận Mác – Lênin đ ể hình thành th ế giới quan khoa học và phương pháp luận biện chứng.
  18. - Hăng say học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn để có năng lực thật sự trong công việc, để có sáng kiến, cải tiến công tác đ ưa đ ến năng suất, hiệu quả cao. - Không ngừng nâng cao đạo đức, lối sống trên cơ sở những chuẩn mực giá trị mới đã và đang hình thành trong xã hội. b) Các khiếm khuyết, biểu hiện lạc hậu cần khắc phục • Tiền đề vật chất - Mức sống người dân còn chưa được nâng cao; - Việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng đặc biệt là sức khỏe bà mẹ và trẻ em chưa được tốt lắm và còn chưa được quan tâm đúng mực; - Con người đang phải sống trong một môi trường tự nhiên ngày càng bị ô nhiễm; - Gia đình, nhà trường và xã hội còn mắc phải một số khiếm khuyết trong giáo dục, đào tạo, điều chỉnh, hoàn thiện nhân cách con người. - Thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang trên đà phát triển nên cũng còn khá nhiều bất cập, tình trạng lạm phát còn cao. • Tiền đề tư tưởng, giáo dục Trong lĩnh vực giáo dục: - Giáo dục và dạy học còn khá khô khan, chưa kích thích được s ự phát triển trí tuệ của trẻ - Giáo dục tâm - sinh lý và nhận thức thế giới xung quanh còn chưa được chú trọng. Trong lĩnh vực tư tưởng:
  19. - Tiền đề tư tưởng giáo dục của xã hội ta là chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hô Chí Minh chưa được tuyên truyền rộng rãi cho mọi tầng lớp nhân dân. - Tình trạng tham nhũng còn khá phổ biến trong bộ máy của Đảng và Nhà nước. - Một bộ phận nhỏ cán bộ Đảng – Nhà nước bị suy thoái về mặt đạo đức cách mạng. Tham nhũng (Ảnh minh họa) Thực trạng trong sạch trong bộ máy Nhà nước (Tranh biếm họa) c) Một số kiến nghị khác • Dựa trên tiền đề vật chất Cần bảo đảm về mặt sinh học với các yêu cầu sau: - Nâng cao mức sống người dân; - Chăm sóc tốt sức khỏe cộng đồng đặc biệt là sức khỏe bà mẹ và trẻ em; - Con người được sống trong một môi trường tự nhiên trong lành; - Gia đình, nhà trường và xă hội thực sự là môi trường tốt để giáo dục, đào tạo, điều chỉnh, hoàn thiện nhân cách con người.
nguon tai.lieu . vn